Tải bản đầy đủ (.doc) (183 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ THỰC THI QUYỀN lực CHÍNH TRỊ của NHÂN dân LAO ĐỘNG TRONG TIẾN TRÌNH đổi mới hệ THỐNG CHÍNH TRỊ của nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.36 KB, 183 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài nghiên cứu
Quá trình xây dựng CNXH là quá trình thiết định một chế độ xã hội
có khả năng mang lại quyền dân chủ chân chính của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới,
Đảng ta đã xem việc từng bước hình thành nền dân chủ XHCN vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của toàn bộ quá trình đổi mới.
Việc hiện thực hóa quan điểm chỉ đạo đó đã mang lại những thắng
lợi đáng kể: kinh tế tăng trưởng nhanh; ổn định chính trị được giữ vững;
nhiều quan hệ xã hội lành mạnh từng bước được xác lập... Kết quả tổng hợp
của toàn bộ những thay đổi tích cực đó là đất nước đã ra khỏi tình trạng
khủng hoảng về kinh tế- xã hội, những tiền đề để chuyển sang giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được tạo ra.
Trong khi khẳng định những thành quả to lớn trên đây, chúng ta
cũng thấy rằng con đường tiến lên của quá trình đổi mới không bằng phẳng
và đồng đều trên mọi lĩnh vực. Xét riêng trên lĩnh vực chính trị, Hội nghị
lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng, một mặt, đã
khẳng định rằng dân chủ trên lĩnh vực chính trị có bước tiến quan trọng;
mặt khác, cũng thấy rõ tình trạng quan liêu còn nghiêm trọng, việc phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình tham gia xây dựng chính
quyền, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức của nhà nước cũng như tự
bản thân nhân dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân; sống, làm việc theo
Hiến pháp, pháp luật... còn nhiều hạn chế.
Tình hình đó có nguy cơ tăng lên dưới tác động của những mặt trái
thuộc cơ chế thị trường. Bên cạnh mặt tích cực là cơ bản, mà chính vì vậy
chúng ta sử dụng như một đòn xeo để thực hiện bước quá độ lên CNXH,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cơ chế thị trường cũng dễ sản sinh ra lớp

1



người coi lợi ích vật chất - kinh tế là tất cả mà thờ ơ, lãnh đạm về chính trị.
Hiện tượng tiêu cực đó mà gia tăng có thể làm cho quá trình đổi mới đi
chệch hướng.
Bởi vậy, tích cực hóa hoạt động chính trị của công dân thông qua
việc nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của họ trở thành vấn đề
cấp bách ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, vấn đề quyền lực nói chung, quyền lực chính trị nói riêng đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà
khoa học của khoa học xã hội và nhân văn trong nước và trên thế giới.
Quan điểm của các nhà lý luận phương Tây về quyền lực nói chung,
về quyền lực chính trị nói riêng thường dựa trên sự tuyệt đối hóa các quyền
tự do cá nhân. Họ thường lẩn tránh việc làm rõ tính lịch sử, tính giai cấp
của quyền lực chính trị nhằm bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp tư sản
cầm quyền.
Trong những năm gần đây, vấn đề thực thi quyền lực chính trị của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động được xác định như một trong
những nhiệm vụ trung tâm của công cuộc đổi mới, cải cách ở một số nước
XHCN. Khuynh hướng bảo vệ và mở rộng quyền lực chính trị của nhân dân
lao động trên cơ sở cải cách thể chế kinh tế, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN... đang mang tính chủ đạo ở các nước này. Để phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị thực tiễn đó, việc nghiên cứu nội dung, phương hướng
nâng cao quyền lực của nhân dân nói chung, quyền lực chính trị của nhân
dân nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà lý luận và chính trị thực tiễn.
Ở nước ta, việc nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến quyền
lực chính trị của nhân dân lao động đã được nhiều người chú trọng trong
2



thời kỳ đổi mới, trong đó có nhiều công trình đã được xuất bản, như: "Tổng
quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu" của PGS.TS Hoàng Chí
Bảo, Tạp chí Thông tin Lý luận, 9/1992; "Quyền lực một phạm trù cơ bản
của chính trị học" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, 4/1992; "Vấn đề quyền lực và cơ chế thực hiện quyền lực trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta" của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí
Nghiên cứu Lý luận, 1/1993; "Những luận điểm của Lênin về chính trị và
vấn đề dân chủ hóa chính trị ở nước ta" của TS. Ngô Hữu Thảo, Tạp chí
Triết học, 3/1990; "Mấy vấn đề dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta
dưới góc độ quan hệ giữa các lợi ích" của PGS.TS Nguyễn Đức Bách, Tạp
chí Nghiên cứu Lý luận, 5/1991; "Vấn đề dân chủ hóa ở Việt Nam trong
chặng đầu của thời kỳ quá độ" của GS.TS Trịnh Quốc Tuấn, Tạp chí
Nghiên cứu Lý luận, 5/1990; "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta" của GS.TS Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Cộng sản, 4/1992; "Vấn đề
đổi mới hệ thống chính trị trước yêu cầu phát triển của dân tộc" của GS.TS
Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Nghiên cứu Lý luận, 6/1994; "Dân chủ hóa xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa" của PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Tạp chí
Thông tin Lý luận, 2/1996; "Suy nghĩ thêm về quyền lực chính trị như một
phạm trù khoa học" của PGS. Bùi Thanh Quất, Tạp chí Triết học, 5/1996;...
Ngoài những công trình khoa học của cá nhân, vấn đề dân chủ nói
chung, dân chủ trên lĩnh vực chính trị nói riêng cũng đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của một số chương trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ. Chẳng
hạn, trong chương trình nghiên cứu cấp nhà nước mang mã số KX.05 "Hệ
thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta" (do
GS. Nguyễn Đức Bình làm chủ nhiệm) có các nhánh đề tài: "Cơ chế thực
hiện dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay", mã số KX.05.05;
"Đặc điểm, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
3



