Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 129 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ..................................................................... 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 3
6. Giới hạn nghiên cứu ................................................................................................ 3
6.1. Giới hạn khách thể nghiên cứu.............................................................................. 3
6.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu ............................................................................... 4
7. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 4
8. Dự kiến cấu trúc luận văn ...................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LO ÂU TRONG HỌC TẬP ................... 6
THEO TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC ..................................................... 6
1. 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu lo âu trong học tập theo tín chỉ......... 6
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài.................................................................... 6
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước ..................................................................... 9
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài ...................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm cảm xúc ........................................................................................... 11
1.3. Hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên .................................................. 17
1.4. Lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên ................................................ 28
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên .. 33
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 39
CHƯƠNG 2 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 40
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu .......................................................................... 40
2.2. Tổ chức nghiên cứu ............................................................................................ 40


2.2.1. Giai đoạn 1: Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu về lo âu trong học tập
theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất .................................................................. 41
2.2.2. Giai đoạn 2: Nghiên cứu thực trạng lo âu trong học tập theo tín chỉ của
sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương.......................................... 42


2.2.3. Giai đoạn 3: Đề xuất một số biện pháp và tiến hành thực nghiệm nhằm
hạn chế những lo âu tiêu cực trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ
nhất................................................................................................................................ 43
2.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể .............................................................. 43
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản ................................................. 43
2.3.2. Phương pháp chuyên gia ................................................................................ 44
2.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ............................................................ 44
2.3.4. Phương pháp phỏng vấn sâu .......................................................................... 46
2.3.5. Phương pháp quan sát..................................................................................... 46
2.3.6. Phương pháp thực nghiệm ............................................................................. 47
2.3.7. Phương pháp thống kê toán học .................................................................... 51
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 53
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG LO ÂU TRONG HỌC TẬP THEO TÍN CHỈ
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG .............................................. 54
ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG ..................................................................................... 54
3.1. Thực trạng lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất
trường Đại học Hùng Vương ................................................................................... 54
3.1.1. Đánh giá chung thực trạng lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh
viên năm thứ nhất ....................................................................................................... 54
3.1.2. Mức độ biểu hiện lo âu trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất ............................................................................................................... 55
3.1.3. Biểu hiện lo âu trong học tập của sinh viên năm thứ nhất .................... 58


3.1.4. Biểu hiện trạng thái tích cực trong hoạt động học tập của sinh viên năm
thứ nhất trường Đại học Hùng Vương ................................................................... 60
3.2. Các yếu tố gây lo âu trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất ............................................................................................................... 62
3.2.1. Các yếu tố gây lo âu trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất ............................................................................................................... 62

3.2.2. So sánh các yếu tố ảnh hướng đến lo âu trong học tập theo ngành học
72
3.3. Biện pháp hạn chế lo âu tiêu cực trong hoạt động học tập theo tín chỉ
cho sinh viên năm thứ nhất ...................................................................................... 75
3.3.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho sinh viên về nội dung, ý nghĩa
của hoạt động học tập theo tín chỉ ............................................................................ 75
3.3.2. Biện pháp 2: Trao đổi kinh nghiệm học tập giữa các em sinh viên năm
cuối với sinh viên năm thứ nhất ............................................................................... 75
3.3.3. Biện pháp 3: Mở trung tâm tham vấn học đường cho sinh viên ngay tại
trường 76
3.3.4. Biện pháp 4: Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình
và các Đoàn thể nhằm giúp sinh viên hạn chế những lo âu tiêu cực trong hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất ............................................................... 77
3. 4. Kết quả thực nghiệm biện pháp 2: Trao đổi kinh nghiệm học tập giữa
các em sinh viên năm cuối với sinh viên năm thứ nhất ...................................... 77
3.4.1. Cơ sở lựa chọn biện pháp thực nghiệm ........................................................ 77
3.4.2. Khách thể thực nghiệm ................................................................................... 79
3.4.3. Kết quả thực nghiệm ........................................................................................ 79
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................................. 83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 89



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết
quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố
trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.


Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả luận văn

Trần Thị Thùy Dương


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ĐH

: Đại học

SV

: Sinh viên

ĐTB : Điểm trung bình
ĐLC : Độ lệch chuẩn
TB

: Thứ bậc

GV

: Giảng viên

TB

: Trung bình


SL

: Số lượng

TNK : Trước ngoại khóa
SNK : Sau ngoại khóa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kế hoạch tổ chức thực nghiệm thông qua................................................ 49
chương trình ngoại khóa .............................................................................................. 49
Bảng 3.1: Tổng hợp mức độ lo âu trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ ................................... 54
Bảng 3.3: Mức độ biểu hiện lo âu trong hoạt động thảo luận nhóm của sinh viên
năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ ............................................ 56
Bảng 3.4: Mức độ biểu hiện lo âu trong hoạt động tự học của sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ ........................................................... 57
Bảng 3.5: Biểu hiện mức độ lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Hùng Vương .............................................................................. 59
Bảng 3.7: Các yếu tố gây lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ
nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ ........................................................... 62
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của yếu tố “kiểm tra thi cử” đến lo âu trong hoạt động học
tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương- Phú Thọ ................ 63
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của yếu tố “phương pháp, phương tiện học tập” đến lo âu
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng VươngPhú Thọ ......................................................................................................................... 65
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của yếu tố “các mối quan hệ ở môi trường đại học” đến lo
âu trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng
Vương- Phú Thọ........................................................................................................... 66
Bảng 3.11: Ảnh hưởng của yếu tố “Bản thân” đến lo âu trong hoạt động học tập

của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương- Phú Thọ ...................... 68
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của yếu tố “nội dung, chương trình học tập” đến lo âu
trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng VươngPhú Thọ ......................................................................................................................... 69


