Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con từ thực tiễn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.21 KB, 100 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ THỦY LAN

CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ NGHÈO
ĐƠN THÂN NUÔI CON TỪ THỰC TIỄN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. LÊ THỊ QUÝ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Công tác xã hội về “Công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con từ thực tiễn tỉnh Điện Biên” là hoàn toàn trung thực và không trùng
lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thủy Lan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI
VỚI PHỤ NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON ...............................................13
1.1. Các khái niệm cơ bản .........................................................................................13
1.2. Phương pháp luận ...............................................................................................18
1.3. Các lý thuyết vận dụng trong luận văn ..............................................................20
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN ...............................28
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu ...........................................................28
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
nghiên cứu tại xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên ............................31
CHƢƠNG 3: VẬN DỤNG CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VỚI PHỤ NỮ
NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON ........................................................................51
3.1. Nhu cầu hoạt động công tác xã hội trong việc trợ giúp phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con tại xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên .....................................51
3.2. Công tác xã hội cá nhân với một trường hợp cụ thể ..........................................52
3.3. Những bài học kinh nghiệm .................................................................................71
PHẦN KHUYÊN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.............................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77
PHỤ LỤC .................................................................................................................80


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
LĐ - TB & XH

Lao động - Thương binh và Xã hội

UBND


Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

PNNĐTNC

Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con

CTXH

Công tác xã hội

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

NVXH

Nhân viên xã hội

QĐ – UBND

Quyết định - Ủy ban nhân dân

NĐ - CP

Nghị định - Chính phủ


NXB

Nhà xuất bản

KHKT

Khoa học kỹ thuật

BCH

Ban chấp hành

CLB

Câu lạc bộ

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

NHCS

Ngân hàng chính sách

CTXHCN


Công tác xã hội cá nhân

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Nguyên nhân đơn thân của PNNĐTNC xã Thanh Chăn……………… 32
Bảng 3.2: Trình độ học vấn của PNNĐTNC……………………………………. 38
Bảng số 3.3: Số lần đến cơ sở y tế khám, chữa bệnh của PNNĐTNNC……. 41
Bảng 3.4: Lý do không đến cơ sỏ y tế khám chữa bệnh của PNNĐTNC……. 42
Bảng 3.5: Thời gian làm việc trung bình một ngày của PNNĐTNC…….……….. 45
Bảng 3.6: Nhu cầu cơ bản của PNNĐTNC tại xã Thanh Chăn………..…….. 48


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Hiện tượng những người phụ nữ đơn thân đã có từ ngàn xưa. Họ đơn độc,
không có người đàn ông bên cạnh và đối diện với rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mỗi mảnh đời phụ nữ đơn thân có những hoàn cảnh và số phận khác nhau. Có
những ngời phụ nữ đơn thân do chồng mất sớm hoặc vợ chồng ly hôn, cũng có
những người lựa chọn cuộc sống độc thân vì nhiều lý do, trong đó có lý do là họ lo

sợ những đổ vỡ của cuộc sống sau hôn nhân, lại có những phụ nữ do thiếu hiểu biết,
thiếu chín chắn trong tình yêu mà phải chấp nhận nuôi con một mình và trở thành
những bà mẹ đơn thân. Dù trở thành một người phụ nữ đơn thân một cách chủ động
hay bị động thì họ cũng đều phải đối mặt với những khó khăn của cuộc sống. Trong
hoàn cảnh “một vai hai gánh”, người phụ nữ đơn thân phải gồng mình lên để bươn
chải kiếm sống không chỉ để nuôi bản thân mình mà còn nuôi con. Không chỉ là
một mẹ đơn thuần mà họ còn phải gánh vác cả trách nhiệm của người chồng, người
cha trong gia đình.
Những phụ nữ đơn thân nuôi con thường là nghèo và rất nghèo. Họ làm chủ
gia đình, phải gánh vác trọng trách nuôi sống cả gia đình, thiếu thốn tình cảm, mặc
cảm, tự ti, ít giao tiếp xã hội và chịu sự kỳ thị của cộng đồng…. Bởi vậy, hạn chế
tình trạng nghèo đói là nhiệm vụ của các cấp các ngành nói riêng và toàn thể cộng
đồng nói chung để giảm bớt khó khăn cho phụ nữ đơn thân. Trong đó, NVCTXH
được coi là những người có trọng trách lớn trong giúp đỡ họ tự vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống bằng những kiến thức và kỹ năng chuyên môn đặc thù.
Tại tỉnh Điện Biên, phụ nữ nghèo đơn thân đa phần trong nhóm dân tộc thiểu
số. Theo kết quả điều tra rà soát hộ nghèo năm 2015, nhóm dân tộc thiểu số chiếm
77% tỷ lệ hộ nghèo, nghèo trong các nhóm dân tộc thiểu số trở thành một thách
thức kéo dài. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đơn thân của người phụ nữ:
- Chồng mắc tệ nạn xã hội nên mất sớm và ly hôn;
- Sinh con không có hôn nhân.