chính trị", mã số KX.05.06; "Vị trí và tính chất hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị", mã số
KX.05.10...
Liên quan tới chủ đề này, từ năm 1990 đến nay còn có một số luận
án tiến sĩ đã được bảo vệ. Chẳng hạn, "Vấn đề dân chủ hóa trong lĩnh vực
chính trị ở nước ta hiện nay" của Ngô Hữu Thảo; "Bệnh quan liêu trong hệ
thống chính trị và phương hướng khắc phục để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân Việt Nam hiện nay" của Trần Quang Minh; "Dân chủ và cơ
chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay" của Lê Thanh Thập...
Các công trình đã được công bố đã làm rõ nội dung, tính chất và cơ
chế thực hiện dân chủ nói chung, dân chủ trong chủ nghĩa tư bản và dân chủ
trong chủ nghĩa xã hội nói riêng. Vấn đề quyền lực chính trị của nhân dân
lao động mới chỉ được đề cập như một vấn đề bộ phận của tổng thể chung
đó, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực thi quyền lực chính trị
của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay
với tính cách một đối tượng nghiên cứu chuyên biệt.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về quyền lực chính trị của nhân dân lao động và quá trình hiện
thực hóa nội dung của quyền lực đó dưới những thể chế chính trị khác nhau,
luận án góp phần làm rõ hiện trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân
dân lao động ở nước ta trong thời kỳ đổi mới; xác định nguyên nhân những
hạn chế trong việc thực thi quyền lực đó và bước đầu tìm một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở nước
ta hiện nay.
Để đạt mục đích trên, luận án phải giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:

4



Một là, làm rõ bản chất, hình thức và cơ chế thực thi quyền lực
chính trị trong CNXH; nội dung quyền lực chính trị và vai trò của HTCT
nhằm bảo đảm quyền lực đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Hai là, làm rõ hiện trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân
lao động nước ta trong những năm đổi mới vừa qua; xác định nguyên nhân
những hạn chế trong việc thực thi quyền lực đó.
Ba là, bước đầu tìm một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
thi quyền lực chính trị của nhân dân theo định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Khi thực hiện luận án này, tác giả dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực và quyền
lực chính trị của nhân dân lao động; dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam trong lãnh đạo, tổ chức thực thi quyền lực chính trị ở nước ta.
Cơ sở thực tiễn: Xuất phát từ thực tiễn thực thi quyền lực chính trị
ở nước ta, trực tiếp nhất là từ thực tiễn thực thi quyền lực chính trị ở nước ta
trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua để luận chứng những vấn đề có liên
quan tới việc thực hiện những nhiệm vụ cơ bản mà luận án nêu ra.
Phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các vấn đề mà luận án nêu
ra, chúng tôi vận dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; trong đó, chú ý sử dụng
phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp và một số phương pháp
của xã hội học...
5. Cái mới của luận án
Luận án đã góp phần:
- Làm sáng tỏ bản chất, hình thức, cơ chế thực thi quyền lực chính
trị trong CNXH; nội dung quyền lực chính trị và vai trò của HTCT nhằm
bảo đảm quyền lực đó trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

5


- Làm sáng tỏ hiện trạng thực thi quyền lực chính trị của nhân dân
lao động ở nước ta trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua; xác định nguyên
nhân những hạn chế của việc thực thi quyền lực đó.
- Xác định một số giải pháp quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả
thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Những giải pháp đó
được nghiên cứu trong tính đồng bộ và tính hệ thống của chúng, làm cho
chúng trở thành những nhân tố trong cấu trúc phát triển các giá trị quyền lực
chính trị của nhân dân theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về việc thực thi quyền lực chính
trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Vì
vậy, luận án có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức cũng như trong việc
thực thi quyền lực chính trị của nhân dân ở nước ta.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy lý luận về dân chủ XHCN, về nhà nước trong các
chương trình triết học, CNXH khoa học ở các trường chính trị và đại học,
cao đẳng.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương, 9 mục, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

6


7



Chương 1
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NÓ
TRONG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

1.1. QUYỀN LỰC VÀ QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ

1.1.1. Khái niệm "quyền lực"
Ngay từ thời cổ đại, trong tác phẩm "Chính trị A-ten", A-rít-xtốt đã
nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm cơ bản của nó.
Theo ông, quyền lực không chỉ là cái vốn có của mọi sự vật biết cảm giác,
mà của cả giới tự nhiên vô cơ. Trong thời trung cổ, các nhà thần học đưa
"quyền lực Thượng đế" lên vị trí hàng đầu, họ xem loài người chỉ là cái phái
sinh từ quyền lực Thượng đế. Các nhà không tưởng và các nhà bách khoa
thời Phục hưng đã đặt lên bàn nghị sự vấn đề lật đổ quyền lực phong kiến
để xác lập quyền lực tư sản. Nhưng trong các tác phẩm của mình, họ chỉ
nhấn mạnh quyền lực của nhà nước, và xem nhà nước là "vương quốc của
lý trí".
Khi nghiên cứu về quyền uy với tư cách là một bộ phận của quyền
lực, mà nội dung cơ bản của nó là ý chí của người khác buộc ta phải tiếp thu
và lấy sự phục tùng làm tiền đề, Ph.Ăngghen viết: "... một mặt, một quyền
uy nhất định, không kể quyền uy đó đã được tạo ra bằng cách nào, và mặt
khác, một sự phục tùng nhất định, đều là những điều mà trong bất cứ tổ
chức xã hội nào, cũng đều do những điều kiện vật chất trong đó tiến hành
sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho trở thành tất yếu đối với chúng ta"
[67, 421]. Như vậy, theo Ph. Ăngghen, bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, hễ có
hoạt động sản xuất nói riêng, hoạt động nói chung đều có vấn đề quyền uy.
Ngày nay cũng có nhiều học giả trên thế giới và trong nước nghiên
cứu về khái niệm này. Nhà chính trị học Mỹ K.Đan-tra cho rằng, nắm