Bảng 3.13: Tương quan giữa các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến lo âu trong học tập
theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ 71
Bảng 3.15: Nhu cầu được trao đổi kinh nghiệm học tập của sinh viên năm thứ nhất
trường Đại học Hùng Vương ...................................................................................... 78
Bảng 3.16: Phân bố khách thể thực nghiệm .............................................................. 48
Bảng 3.17: Bảng so sánh biểu hiện mức độ lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương trước và sau ngoại khóa............. 79
Bảng 3.18: : Bảng so sánh biểu hiện trạng thái tích cực trước và sau ngoại khóa
trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương
........................................................................................................................................ 81


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cảm xúc, tình cảm là sự biểu thị thái độ riêng của mỗi cá nhân đối với
hiện thực khách quan và đối với bản thân có liên quan đến việc thoả mãn hay
không thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, đời sống
tinh thần luôn là một mặt không thể thiếu. Đối với mỗi cá nhân, những cảm
xúc của bản thân như là sự thoải mái vui vẻ thì những hành vi theo đó sẽ luôn
đi theo hướng tích cực và ngược lại.
Lo âu là một cơ chế sinh lý bình thường của con người được hình thành để
giúp cơ thể đối phó với các mối đe dọa. Tuy nhiên, những lo âu khi ở một
mức độ cao sẽ gây ra những hành động nguy hiểm, đặc biệt khi lo âu trong
một thời gian dài. Trong hoạt động học tập, nếu như lo âu càng ngày càng
phát triển mà không có hướng giải quyết tốt thì sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tiêu

cực. Trong cuộc sống hàng ngày, ai cũng có những lo âu, đặc biệt là các em
sinh viên năm thứ nhất khi mới bước chân vào đại học thì những lo âu ấy sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động học tập của các em. Những lo âu ấy là một
trạng thái rất bình thường, nó có thể có những tác động tiêu cực như: làm các
em nản chỉ, chán học, thường xuyên mệt mỏi….. Tuy nhiên lo âu cũng có thể
có những tác động tích cực khi các em lấy đó làm động lực vươn lên. Khi xuất
hiện các trạng thái lo âu, bên cạnh sự chán nản thì nhiều em lấy đó làm động
lực để cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập. Hơn nữa, các nhiệm vụ học tập
khó khăn có thể gây nên những lo âu lúc ban đầu nhưng nếu có các biện pháp
phù hợp thì các em có thể biến các nhiệm vụ ấy trở nên thú vị hơn, kích thích
nhu cầu tìm hiểu cái mới, những kiến thức mới ở đại học mà ở phổ thông các
em chưa được tiếp cận. Như vậy, lo âu là một dạng cảm xúc có tác động cả về
mặt tích cực và tiêu cực đến hoạt động học tập của sinh viên

1


Đối với sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương - Phú Thọ
khi các em mới bước chân vào một môi trường hoàn toàn mới khác so với thời
phổ thông trung học, lo âu luôn là một điều không tránh khỏi. Khác với thời
kỳ học phổ thông, các em có sự thay đổi hoàn toàn về nội dung, phương pháp,
phương tiện học tập, cách kiểm tra đánh giá và những mối quan hệ mới trên
giảng đường. Các kiến thức, kỹ năng mà các em lĩnh hội không còn là những
kiến thức đơn thuần như thời phổ thông mà là những kiến thức làm hành trang
cho các em bước chân vào cuộc sống nghề nghiệp sau này. Bước chân vào
giảng đường, các em phải xa nhà, sống cuộc sống tự lập, luôn mang trong
mình những kỳ vọng của cha mẹ, những lo lắng của bản thân về ngành nghề
mình đã chọn và những thay đổi trong hoạt động học tập luôn khiến sinh viên
năm thứ nhất cảm thấy lo lắng mình sẽ phải làm như thế nào. Để hoàn thành
tốt các nhiệm vụ đó đòi hỏi các em sinh viên sau khi nhập học phải kiểm soát

cảm xúc của bản thân, biến nhứng lo âu của mình thành động lực học tập.
Chính vì lo âu có cả hai mặt tích cực và tiêu cực như vậy nên từ trước
đến nay nó đã được một số tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu trên cả hai
bình diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên nghiên cứu thực tiễn về cảm xúc lo
âu trong học tập chưa nhiều, đặc biệt nghiên cứu nó ở một địa bàn cụ thể như
trường Đại học Hùng Vương- Phú Thọ thì chưa có công trình nào.
Xuất phát từ các lý do trên tôi lựa chọn đề tài: “Lo âu trong học tập
theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương- Phú
Thọ”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng lo âu trong học tập theo tín
chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ, từ đó
đề xuất một số biện pháp hạn chế những lo âu tiêu cực góp phần nâng cao
hiệu quả học tập cho các em.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
2


Biểu hiện và mức độ lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm
thứ nhất.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu 238 sinh viên năm thứ nhất khối sư phạm và10 giảng viên
4. Giả thuyết nghiên cứu
4.1. Lo âu trong học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Hùng Vương ở mức độ trung bình; có sự khác biệt về mức độ biểu hiện lo âu
trong học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương theo
ngành học
4.2. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lo âu của sinh viên trong học tập đó
là: những kỳ vọng của cha mẹ, giới tính, ngành học, năng lực của bản thân,

các mối quan hệ mới trong môi trường mới, trong đó yếu tố kỳ vọng của cha
mẹ có ảnh hưởng nhiều nhất
4.3. Có thể kiểm soát lo âu trong học tập của sinh viên năm thứ nhất trường
Đại học Hùng Vương theo hướng tích cực hơn nếu có biện pháp phù hợp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài như: lo
âu, lo âu trong học tập, biểu hiện của lo âu, các tác nhân gây ra lo âu trong học
tập… để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Khảo sát thực trạng các biểu hiện và mức độ lo âu trong học tập
theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương và các
yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tác động để hạn chế
lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Hùng Vương.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Giới hạn khách thể nghiên cứu
3


Là những sinh viên năm thứ nhất của Khoa giáo dục tiểu học và mầm
non thuộc hệ sư phạm đại học của trường Đại học Hùng Vương – Phú Thọ.
6.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu
- Lo âu là một dạng cảm xúc, vì thế thuật ngữ “lo âu” và và “cảm xúc lo
âu” được chúng tôi dùng trong luận văn này có ý nghĩa tương đồng nhau.
- Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ nghiên cứu những
lo âu về mặt tâm lý chứ không nghiên cứu những lo âu về mặt sinh lý.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nguyên tắc phương pháp luận
7.1.1. Nguyên tắc tiếp cận hoạt động
Nguyên tắc này được sử dụng để nghiên cứu lo âu thông qua các hoạt

động của sinh viên, đặc biệt là hoạt động học tập theo tín chỉ. Mức độ lo âu
trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên được thể hiện thông qua
hoạt động của họ. Nghiên cứu mức độ lo âu của sinh viên là phải thông qua
các hoạt động học tập của sinh viên, điểu đó có nghĩa là đề tài được nghiên
cứu thông qua việc quan sát, đánh giá các hoạt động học tập của sinh viên
7.1.2. Nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc này được sử dụng để xem xét những lo âu của sinh viên
theo tiến trình vận động và phát triển. Những cảm xúc lo âu của sinh viên
được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động học tập.Việc xem xét
những lo âu của sinh viên phải từ những thay đổi từ thấp đến cao, thông qua
sự thay đổi của các hoạt động học tập của sinh viên.
7.1.3. Nguyên tắc tiếp cận hệ thống
Theo quan điểm của Tâm lý học, quá trình học của con người là một hệ
thống cấu trúc bao gồm: các thành tố vận động, phát triển trong mối quan hệ
biện chứng không thể tách rời. Từ những quan điểm đó, đối tượng nghiên cứu
4


của đề tài sẽ được tiến hành và xem xét giải quyết một cách toàn diện và đồng
bộ. Nguyên tắc này được sử dụng để tiếp cận những lo âu của sinh viên trong
hoạt động học tập theo tín chỉ theo nhiều góc độ khác nhau, sự kết hợp của
các ngành khoa học khác nhau.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.4. Phương pháp quan sát
7.2.5. Phương pháp chuyên gia
7.2.6. Phương pháp thực nghiệm
7.2.7. Phương pháp thống kê toán học

8. Dự kiến cấu trúc luận văn
Luận văn ngoài các phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, danh
mục viết tắt thì cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh
viên đại học
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng lo âu trong học tập theo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất trường Đại học Hùng Vương

5


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LO ÂU TRONG HỌC TẬP
THEO TÍN CHỈ CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
1. 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu lo âu trong học tập theo tín chỉ
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Lo âu là một trạng thái tâm lý rất bình thường của con người, ai cũng có
những lo toan trong cuộc sống của mình. Đã có rất nhiều các nhà tâm lý học
nước ngoài nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
- Hướng nghiên cứu về nguyên nhân gây ra lo âu trong học tập
Khi nghiên cứu nguyên nhân gây nên những lo âu trong học tập của
sinh viên, các nhà Tâm lý học phương Tây đã đưa ra rất nhiều lý do khiến con
người có những lo âu như nỗi lo cuộc sống, công việc hàng ngày, thích ứng
với môi trường mới... Đối với các em sinh viên khi mới bước chân vào đại
học, khi phải đối mặt với cuộc sống tự lập, sự thay đổi môi trường học tập là
điều luôn khiến các em suy nghĩ và lo lắng. Các em phải làm quen mới thầy
cô bạn bè mới, cách thức, phương pháp, nội dung học tập hoàn toàn mới là so
với thời phổ thông.
Nghiên cứu về những tác nhân gây nên lo âu cho các em sinh viên, đó
là những nỗi lo về điểm số, những bài tập về nhà và cả những kỳ vọng mà cha

mẹ thầy cô đặt niềm tin ở mình (De Anda và cộng sự, 2000; Lohman và
Jaravis, 2000) [55] [61] . Việc có những thay đổi trong vấn đề học tập gây nên
những lo âu cho sinh viên như vấn đề về thành tích học tập, việc phải cân
bằng giữa học tập và cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hay việc giao tiếp với
thầy cô bạn bè (Byrne và cộng sự, 2007) [53]. Bên cạnh những lý do trên, các
em sinh viên mới bước chân vào đại học còn phái đối mặt với một lượng kiến
thức hoàn toàn mới và nhiều, các phương pháp dạy học khác lạ , các em