8


quyền lực là buộc người khác phải phục tùng. Còn nhà chính trị học Mỹ
khác - Lê-bít Líp-sơn xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ một
hành động phối hợp.
Nêu lên một định nghĩa có tính xác định hơn, các tác giả cuốn Bách
khoa Triết học của Liên Xô trước đây cho rằng: quyền lực là khả năng thực
hiện ý chí của mình có tác động đến hành vi, tới phẩm hạnh của người khác
nhờ một phương tiện nào đó như uy tín, quyền hành, nhà nước, sức mạnh ...
[Xem: 100, 11].
Trong số các công trình nghiên cứu ở nước ta về phạm trù này, đáng
lưu ý nhất là quan niệm của GS.TS Phạm Ngọc Quang, tác giả cho rằng:
"Với nghĩa chung nhất, quyền lực là cái mà nhờ đó người khác phải phục
tùng. Trong ý nghĩa như vậy, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời
và tồn tại của con người. Bởi vì, hoạt động phối hợp, hoạt động chung mang
tính cộng đồng là cái vốn có trong hoạt động của con người. Bất kỳ hoạt
động chung nào cũng cần có người tổ chức, người chỉ huy và những kẻ
phục tùng - cái vốn có tạo thành nội dung sơ khai cũng như nội dung hiện
đại của phạm trù quyền lực" [100, 11].
Tiếp cận với khái niệm này theo lối chiết tự, PGS. Bùi Thanh Quất
cho rằng: có thể coi quyền lực là một khái niệm kép, bao gồm quyền và lực
(sức mạnh). "Lực" là khái niệm dùng để chỉ một thuộc tính của bất kỳ hệ
vật chất nào, xét trong tương tác với hệ vật chất khác, có khả năng duy trì
sự tồn tại và tạo ra sự biến đổi. Vì thế, lực là cái vốn có trong mỗi hệ vật
chất, nhưng lại hiện hình trong tương tác, dù hệ vật chất ấy có quy mô lớn
nhỏ bất kỳ. Các cộng đồng người với những quy mô khác nhau trong xã hội
cũng là những kết cấu vật chất xác định, do vậy, cũng tiềm ẩn các lực nhất
định. "Quyền" là một khái niệm chỉ mối quan hệ có tính xã hội giữa người
với người, trong đó con người ý thức tới nhu cầu của mình rằng những nhu

cầu ấy phải được thỏa mãn với sự thừa nhận của người khác. Vì thế, khi nói

9


tới quyền là nói tới quan hệ cộng đồng xã hội, trong đó, quyền này được tồn
tại với các điều kiện xã hội xác định, nhất là sự thừa nhận của con người
trong cộng đồng đó đối với nó. Trong số các quyền của con người hoặc
cộng đồng người trong xã hội, có tồn tại một loại "quyền được sử dụng sức
mạnh" phục vụ cho việc thực hiện các nhu cầu, lợi ích của một người hay
một nhóm người, đó chính là "quyền lực" [Xem: 104, 49].
Không phủ nhận rằng cách tiếp cận như trên đối với phạm trù "quyền
lực" có ý nghĩa tích cực nhất định, song, theo chúng tôi, việc tiếp cận với
phạm trù đó theo lối chiết tự như vậy có rất nhiều hạn chế. Một là, trong tiếng
Nga, "quyền lực" là BACTb, trong tiếng Anh là POWER. Cách tiếp cận
theo lối chiết tự như trên đây sẽ không thể áp dụng được trong các ngôn ngữ
đó và nhiều loại ngôn ngữ khác. Điều đó chứng tỏ cách tiếp cận đó có vấn
đề, ít nhất là nó không mang tính phổ biến. Hai là, "quyền", được trình bày
theo quan điểm của tác giả, chỉ xuất hiện trong xã hội có nhà nước. "Quyền"
là tất cả những yêu cầu được nhà nước thừa nhận và ghi thành Luật. Trong
khi đó, như Ph. Ăngghen đã chỉ ra, có sản xuất và trao đổi thì có quyền uy
với tư cách là một bộ phận của quyền lực. Điều đó có nghĩa, quyền lực xuất
hiện ngay từ khi chưa có nhà nước và sẽ tồn tại cả khi nhà nước đã tiêu
vong.
Kế thừa tất cả những nhân tố hợp lý có thể có trong những quan
niệm đã từng tồn tại về quyền lực, chúng tôi cho rằng quyền lực là một mối
quan hệ xã hội đặc biệt có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, ai chi phối được quan hệ đó thì buộc người khác phải phục
tùng.
Hai là, việc vận dụng có kết quả mối quan hệ đó sẽ cho phép đạt

được mục tiêu nhờ hoạt động phối hợp.
Ba là, việc nắm vững và sử dụng mối quan hệ đó sẽ cho phép chủ
thể có tác động tới hành vi, tới phẩm hạnh của người khác.
10


Như vậy, quyền lực là một quan hệ xã hội, trong đó cá nhân hay tổ
chức được quyền sử dụng sức mạnh nhằm thực hiện lợi ích khách quan của
mình trên cơ sở sự phục tùng (thừa nhận) của cá nhân hay tổ chức khác.
Quyền lực, như trên đã đề cập, là một loại quan hệ xã hội. Do vậy,
"quyền lực" và "quan hệ quyền lực" là những phạm trù cùng loại.
Đặc trưng tiêu biểu của quyền lực với tư cách là một mối quan hệ xã
hội là sự phục tùng, sự điều khiển và bị điều khiển, là sự tôn trọng và kính
nể... Quyền lực của người lãnh đạo, người quản lý; quyền lực của cha mẹ
đối với con cái; quyền lực của chuyên gia một ngành, một lĩnh vực khoa
học khi phán xét một công trình khoa học trong ngành, trong lĩnh vực tương
ứng; sự tôn phục trước một con người có phẩm chất đạo đức cao... là những
thí dụ cho những đặc trưng như vậy.
Khi hiểu quyền lực với một nội dung phong phú như vậy, chúng ta
có thể thấy rằng quyền lực ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của
con người. Tất nhiên, trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, nội dung và tính
phong phú của quyền lực cũng không như nhau.
Đã là một thành viên trong cộng đồng xã hội, không ai có thể tồn tại
bên ngoài sự chi phối của quyền lực, trái lại, mỗi người đều tồn tại trong sự
chi phối của vô vàn quan hệ quyền lực. Mặt khác, người đó cũng có thể là
chủ thể của nhiều loại quyền lực.
Mối quan hệ giữa người với người không ngừng thay đổi, do vậy,
quan hệ quyền lực cũng không cố định. Xét từ giác độ này hay trong thời
điểm này, người đó là người chi phối; nhưng xét từ giác độ khác, trong thời
điểm khác, người đó có thể trở thành người bị chi phối.