6


không tự bố trí sắp xếp được thời gian hợp lý cho việc học tập (Burnett và
Fanshawe, 1997) [51].
Như vậy, tất cả các nghiên cứu của các tác giả trên đều tìm ra những
nguyên nhân tương đối giống nhau về cảm xúc lo âu trong học tập, đó là
những nguyên nhân về sự thay đổi môi trường, những mối quan hệ mới trên
giảng đường và trong cuộc sống.
- Hướng thứ hai: Nghiên cứu về ảnh hưởng của lo âu đến hoạt động
học tập
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của lo âu đến hoạt động học tập, các nhà
tâm lý học phương Tây đã chỉ ra cả những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực của
lo âu đến hoạt động học tập. Phần lớn các nghiên cứu đều tập trung đến những
mặt tiêu cực của lo âu, tuy nhiên Morlock (1984); Irvine và Wilson (1994);
Priest và Gass (2005) đã xây dựng các “chương trình giáo dục phiêu lưu”, các
chương trình này nhằm mục đích lấy những thách thức trong chương trình để
kích thích quá trình học tập, điều đó cũng có nghĩa là các nhà tâm lý học
hướng đến những mặt tích cực của cảm xúc lo âu từ đó làm động cơ kích thích
hoạt động học tập của học sinh, sinh viên [63], [60], [64] .
Một kết quả nghiên cứu nữa được các tác giả thực nghiệm trên chuột,
bằng việc quan sát tốc độ di chuyển của nó trong một mê cung, nó phải trải

qua những khó khăn trong mê cung, nếu đi đúng đường sẽ nhận được phần
thưởng, nhưng khi đi sai đường thì sẽ bị điện giật. Tuy nhiên khi sốc điện với
mức độ vừa phải thì kích thích chuột tìm đường đi đúng, nhưng kích thích quá
mạnh sẽ làm chuột suy giảm khả năng tìm đường. Sau khi làm thực nghiệm
trên, Yerkes và Dodson (1980) [61] đã đưa ra kết luận rằng khi bị kích thích
quá mạnh thì hoạt động học tập sẽ bị giảm sút. Từ những nghiên cứu này, các
nhà tâm lý học đã tiếp tục áp dụng trong nhiều mô hình học tập, một trong
những mô hình phổ biến nhất là “mô hình chữ U ngược” (Benson và Alen,
7


1980) , trong đó có phiên bản CSP ( comfort – stretch – panic) [50]. Ở đây,
mô hình học tập được phân làm ba ranh giới rõ ràng từ thoải mái đến căng
thẳng rồi đến hoảng loạn, tuy nhiên thực tế thì việc phân biệt từ giai đoạn này
sang giai đoạn khác là khó nhận biết.
Từ những thực nghiệm của Yerkes và Dodson thì Tuson (1994) cũng
đưa ra một mô hình học tập có tên là “mô hình ba vòng tròn đồng tâm”. Mô
hình bao gồm ba vòng tròn đại diện cho ba vùng là “vùng thoải mái”, “vùng
thách thức” và “vùng hoảng loạn” [68]. Nhà tâm lý học Edmondson (2008)
cũng đưa ra “mô hình bốn góc phần tư”, trong đó có sự phân biệt giữa các khu
vực bao gồm: thờ ơ, thoải mái, học tập và lo lắng [56].
Tất cả những mô hình trên đều dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm
ban đầu từ Yerkes và Dodson đó là kết quả học tập của người học sẽ giảm nếu
gặp phải những kích thích mạnh. Ngược lại, tác giả Mortlock (1984) lại cho
rằng có những “tai nạn bất ngờ” sẽ giúp người học có thêm nhiều kinh
nghiệm, tuy nhiên nếu kích thích quá mạnh thì người học sẽ có phản ứng tiêu
cực [63].
Bên cạnh đó, các nghiên cứu lâm sàng của Buchanan và Loavallo
(2001) cũng cho kết quả thấy sự lo âu có thể ảnh hưởng đến việc học tập [52].
Khi lo âu, tuyến thận tiết ra hoocmon cortisol, nếu lo âu ở mức độ thấp thì sẽ

giúp tăng khả năng nhận thức và ngược lại lo âu ở mức độ cao sẽ làm suy
giảm khả năng nhận thức.
Một số nghiên cứu khác của các tác giả đã tìm ra những ảnh hưởng tiêu
cực của lo âu đến hoạt động học tập. Seiip (1991), Snow và Swanson (1992),
Warr và Bunce (1995) cho rằng việc lo âu trong hoạt động học tập chính là
dấu hiệu của quá trình học tập kém đi [66], [67], [69]. Tương tự, Eysenck
(1979) cũng cho rằng con người sẽ có những suy nghĩ tiêu cực hơn khi sự lo
âu xuất hiện và có thể gây thất bại trong hoạt động học tập [57]. Một số tác
8


giả còn cho rằng lo âu có thể gây ra phản ứng tiêu cực như giảm chức năng
của não và làm chậm quá trình nhận thức (Goleman, 2004; Abbott, 1994;
Calabrese và Roberts, 2002) [58][49][54] .
Trong hướng nghiên cứu này, tất cả các nghiên cứu của các tác giả nêu
trên đều nghiên cứu hai mặt ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của lo âu đến hoạt
động học tập. Mặt tích cực được thể hiện khi lo âu xuất hiện với cường độ nhẹ
sẽ kích thích hoạt động học tập của người học; ngược lại lo âu với cường độ
mạnh sẽ làm suy giảm khả năng nhận thức của người học.
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Nếu như các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài tập trung vào một
số khía cạnh của lo âu thì ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu
về lo âu theo cách tiếp cận riêng. Khi sinh viên bước chân vào trường đại học
thì ngoài những lo âu cuộc sống hàng ngày thì những lo âu trong hoạt động
học tập ở một môi trường mới là một vấn đề được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu.
- Hướng nghiên cứu về nguyên nhân gây ra lo âu, căng thẳng trong
hoạt động học tập
Vấn đề này được thể hiện trong công trình của tác giả Nguyễn Thị
Hằng Phương (2008), Trong công trình của mình, tác giả đã đưa ra kết luận

học tập là một trong những nguyên nhân gây ra cảm xúc lo âu, tuy nhiên tác
giả lại chưa có những nghiên cứu riêng tập trung vào lo âu trong hoạt động
học tập [33].
Tác giả Nguyễn Bá Phu (2016) với công trình “Kỹ năng quản lý cảm
xúc lo âu trong hoạt động học tập của sinh viên Đại học Huế” đã đưa ra kết
luận: kỹ năng quản lý cảm xúc lo âu trong hoạt động học tập của sinh viên chỉ
ở mức trung bình, còn nhiều sinh viên sử dụng các kỹ năng quản lý chưa hiệu

9


quả. Tuy nhiên đề tài tập trung phần nhiều vào tìm hiểu kỹ năng quản lý cảm
xúc lo âu của sinh viên và đưa ra biện pháp khắc phục [32].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về cảm xúc lo âu thì một dạng cảm
xúc khác trong học tập cũng được một số tác giả nghiên cứu đó là vấn đề căng
thẳng trong hoạt động học tập. Tác giả Phạm Thanh Bình (2005) với nghiên
cứu “Biểu hiện căng thẳng trong học tập môn toán của học sinh trung học phổ
thông Yên Mỗ Ninh Bình”. Kết quả cho thấy: căng thẳng của các em học sinh
tăng dần theo khối lớp và mức độ căng thẳng của các em nữ cao hơn các em
nam. Từ đó tác giả đã chỉ ra nguyên nhân và đưa ra các biện pháp thực
nghiệm nhằm hạn chế sự căng thẳng trong hoạt động học tập của các em học
sinh, đặc biệt ở các em học sinh cuối cấp [4].
Với đối tượng là sinh viên thì tác giả Lại Thế Luyện đã có nghiên cứu
về “Biểu hiện căng thẳng của sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí
Minh” đã cho thấy sinh viên bị căng thẳng trong hoạt động học tập do sức ép
của các kỳ thi, chương trình học tập dẫn đến kết quả học tập của các em kém
đi [24].
Tác giả Nguyễn Hữu Thụ (2009) với nghiên cứu “Nguyên nhân dẫn đến
căng thẳng trong học tập của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội” đã rút ra kết
luận phần lớn các em sinh viên đều bị căng thẳng trong học tập với mức độ

nặng do khả năng ứng phó của các em, do môi trường học tập và một số
nguyên nhân tâm lý khác [41].
Tác giả Đinh Đặng Hòe (2000) khi nghiên cứu về strees thì cho rằng:
nguyên nhân dẫn đến strees là do các sang chấn tâm lý duy nhất gây ra, cũng
có thể là do nhiều sang chấn tâm lý kết hợp với nhau gây ra. Tuy nhiên, tác
giả cũng cho rằng có thể sang chấn tâm lý là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh
nhưng cũng có thể chỉ là nhân tố thúc đẩy cho một bệnh cơ thể hoặc một bệnh
loạn thần mới phát sinh [13].
10