Nếu hiểu quyền lực như là sự tự vươn lên để khẳng định mình trong
cộng đồng xã hội, được cộng đồng đó thừa nhận về một ưu thế nào đó, thì
khát vọng quyền lực là một hiện tượng khách quan và phổ biến. Một khi
mọi người đều muốn vươn lên để tự khẳng định mình như một cá nhân trội
11


trong cộng đồng đó, thì hiện tượng xung đột quyền lực cũng là một hiện
tượng khách quan; không phải mọi hiện tượng xung đột quyền lực đều có ý
nghĩa tiêu cực đối với sự phát triển xã hội.
Quyền lực trong xã hội cũng có nhiều loại khác nhau. Có quyền lực
kinh tế, quyền lực trí tuệ, quyền lực tôn giáo, quyền lực đạo đức...Trong xã
hội có giai cấp, có thêm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước...Mỗi loại
quyền lực khác nhau có phương thức, con đường không hoàn toàn như nhau
để đạt tới nó. Nói cách khác, sự đa dạng của quyền lực quy định sự đa dạng
của phương thức, của con đường đạt tới nó.
1.1.2. Quyền lực chính trị
Trong quá trình vận động và phát triển của xã hội, quyền lực cũng
có sự vận động và phát triển tương ứng. Sự biến đổi đó gắn liền với sự thay
thế nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội nói chung, các giai đoạn phát
triển xã hội, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nói riêng. Và do đó,
quyền lực trong xã hội ngày càng có cấu trúc phức tạp, được tạo thành từ
nhiều loại khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu của đề tài luận án này, chúng
tôi chỉ quan tâm tới quyền lực chính trị. Trong chừng mực nhất định, nếu
luận án có đề cập tới quyền lực kinh tế hay một số loại quyền lực khác, thì
cũng chỉ nhằm làm sáng tỏ hơn phạm trù trung tâm đó từ phương diện như
là điều kiện để thực hiện quyền lực chính trị.
Là một bộ phận của quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực
chính trị cũng là một loại quan hệ xã hội, nhưng đó là loại quan hệ xã hội có
liên quan tới vấn đề chính trị. Do vậy, việc làm sáng tỏ phạm trù "chính trị"

lại là điều kiện cần thiết để tiến tới một quan niệm đúng đắn về phạm trù
"quyền lực chính trị".
Trong tác phẩm: "Chính trị" của mình, Pla-tôn xem chính trị là
"nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người anh hùng

12


và sự thông minh; sự liên kết của họ được thực hiện bằng sự thống nhất tư
tưởng và tinh thần hữu ái" [98, 82].
Mác Vây-be lại xem "chính trị" là khát vọng tham gia vào quyền lực
hay ảnh hưởng tới sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc
gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia.
Đứng vững trên quan điểm duy vật về lịch sử, V.I. Lênin cho rằng
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp; là sự tham gia của nhân dân vào
công việc nhà nước và xã hội, vào định hướng hoạt động của nhà nước...
Khi nêu lên nhân tố quy định bản chất của chính trị, V.I. Lênin cho
rằng: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Khi nhấn mạnh tính
năng động của chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin viết: "Chính trị không thể
không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [55, 349].
Từ hiện thực đa dạng và phức tạp của chính trị như một hiện thực
trong xã hội có giai cấp, chúng ta có thể đi tới một quan niệm tổng quát sau
đây về chính trị: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc,
các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là
những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của các giai cấp, các
đảng phái; là hoạt động thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng
phái, các nhà nước để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đi tới mục
tiêu đã đặt ra.
Quan niệm vừa nêu về chính trị quy định cách hiểu phạm trù "quyền
lực chính trị". Nói một cách chung nhất, quyền lực chính trị là quyền được

sử dụng sức mạnh của nhà nước nhằm thực hiện lợi ích khách quan của
giai cấp, dân tộc... trên cơ sở sự thừa nhận của nhà nước bằng luật pháp.
Trong ý nghĩa đó, quyền lực chính trị là một kiểu quan hệ xã hội có liên
quan tới vấn đề nhà nước. Đó có thể là quan hệ giữa người với người ở
nhiều cấp độ tồn tại, nhiều hình thức tồn tại khác nhau của họ (giai cấp, dân
tộc, quốc gia, đoàn thể, đảng phái...) trong vấn đề gây ảnh hưởng tới nhà

13


nước; trong vấn đề giành, giữ, sử dụng nhà nước vì lợi ích của mình. Chính
trong ý nghĩa đó, C.Mác đã xem quyền lực chính trị là "Khả năng của một
giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình".
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, một khi lợi ích căn bản của giai
cấp này được hiện thực hóa thì lợi ích căn bản của giai cấp khác bị triệt tiêu.
Xung đột giai cấp là điều không tránh khỏi. Quyền lực chính trị đóng vai trò
như là công cụ để giai cấp nắm được nó sẽ thực hiện được lợi ích của mình.
Đó là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen nêu ra định nghĩa sau đây về quyền
lực chính trị: "Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" [64, 628].
Định nghĩa trên đây cũng cho thấy: quyền lực chính trị của một giai
cấp không tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế,
của đấu tranh giai cấp.
Lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình phát triển không
ngừng. Lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nào đó sẽ đòi hỏi thay đổi
quan hệ sản xuất hiện tồn. Trong phương thức sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, quá trình này sẽ sản sinh ra các
giai cấp đối kháng đặc trưng cho phương thức sản xuất đó. Các lực lượng
chính trị mới với tư cách là chủ thể tương ứng của các lợi ích giai cấp đó sẽ
xuất hiện. Sự xung đột quyền lực ngày càng gay gắt giữa các lực lượng

chính trị mới đại diện cho phương thức sản xuất mới với lực lượng chính trị
cũ đại diện cho phương thức sản xuất lạc hậu nhưng còn nắm quyền thống
trị. Do xu hướng tất yếu của nó, lực lượng chính trị mới với yêu cầu quyền
lực chính trị tương ứng sớm hay muộn sẽ vươn lên tự khẳng định mình về
mặt nhà nước. Khi đó, quyền lực chính trị của lực lượng xã hội mới với tư
cách là đại diện cho một giai cấp sẽ được xác lập.
Khi một chủ thể chính trị chưa có đủ sức mạnh để khẳng định quyền
lực chính trị của mình, chủ thể đó vẫn ngấm ngầm hoặc công khai dùng sức