- Hướng nghiên cứu về ảnh hưởng của lo âu đến hoạt động học tập
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của strees đến hoạt động học tập của học sinh
tiểu học, tác giả Vũ Thu Hà (2012) cho rằng: strees ảnh hưởng đến kết quả
học tập, sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, mối quan hệ bạn bè và mối
quan hệ với thầy cô của học sinh tiểu học [16].
Tóm lại, các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam đều
tập trung vào hướng nguyên nhân gây ra lo âu, rèn luyện kỹ năng ứng phó với
những lo âu, căng thẳng trong học tập hoặc là mới sáng tỏ một phần nguyên
nhân, mức độ biểu hiện của lo âu trong học tập mà chưa tập trung hoàn toàn
vào vấn đề lo âu trong hoạt động học tập của sinh viên. Đặc biệt với đặc thù ở
một số trường đại học đang đào tạo theo tín chỉ khiến cho các em sinh viên
càng cảm thấy lo âu khi bắt đầu bước chân vào học ở những trường này.Tuy
nhiên với hướng nghiên cứu về ảnh hưởng của lo âu đến hoạt động học tập
theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất thì hầu như chưa tìm thấy công trình
nào nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu lo âu trong
hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên năm thứ nhất là một vấn đề mang
ý nghĩa cấp thiết.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm cảm xúc

1.2.1.1. Khái niệm cảm xúc
Theo tác giả Vũ Dũng (2008): “Đặc điểm của con người, được đặc
trưng bởi nội dung, tính chất và động thái tình cảm và cảm xúc của anh ta” [5,
tr.75]. Vì vậy cảm xúc là vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra các
khái niệm:
Với tác giả Rubinstein (1960) thì cảm xúc ở đây là một sự trải nghiệm
có liên quan đến các trạng thái vui, buồn, giận dữ. . . và nó có thể thay đổi tùy

11


theo động cơ của cá nhân đó, từ đó có thể thấy các biểu hiện của cảm xúc
mang tính xã hội [34].
Theo tác giả Mayer J.D., Caruso D.R., Peter Salovery (2000): “Cảm
xúc là một hệ thống đáp lại của cơ thể giúp điều phối những thay đổi về sinh
lý, tri giác, kinh nghiệm, nhận thức và các thay đổi khác thành những trải
nghiệm mạch lạc về tâm trạng và tình cảm, chẳng hạn như hạnh phúc, tức
giận, buồn chán, ngạc nhiên...” [25, tr.4] .
Tác giả Nguyễn Khắc Viện (2011) đã viết: “Cảm xúc là phản ứng rung
chuyển của con người trước một kích động vật chất hoặc một sự việc gồm hai
mặt: Những phản ứng sinh lý do thần kinh thực vật, như tim đập nhanh, toát
mồ hôi, hoặc run rẩy, rối loạn tiêu hóa; phản ứng tâm lý, qua những thái độ,
lời nói, hành vi và cảm giác dễ chịu, khó chịu, vui sướng, buồn khổ có tính
bột phát, chủ thể kiềm chế khó khăn. Lúc phản ứng chưa phân định gọi là cảm
xúc, lúc phân định rõ nét gọi là cảm động, lúc biểu hiện với cường độ cao gọi
là cảm kích” [45, tr.41] .
Tác giả Trần Trọng Thủy (2002) cho rằng: “Cảm xúc là một quá trình
tâm lý, biểu hiện thái độ của con người hay con vật với sự vật, hiện tượng có
liên quan đến nhu cầu của cá thể đó, gắn liền với phản xạ không điều kiện, với
bản năng” [40, tr.80] .

Từ những quan điểm trên có thể thống nhất một quan điểm chung về
cảm xúc đó là: “Cảm xúc là một quá trình tâm lý biểu hiện sự rung cảm của
mỗi cá nhân với những sự vật hiện tượng có liên quan đến nhu cầu, động cơ
của họ” .
1.2.1.2. Phân loại cảm xúc
Tác giả Goleman (2007) cho rằng: “có hàng trăm xúc cảm với những
kết hợp biến thể và biến đổi của chúng. Những sắc thái của chúng trên thực tế
có nhiều đến mức chúng ta không đủ từ để chỉ”. Theo ông, các xúc cảm mà
12


ông đưa ra gồm rất nhiều và những biểu hiện thường xuyên là giận, buồn, sợ,
khoái, ngạc nhiên, yêu, ghê tởm, xấu hổ [10, tr.496].
Ở Việt Nam, việc phân loại cảm xúc cũng được một sô nhà nghiên
cứu đề cập đến: Theo tài liệu “Kỹ năng sống cho học sinh trong trường giáo
dưỡng (SHARE, 2010), cảm xúc được chia thành ba loại: cảm xúc tích cực,
cảm xúc trung tính và cảm xúc tiêu cực [35]. Cảm xúc tích cực là những
cảm xúc thôi thúc con người sáng tạo, tạo nghị lực để hoạt động, giúp con
người có ý chí phấn đấu. Cảm xúc tiêu cực là những cảm xúc làm con
người chán nản không muốn hoạt động, mất tự tin vào bản thân, những cảm
xúc này có thể gây ra những hậu quả không tốt và thiếu kiểm soát. Cảm xúc
trung tính là những cảm xúc chỉ mang tính tương đối khi mà cảm xúc diễn
ra không giúp con người có những hành động tích cực nhưng cũng gây ảnh
hưởng tiêu cực gì.
Một số tác giả ở Việt Nam cũng có cách phân chia cảm xúc dựa theo sự
thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu của bản thân con người đó là cảm xúc
âm tính và cảm xúc dương tính. Cảm xúc dương tính là những cảm xúc thể
hiện sự thỏa mãn của con người làm thúc đẩy các hoạt động. Cảm xúc âm tính
là những cảm xúc thể hiện sự không thỏa mãn của con người làm giảm ý chí
hoạt động của con người. Chúng tôi chũng nhận thấy cách phân chia này hợp

lý hơn vàcũng tiến hành nghiên cứu theo hướng đó.
Trên đây là một số cách phân loại của một số tác giả tuy nhiên chỉ
mang tính chất tương đối vì cảm xúc con người là cả một quá trình diễn ra,
không rạch ròi danh giới giữa các loại cảm xúc.
1.2.2. Lo âu
1.2.2.1. Khái niệm lo âu
Hiện nay chưa có một khái niệm rõ ràng về lo âu, chỉ có một số quan
niệm về thuật ngữ lo âu. Một số người cho rằng lo âu là hiện tượng phản ứng
13


tự nhiên (bình thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe
dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm cách vượt qua, tồn tại vươn
tới. Lo âu là một tín hiệu báo động báo trước một nguy hiểm sắp xảy đến, cho
phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương đầu với sự đe dọa.
Theo một số bác sĩ: Lo âu biệu hiện ở tâm trạng bất an, lo sợ mơ hồ,
kèm theo đó là sự gia tăng các hoạt động tự động như: vã mồ hôi, đau đầu,bồn
chồn, khó chịu trong bụng dẫn đến đứng ngồi không yên.
Một số quan niệm khác lại cho rằng lo âu như một sự kiện kích thích
những yêu cầu, còn một số khác thì cho rằng lo âu là một phản ứng của con
người khi gặp phải những khó khăn. Các quan niệm trên nhìn chung đều có
sự tương đồng đó là lo âu nảy sinh khi con người gặp phải những vấn đề khó
khăn hay nguy hiểm.
Tác giả Lê Thị Minh Tâm (2013) đã dẫn lời của bác sĩ chuyên khoa
thần kinh Ernest Jones cho rằng: “Lo âu là một trong những trạng thái xúc
cảm, tình cảm của con người, phản ứng trở lại với những tình huống hay sự
kiện xảy ra đối với chúng ta. Có nhiều trạng thái lo âu khác nhau, những trạng
thái khác nhau của lo âu bao gồm: sợ; kinh sợ; khiếp sợ; hoảng sợ; sợ hãi; lo
lắng và lo âu. Sợ, sợ hãi được coi là sự đáp ứng với kích thích đe dọa từ bên
ngoài, là nguy hiểm đang có thực diễn ra, có mối quan hệ rõ ràng giữa đối

tượng với bản thân. Lo âu chỉ là sự lo sợ về một đối tượng không rõ ràng hoặc
không cụ thể. Lo âu hay lo lắng cũng giống như sợ nhưng không có sự đe dọa
rõ ràng, không cân xứng giữa kích thích bên ngoài và biểu hiện tâm thần cơ
thể” [36, tr.200].
Tác giả Harris và Coy (2003) cho rằng, lo âu là một trạng thái cảm xúc
của con người bao gồm sự sợ hãi và không chắc chắn, nó xuất hiện khi bản
thân nhận thấy sự kiện là một khó khăn hay là một sự đe dọa [59].

14


Tác giả Đinh Đăng Hòe (2000) quan niệm: “Lo âu là một tín hiệu báo
động, nó báo trước một nguy hiểm sắp xảy đến, cho phép con người chuẩn bị
mọi biện pháp để đương đầu với đe dọa” [13, tr.37].
Còn tác giả Pierre Daco (2004) lại cho rằng: “Lo âu là một trạng thái
bất ổn của nội giới, mơ hồ và âm ỉ. Lo âu là sự cảm nhận một sự bất an sâu
lắng mà không có nguyên nhân khách quan nào. Tình trạng lo âu thường được
tìm thấy trong sự trầm uất, suy nhược tinh thần và phần lớn các rối loạn tinh
thần. Đẩy cao thêm một bậc, lo âu sẽ trở thành sự sợ hãi” [31, tr.598].
Tác giả Võ Văn Bản (2006) đã dẫn lời của Fiona và Graham Burrows:
Lo âu thường gặp là một cảm giác sợ hãi mơ hồ, khó chịu, lan tỏa cùng với rối
loạn cơ thể ở bất cứ bộ phận nào, ít nhất trong thể nhẹ và nhất thời, chúng ta
thường thấy nó mang tính chu kì. Lo âu có thể là hoạt động thích nghi như là
một tín hiệu báo động báo trước sự đe dọa bên ngoài hoặc bên trong và hậu
quả là tạo ra hoạt động thích hợp [1].
Tác giả Nguyễn Minh Tuấn (2002) cho rằng: “Lo âu là một rối loạn có
cấu trúc đơn sơ thể hiện ra bên ngoài bằng một mối lo âu không đối tượng, lan
tỏa và dai dẳng” [42, tr.11].
Còn tác giả Nguyễn Khắc Viện (2001) quan niệm: “Lo âu là là sự chờ
đón và suy nghĩ về một điều gì đó mà không chắc có thể đối phó được gọi là

lo. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi tâm lý bị rối loạn, một triệu chứng
thường gặp là mối lo nhưng cụ thể không thật rõ là lo về cái gì, sợ về cái gì,
đó là hãi” [45, tr.190].
Như vậy các quan điểm về lo âu của các tác giả trên có một số điểm
tương đồng và được tóm lại như sau: Lo âu là cảm xúc tự nhiên của con
người, được xuất hiện khi con người gặp những khó khăn hay bị đe dọa, cho
phép con người dùng mọi biện pháp để đối phó.