14


mạnh nhằm đạt tới sự khẳng định đó. Kết cục, khát vọng đó hoặc bị quyền
lực chính trị của giai cấp cầm quyền loại bỏ, hoặc là sẽ buộc lực lượng
chính trị cầm quyền phải thừa nhận về mặt nhà nước.
Do đó, trong chế độ xã hội có đối kháng giai cấp luôn tồn tại hai loại
quyền lực chính trị thuộc hai chủ thể chính trị đối lập nhau: quyền lực chính
trị của giai cấp cầm quyền (thống trị) và quyền lực chính trị (hay khát vọng
quyền lực chính trị) của giai cấp, tầng lớp không cầm quyền.
Giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy nhà nước và sử dụng sức mạnh
của bộ máy đó để thực thi ý chí, lợi ích của mình. Khi ấy, quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị trở thành quyền lực nhà nước. Do đó, xét về bản
chất, quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Nó
được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra.
Nhờ hệ thống đó, giai cấp thống trị có khả năng vận dụng các công cụ bạo
lực của nhà nước để buộc các giai cấp, tầng lớp xã hội phục tùng ý chí của
giai cấp thống trị trong việc tổ chức xã hội như một chỉnh thể.
Các giai cấp và tầng lớp không nắm quyền thống trị dùng sức mạnh
chính trị của mình để chống lại hay đòi giai cấp thống trị phải thay đổi trật
tự xã hội, thay đổi các chính sách đã ban hành cho phù hợp với lợi ích của

giai cấp mình. Trong trường hợp giai cấp bị trị là giai cấp có lợi ích cơ bản
đối kháng với giai cấp thống trị, giai cấp bị trị dùng quyền lực chính trị của
mình để đấu tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp cầm quyền, thiết lập nhà
nước của mình , dùng nhà nước đó để tổ chức lại xã hội theo một trật tự phù
hợp với lợi ích của nó. Khi ấy, quyền lực chính trị của giai cấp mới giành
được quyền thống trị trở thành quyền lực nhà nước.
Với tư cách là hình thức tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị, quyền lực nhà nước có vai trò như là công cụ để giai cấp thống trị
thực hiện quyền lực chính trị của mình trên tất cả các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội. Điều đó được xem xét ở các mặt sau:

15


Một là, nhà nước điều khiển hoạt động của xã hội về kinh tế, văn
hóa, xã hội - nhân văn bằng các chiến lược, các kế hoạch định hướng; can
thiệp vào các hành vi, các quá trình kinh tế, văn hóa, xã hội - nhân văn bằng
nhiều công cụ kinh tế - xã hội khác nhau.
Hệ thống các chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội - nhân văn giúp
nhà nước điều khiển hoạt động của các chủ thể quyền lực, đồng thời, tạo lập
và bảo đảm quyền lực cho các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực đó của
đời sống xã hội. Có thể hình dung: Mỗi chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội nhân văn là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư phát triển nhằm
hướng hành vi của các chủ thể quyền lực phù hợp với lợi ích toàn xã hội mà
không làm tổn hại quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.
Hai là, sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội - nhân văn là sự thể hiện vai trò quyền lực chính trị
của giai cấp thống trị trên hai phương diện: Một mặt, pháp luật là công cụ
cưỡng chế hành vi của các chủ thể quyền lực trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội - nhân văn, nếu như hành vi của các chủ thể quyền lực trên các
lĩnh vực đó có thể dẫn tới nguy cơ làm tổn hại đến lợi ích toàn xã hội; mặt

khác, pháp luật là công cụ tạo môi trường, hành lang mang tính chất xã hội
hợp pháp rộng rãi cho các chủ thể quyền lực biết được điều cho phép và
cấm làm. Do đó, quyền lực chính trị đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan
sẽ có ý nghĩa động lực tích cực của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhân văn.
Ba là, trong khi khẳng định quá trình phát triển của xã hội loài
người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, C. Mác và V.I. Lênin đã chỉ ra
rằng người ta có thể "rút ngắn" quá trình ấy, có thể làm giảm bớt những
"cơn đau đẻ" của quá trình ấy, nhưng không thể bỏ qua quá trình ấy.
Nhân tố để thực hiện "cái có thể" đó cũng đã được C. Mác và
V.I.Lênin chỉ ra, đó là vai trò của quyền lực chính trị, của thượng tầng kiến
16


trúc đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội - nhân văn với tư cách là
những nhân tố xã hội có khả năng nhận thức ra quá trình ấy và tổ chức thực
hiện quá trình rút ngắn ấy. Trong cách mạng XHCN, lực lượng đó là Đảng
và Nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Điều này cho
thấy vai trò tích cực của quyền lực chính trị đối với quyền lực trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội - nhân văn.
Trong lịch sử cũng như ở thời đương đại, sự phát triển của kinh tế,
văn hóa, xã hội - nhân văn vẫn không vượt ra khỏi vai trò điều tiết của nhà
nước với tư cách tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Đối với
các nước tư bản, điều đó đã và đang như vậy. Đối với nước ta, vai trò của
Đảng và nhà nước với tư cách tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân lại
càng có ý nghĩa tiên quyết. Nếu không có vai trò của Đảng Cộng sản và nhà
nước của dân, do dân, vì dân thì không thể nào thực hiện được các quyền
lực khác trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
1.1.3. Quyền lực chính trị qua một số thời kỳ lịch sử trước CNXH
Ở các xã hội có giai cấp khác nhau, sự biến đổi của cơ sở kinh tế và,
cùng với nó, sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp làm cho vị trí lịch sử,

nội dung và hình thức tổ chức quyền lực chính trị của các tầng lớp, các giai
cấp không ngừng thay đổi.
Trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại, L.Móc-gan, nhà nhân
chủng học người Mỹ ở thế kỷ XIX, nhận xét: Trong xã hội cộng đồng
nguyên thủy, "toàn thể các thành viên của thị tộc đều là những người tự do,
có nghĩa vụ bảo vệ tự do của nhau, họ đều có những quyền cá nhân ngang
nhau, - cả tù trưởng lẫn thủ lĩnh quân sự đều không đòi hỏi những quyền ưu
tiên nào cả; họ kết thành một tập thể thân ái, gắn bó với nhau bởi những
quan hệ dòng máu. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ được nêu thành
công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc, ..." [70, 136].