15


Trên cơ sở tiếp thu quan niệm của các tác giả trên, chúng tôi quan niệm:
lo âu là một loại cảm xúc âm tính thể hiện thái độ tiêu cực của con người khi
gặp khó khăn và đe dọa.
1.2.2.2. Phân biệt giữa lo âu bệnh lý và lo âu bình thường
Tất cả chúng ta ai cũng trải qua cảm giác lo âu, bất an trong cuộc sống
hàng ngày khiến chúng ta cảm thấy bồn chồn, đứng ngồi không yên, tuy nhiên
cũng cần phân biệt rõ những lo âu bình thường của mỗi người với những lo âu
khi trở thành bệnh lý, những rối loạn tâm thần
Trước hết lo âu thông thường là những tín hiệu cảnh báo cho chúng ta
những điều nguy hiểm hay một khó khăn nào đó trong cuộc sống đang đến
hoặc có thể đến với mỗi chúng ta, điều đó cũng có nghĩa chúng ta sẽ phải có
những suy nghĩ, những chuẩn bị để ứng phó với chúng. Những chủ đề mà lo
âu thông thường gặp phải đó là những khó khăn trong công việc làm ăn, học
tập. Những lo lắng này chỉ mang tính chất nhất thời và sẽ biến mất khi được
giải quyết, không có hoặc ít có những triệu chứng thần kinh thực vật (mạch
nhanh, thở gấp, khô miệng, run rẩy, bất an. . . ). Cùng quan điểm đó, tác giả
Nguyễn Thị Hồng Khanh (2007) cũng cho rằng: “Trong cuộc sống thường
ngày, bất kể ai cũng đều trải qua sự lo lắng, nghĩ suy, chẳng hạn lo lắng trước
khi vào mùa thi cử ăn không ngon ngủ không yên. . .” và “ Những lo nghĩ mà

không phức tạp chỉ là tạm thời trong cuộc sống gọi là lo lắng đời thường. Có
thể chúng nảy sinh phản ứng áp lực nhưng không hề đáng sợ. Con người hiện
đại với tiết tấu dồn dập của cuộc sống ít nhiều có sự thể nghiệm này, và sự thể
nghiệm này chóng đến chóng đi, chỉ cần có sách lược cơ bản hòa giải áp lực
thì có thể xua tan nỗi phiền muộn lo lắng” [19, tr.117].
Như vậy đối với lo âu bệnh lý, đó là sự lo âu quá mức hoặc dai dẳng
không tương xứng vói những đe dọa hay khó khăn được cảm thấy, gây ảnh
hưởng đến hoạt động của cá nhân kèm theo những suy nghĩ và hành động vô
16


lý. Những lo âu này thường không có một chủ đề rõ ràng, mơ hồ và nó kéo
trong một thời gian dài với nhiều triệu chứng thần kinh thực vật.
1.2.2.3. Phân biệt lo âu với căng thẳng, stress
Tác giả Vũ Dũng (2008) cho rằng “Rối loạn lo âu là rối loạn mà người
bệnh không thể kiểm soát được, biểu hiện bền vững và mang tính lan tỏa,
thậm chí có thể xảy ra dưới dạng kịch phát” [5, tr.689]. Cũng theo tác giả, có
các loại rối loạn lo âu đó là: rối loạn lo âu ám ảnh sợ, rối loạn ám ảnh nghi
thức và các rối loạn khác: rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn lo
âu kết hợp trầm cảm [5].
Cũng theo tác giả Vũ Dũng (2008): căng thẳng tâm lý là “Trạng thái
tâm lý (tinh thần) được chế định bởi sự đoán định trước (thấy trước) các sự
kiện không thuận lợi. Căng thẳng tâm lý xảy ra kèm theo cảm giác không tiện
lợi chung, lo lắng, tỉnh thoảng là sợ hãi. Trong sự khác biệt với lo lắng, căng
thẳng tâm lý là sự chuẩn bị nắm vững, làm chủ tình huống, làm chủ hoàn cảnh
tác động lên nó theo một cách thức cụ thể” [5, tr.78]
Khi nghiên cứu về “stress”, tác giả Vũ Dũng (2008) đã dẫn lời của H.
Selye: “Stress là chỉ các trạng thái căng thẳng tâm lý trong việc thực hiện các
hoạt động ở các điều kiện phức tạp và xuất hiện như là sự trả lời đối với các
kích thích quá mức – tác nhân gây stress. Sau này khái niệm này đã được

dung để mô tả trạng thái của cơ thể trong những điều kiện kích thích dưới góc
độ tâm lý học và sinh lý học” [5]
Như vậy, từ các khái niệm trên, theo giới hạn của luận văn thì đề tài chỉ
nghiên cứu mức độ lo âu về mặt tâm lý trong học tập theo tín chỉ của sinh viên
năm thứ nhất.
1.3. Hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên
1.3.1. Hoạt động học tập

17


×