17


Do đó, trong cộng đồng thị tộc, khái niệm "dân cư", "quần chúng", "nhân
dân" là những từ đồng nghĩa, họ là tất cả các thành viên cộng đồng sống tự
do, bình đẳng.
Vào cuối giai đoạn cao của thời đại dã man, cùng với sự phát triển
của sức sản xuất và sự ra đời của chế độ tư hữu, trong xã hội xuất hiện giai
cấp, hình thành nên quan hệ bóc lột, áp bức của giai cấp này đối với giai
cấp khác. Sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật như là dấu hiệu minh
chứng rằng xã hội từ đó tồn tại trong tình trạng bất bình đẳng. Khi đề cập
tới quá trình này, Ph.Ăngghen viết: "Nhưng sự phân chia đó là quan trọng,
vì nó nêu lên cho chúng ta thấy những yếu tố xã hội mới, đang phát triển
một cách thầm lặng. Nó chỉ ra rằng cái tập quán giao những chức vụ của thị
tộc cho một số gia đình nhất định đã biến thành một cái quyền không thể
chối cãi của những gia đình đó được đảm nhiệm những chức vụ công cộng;
rằng những gia đình ấy, mặt khác, mạnh còn vì giàu có nữa, đã bắt đầu tập
hợp nhau lại, bên ngoài thị tộc của họ, thành một giai cấp riêng biệt, có đặc
quyền; rằng nhà nước vừa mới ra đời đã thừa nhận những tham vọng ấy của

họ. Sự phân chia đó còn chỉ cho ta thấy rằng sự phân công lao động giữa
người làm ruộng và người làm nghề thủ công đã được củng cố vững chắc
đến mức là ý nghĩa xã hội của sự phân chia trước kia thành thị tộc và bộ lạc,
đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Cuối cùng, sự phân chia đó tuyên bố sự đối
kháng không điều hòa được giữa xã hội thị tộc và nhà nước ..." [70, 167].
Sự xuất hiện của nhà nước không gì khác hơn là quyền lực chính trị
của giai cấp thống trị đã được tổ chức thành nhà nước. Do đó, trong thời kỳ
chưa có giai cấp, quyền lực nhân dân mang tính nhân loại, phi chính trị, tới
đây bị "chạm khắc" bởi tính giai cấp, tính chính trị. Các giai cấp thống trị
trong lịch sử đã thay quyền lực nhân dân bằng quyền lực đáp ứng nhu cầu, lợi
ích của mình. Điều đó đã dẫn đến sự thay đổi về chủ thể, về nội dung, tính
chất và cơ cấu tạo thành quyền lực trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.

18


Trong lịch sử loài người đã lần lượt xuất hiện các chủ thể quyền lực
nhà nước khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nô là chủ thể duy nhất của mọi tài
sản, của cải trong xã hội - từ ruộng đất đến nông cụ, súc vật và cả những
người nô lệ. Nô lệ chỉ được xem là một thứ "công cụ biết nói". Toàn bộ
cuộc sống của nô lệ, kể cả sự tồn vong của họ, đều do chủ nô quyết định.
Trong xã hội nô lệ, những người lao động khác đôi khi khá đông và chiếm vai
trò quan trọng trong nền sản xuất xã hội, nhưng cũng không có quyền lực
pháp lý - chính trị đáng kể. Toàn bộ quyền lực nhà nước nằm trong tay giai
cấp chủ nô.
Nhà nước chủ nô - công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị
của chủ nô - được tổ chức dưới hình thức quân chủ, cộng hòa dân chủ chủ
nô hoặc cộng hòa quý tộc chủ nô. Sự khác nhau của các hình thức nhà nước
chủ nô tùy thuộc vào tình hình cụ thể từng nước cũng như từng thời kỳ phát

triển của chế độ nô lệ.
Hình thức quân chủ chủ nô là hình thức phổ biến ở các nước phương
Đông. Chính thể cộng hòa dân chủ chủ nô là hình thức điển hình của chế độ
Hy Lạp, La Mã cổ đại. Chính thể cộng hòa quý tộc là hình thức phổ biến
trong thời kỳ sau của chế độ nô lệ ở Spác và La Mã.
Mặc dù có nhiều hình thức khác nhau nhằm bảo đảm quyền lực
chính trị của chủ nô, song hình thức phổ biến nhất là chế độ dân chủ.
Lực lượng chủ yếu để thực hiện quyền lực nhà nước là quân đội và
cảnh sát. Do vậy, nhìn chung, quyền lực nhà nước trong chế độ chiếm hữu
nô lệ mang tính quân phiệt tàn bạo của một thiểu số đối với đại bộ phận dân
cư. Điều đó không loại trừ tính chất ít nhiều dân chủ trong hệ thống quyền
lực nhà nước ở một số Nhà nước chủ nô phương Tây.
Trong xã hội phong kiến, bên cạnh sở hữu của địa chủ phong kiến
đối với ruộng đất cũng như những tư liệu sản xuất khác, đã xuất hiện sở hữu

19


cá thể của một bộ phận nông dân. Kết cấu xã hội trong chế độ phong kiến
trở nên phức tạp. Ngoài địa chủ và nông dân, trong xã hội đó còn có một số
tầng lớp khác như: Tăng lữ, thợ thủ công, thương nhân...
Cơ sở kinh tế - xã hội nêu trên quy định bản chất quyền lực nhà
nước của chế độ phong kiến. Ở đây, quyền lực nhà nước tập trung vào tay
giai cấp địa chủ phong kiến, nhà nước vẫn là công cụ quyền lực chủ yếu của
giai cấp đó. Để duy trì sự thống trị của mình, "... chúa phong kiến phải có
một bộ máy tập hợp và thu phục một số rất đông người, bắt họ phải tuân
theo những luật pháp và quy chế nhất định; và về căn bản, tất cả các luật
pháp đó chung quy chỉ là nhằm một mục đích: duy trì chính quyền của chúa
phong kiến đối với nông nô" [53, 89].
Ở các giai đoạn khác nhau trong sự tiến hóa của chế độ phong kiến,

hệ thống quyền lực nhà nước cũng thay đổi. Trong giai đoạn cát cứ phong
kiến, quyền lực nhà nước thuộc các lãnh chúa. Mỗi lãnh địa, mỗi điền trang,
thái ấp... đều có quyền lực riêng của lãnh chúa tương ứng. Sự phân tán
quyền lực, do đó, trở thành một đặc trưng. Ở giai đoạn Trung ương tập
quyền, hệ thống quyền lực nhà nước của phong kiến được tổ chức thành
một hệ thống thống nhất với sự đứng đầu của Vua, có một đội quân thường
trực mạnh để bảo vệ ngai vàng.
Nét điển hình của hệ thống quyền lực chính trị thuộc giai cấp cầm
quyền trong xã hội phong kiến là sự kết hợp chặt chẽ giữa quyền lực thế tục
(tức quyền lực nhà nước) với thần quyền (quyền lực của tôn giáo) nhằm
củng cố và tăng cường quyền lực của vua chúa phong kiến.
Dù là phân tán hay tập trung, hệ thống quyền lực nhà nước trong xã
hội phong kiến đều mang tính đẳng cấp rõ rệt.
Do tính chuyên quyền độc đoán của giai cấp chủ nô và giai cấp địa
chủ phong kiến, nhân dân - những người bị áp bức bóc lột - hầu như bị mất
hoàn toàn tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước.

20


Sự ra đời của chế độ TBCN cũng là sự ra đời của một hệ thống
quyền lực nhà nước mới- hệ thống quyền lực chính trị của giai cấp tư sản
cầm quyền.
Cùng với sự phát triển của đại công nghiệp và sự thay đổi của các
quan hệ kinh tế tương ứng, CNTB cũng trải qua những giai đoạn khác nhau
với những hình thức tổ chức quyền lực khác nhau.
Trong thời kỳ giai cấp tư sản còn mang tính cách mạng, hệ thống
quyền lực nhà nước tư sản được xác lập bằng các thể chế dân chủ tương
ứng. Các nghị viện tư sản ra đời, quyền tự do dân chủ của công dân được
ghi nhận trong hầu hết các Hiến pháp của nhà nước tư sản. Các đảng phái,

các đoàn thể tiến bộ được hình thành.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa của nó, hệ thống quyền lực chính
trị tư sản được củng cố theo hướng tập trung hóa. Nó can thiệp sâu vào các
quá trình kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, các nước tư bản phát triển đang chuyển từ
nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh tin học hóa. Những thành tựu
của cách mạng khoa học và công nghệ được vận dụng vào lĩnh vực chính trị
cũng cho phép giai cấp tư sản hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực chính trị
của mình. Cũng như hệ thống quyền lực chính trị ở bất kỳ một xã hội có
giai cấp nào khác, nhà nước tư sản hiện đại là công cụ chính yếu trong hệ
thống quyền lực chính trị của giai cấp tư sản độc quyền nhà nước. Việc
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của nhà nước trên cơ sở những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại đã khiến cho nhà nước đó trở thành công cụ
thống lĩnh toàn bộ xã hội bằng chính trị, tư tưởng, văn hóa tế nhị, uyển
chuyển và có hiệu quả. Một mặt, do áp lực đấu tranh của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, mặt khác, do những đòi hỏi của nền văn minh hiện
đại, nhà nước tư sản với tư cách là công cụ quyền lực chủ yếu nhất của giai

21


cấp tư sản cầm quyền đã kết hợp có hiệu quả việc thực hiện chức năng giai
cấp và chức năng công quyền của mình.
Tuy nhiên, do dựa trên chế độ sở hữu tư nhân TBCN đối với tư liệu
sản xuất, trong xã hội tư sản, chủ thể quyền lực nhà nước vẫn chỉ là một
thiểu số và không bao giờ vượt khỏi giới hạn duy trì sự áp bức, bóc lột của
giai cấp tư sản. Việc thừa nhận ở mức độ nhất định lợi ích của các tầng lớp,
giai cấp khác là cách thức để duy trì lợi ích và quyền lực của giai cấp tư sản.
Nhân dân vẫn chưa thực sự trở thành chủ thể quyền lực nhà nước, cho dù
giai cấp tư sản vẫn giương cao chiêu bài "tự do, bình đẳng, bác ái" và "nhà

nước của dân, do dân, vì dân". Quyền lực của nhân dân lao động, về thực
chất, vẫn chưa được thực thi.
Như vậy, trên nền tảng của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và duy
trì đối kháng giai cấp, trong các chế độ xã hội có giai cấp trước CNXH,
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị xã hội hướng tới việc củng cố chế
độ tư hữu để, từ đó, củng cố quyền thống trị về chính trị của giai cấp đó đối
với toàn xã hội; những giá trị xã hội mang tính chất nhân văn bị đặt ở hàng
thứ yếu.
Chỉ có trong quá trình cách mạng XHCN và xây dựng CNXH, trên
nền tảng của chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu và đối kháng
giai cấp trong xã hội sẽ bị loại trừ, nhân dân lao động mới thật sự trở thành
chủ thể quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị của nhân dân lao động mới
ra đời và phát triển theo những giá trị xã hội nhân văn triệt để nhất.
1.2. BẢN CHẤT, HÌNH THỨC VÀ CƠ CHẾ THỰC THI QUYỀN LỰC
CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG TRONG CNXH

1.2.1. Bản chất quyền lực chính trị của nhân dân lao động
trong CNXH
Theo quan điểm mác-xít, quyền lực chính trị mang bản chất giai cấp
sâu sắc. Do đó, việc xem xét bản chất quyền lực chính trị của nhân dân lao

22


động phải quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận nền tảng: Một là,
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế" [55, 349]; Hai là, "Chính trị
là quan hệ giữa các giai cấp" [56, 87-88]; Ba là, chính trị là sự tham gia của
nhân dân vào những công việc của nhà nước...
Việc quán triệt các nguyên tắc phương pháp luận trên đây vào việc
xem xét bản chất quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong CNXH

cho thấy:
* Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong CNXH mang
tính chất giai cấp của giai cấp công nhân. Điều đó được biểu hiện:
- Mặc dù, theo bản chất của nó, nhà nước XHCN vẫn là chuyên
chính của một giai cấp - giai cấp công nhân, nhưng do địa vị kinh tế - xã hội
của mình, lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp về cơ bản với lợi ích của
các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong nhân dân. Do vậy, nếu các chế
độ chính trị - nhà nước trước CNXH coi khinh con người, thì chế độ nhà
nước của giai cấp công nhân coi trọng con người. Trong ý nghĩa đó, C.Mác
viết: "Chế độ dân chủ (với tư cách là hình thức nhà nước - Đ.Q.K) xuất phát
từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng
giống như tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở
đây cũng vậy: không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân, mà nhân dân
tạo ra chế độ nhà nước" [61, 350]. Cũng theo C. Mác, nền dân chủ là sản
phẩm tự quyết của nhân dân. "Dưới chế độ quân chủ, tổng thể, tức nhân
dân, bị đặt vào một trong những phương thức tồn tại của họ, tức chế độ
chính trị của họ. Còn trong chế độ dân chủ thì bản thân chế độ nhà nước thể
hiện ra là một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân
dân" [61, 349].
- Muốn đạt được mục đích giai cấp của mình (đồng thời cũng là
mục tiêu chung của xã hội), giai cấp công nhân phải giác ngộ sứ mệnh lịch
sử của mình; từ đó, hình thành những hình thức tổ chức quyền lực có khả

23


năng ghi nhận và phản ánh kịp thời, đầy đủ lợi ích chính đáng, phù hợp với
tiến bộ xã hội của các bộ phận, các tầng lớp, các dân tộc, các giai cấp khác
trong xã hội. Nói cách khác, thông qua hình thức tổ chức quyền lực đó, giai
cấp công nhân thực hiện được vai trò là người đại diện cho những nhu cầu

khác nhau của sự phát triển tiến bộ xã hội. Đề cập tới vấn đề này từ góc độ
chung hơn, C.Mác viết: "Chỉ nhân danh quyền lợi chung của xã hội thì một
giai cấp cá biệt mới có thể đòi hỏi sự thống trị phổ biến được" [61, 585].
- Giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước không phải là
mục đích cuối cùng như các giai cấp bóc lột trong lịch sử. Cách mạng XHCN
là một cuộc cách mạng toàn diện và triệt để nhất trong lịch sử. Việc lật đổ
chính quyền của giai cấp bóc lột và thiết lập chính quyền của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động chỉ là bước mở đầu của một cuộc cách mạng về
quyền lực. Một hệ thống quyền lực mới về chất ra đời. ở đó, có một nhà nước
đặc biệt, nó không còn là nhà nước "đúng nghĩa của nó nữa" - tức là nhà nước
chính trị chỉ chuyên làm công tác cai trị, mà là nhà nước "nửa nhà nước"
(V.I. Lênin). Đó là kiểu nhà nước quá độ để đi đến xã hội không còn giai cấp,
không còn nhà nước. Về điều này, C.Mác đã viết trong thư gửi Vây-đơ-mai-ơ
năm 1852 như sau: "2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô
sản; 3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là sự quá độ tiến tới xóa bỏ mọi
giai cấp và tới xã hội không có giai cấp" [65, 810]. Tiếp tục tư tưởng đó của
C.Mác, năm 1872 Ph.Ăngghen cho rằng: "Giai cấp vô sản chiếm lấy chính
quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước.
Nhưng chính do đó, giai cấp vô sản cũng tự xóa bỏ tính cách vô sản của nó,
nó xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi đối kháng giai cấp, và cũng xóa
bỏ nhà nước với tư cách là nhà nước" [68, 326]. Đến năm 1917, trong tác
phẩm "Nhà nước và cách mạng", V.I.Lênin làm sáng tỏ hơn nữa tư tưởng
trên đây của C.Mác, Ph.Ăngghen. Ông cho rằng nhà nước kiểu mới đó ra

24


đời khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, mà
hình thức tổ chức của nó là: "... Nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai
cấp tư sản!" [49, 121].

Như vậy, tổ chức quyền lực nhà nước của giai cấp công nhân là tiền
đề chính trị bảo đảm cho nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực
nói chung, quyền lực chính trị nói riêng; đồng thời, quyền lực đó còn là một
giá trị xã hội nhân văn.
* Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong CNXH mang
tính đảng của giai cấp công nhân.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước là điều kiện tiên
quyết để giữ vững tính chất giai cấp công nhân của nhà nước và quyền lực
chính trị của nhân dân. Bởi vì, thứ nhất, nhờ nắm được lý luận mang tính
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng có khả năng
chuyển biến phong trào tự phát của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thành tự giác nhằm xây dựng thành công nền chính trị XHCN mà nội
hàm cơ bản của nó là toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân.
Muốn giành thắng lợi trong cuộc cách mạng quyền lực đó, trước
tiên phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng: tư sản
và vô sản, phải làm cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thấm
nhuần lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng vô sản,
nhằm biến cuộc đấu tranh tự phát thành cuộc đấu tranh tự giác của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Nhiệm vụ này do đảng của giai cấp công
nhân lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng của mình đảm nhận. Chỉ
một đảng như vậy mới có khả năng "đưa vào phong trào đấu tranh tự phát
của công nhân những lý tưởng xã hội chủ nghĩa thật rõ rệt, gắn phong trào
đó với những tư tưởng xã hội chủ nghĩa - những tư tưởng này phải đạt tới
trình độ khoa học hiện đại" [42, 239] mới biến phong trào đấu tranh vì mọi

25


×