1


Nguyên nhân đói nghèo của những người phụ nữ này chủ yếu do trình độ học
vấn thấp nên không có việc làm ổn định mang lại thu nhập đảm bảo cho đời sống.
Đa phần làm nông nghiệp và đi làm thuê theo thời vụ; công việc tại địa bàn sinh
sống là vùng sâu, vùng xa nên không có nhiều sự lựa chọn. Bản thân do vướng bận
con cái nên càng hạn chế cơ hội việc làm để thay đổi thu nhập kinh tế, cải thiện đời

sống và thoát nghèo.
Tính đến thời điểm hiện tại toàn tỉnh có 701 phụ nữ nghèo đơn thân đang nuôi
con tại cộng đồng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Nhóm đối tượng này có số
lượng lớn thứ 3 trong tổng số 6 nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng
tháng theo quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ – CP. Và ngày càng có xu
hướng gia tăng do trình độ học vấn, phong tục tập quán kết hôn sớm của người dân
tộc thiểu số nhưng không duy trì được hôn nhân do chồng vướng mắc vào tệ nạn
dẫn đến ly hôn hoặc mất sớm. Các bé gái vị thành niên dễ trở thành bà mẹ đơn thân
do bị lừa gạt, xâm hại.
Những phụ nữ nghèo đơn thân này hiện đang phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, trở ngại: kinh tế, giáo dục, y tế, tình cảm, văn hóa…và đặc biệt đời sống tâm
sinh lý vô cùng thiếu thốn, diễn biến phức tạp. Đây là đối tượng rất cần sự quan
tâm, trợ giúp của cộng đồng, xã hội để có thể vượt lên khó khăn, vượt lên chính họ,
hòa nhập cộng đồng. Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về xã hội hay một tổ chức
nào đó, mà nó đã trở thành một trong những lĩnh vực mà ngành Công tác xã hội cần
quan tâm để có những giải pháp can thiệp, hỗ trợ hiệu quả nhất.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy những khó khăn của những người phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con cần được nhìn nhận và quan tâm đúng mực, cần được
nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học và bài bản để từ đó có thể đưa ra các giải
pháp, mô hình hỗ trợ hiệu quả và mang tính bền vững. Xuất phát từ những lý do đó
tôi lựa chọn đề tài “Công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con từ
thực tiễn tỉnh Điện Biên” làm luận văn thạc sỹ của mình.
Với đề tài này tôi mong muốn được đóng góp một phần sức lực của mình
trong việc đưa ra một số giải pháp nâng cao hoạt động công tác xã hội đối với phụ
nữ nghèo đơn thân nuôi con để nhằm giúp cho đời sống một bộ phận phụ nữ ngày

2


một tốt hơn, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh nói

riêng và của đất nước nói chung.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Phụ nữ và phụ nữ đơn thân là một trong những vấn đề được các nhà nghiên
cứu quan tâm, phản ánh nhiều góc độ khác nhau như các cuốn sách, bài báo, phóng
sự, phương tiện truyền thông đại chúng về phụ nữ đơn thân nuôi con.
Trong các nghiên cứu khoa học xã hội thì vấn đề phụ nữ đơn thân ít được bàn
tới. Vấn đề này chỉ được đề cập đan xen trong các công trình nghiên cứu về phụ nữ
nông thôn, các nghiên cứu về ly hôn và các công trình nghiên cứu về phụ nữ nghèo.
Cuốn sách “Vấn đề phụ nữ và trẻ em thời kỳ 2001- 2010” (2002), của Vụ
Tổng hợp – Pháp chế (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) phối hợp với Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội biên soạn, nhằm giúp các nhà nghiên cứu, các chuyên
gia và cán bộ làm công tác xã hội trong lĩnh vực bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ
em, hệ thống hóa chủ trương, đường lối của Đảng, các giải pháp của Nhà nước và
chương trình hành động quốc gia trong lĩnh vực này. Cuốn sách cũng cung cấp cho
chúng ta đường hướng chính trong việc thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em thời
kỳ 2001 – 2010.
Cuốn sách “Gia đình học” (2007), NXB Lý luận Chính trị của tác giả Đặng
Cảnh Khanh và Lê Thị Quý, trình bày một cách hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về gia đình, phụ nữ, bình đẳng nam nữ. Cuốn sách đã nêu ra nhiều thực
trạng bất bình đẳng giới trong gia đình, nêu lên các mối quan hệ gia đình từ truyền
thống đến hiện đại, các điều tra xã hội học trong cuốn sách đã phân tích một số vấn
đề về nghèo đói ảnh hưởng đến gia đình và các thành viên gia đình, chất lượng
sống của gia đình và vị thế của phụ nữ nói chung và phụ nữ nghèo nói riêng. Từ đó
các tác giả đã đưa ra biện pháp nhằm đạt tới sự bình đẳng giới trong gia đình và
nâng cao vai trò của người phụ nữ trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Cuốn sách “Xã hội học giới” (2010), NXB Giáo dục Việt Nam của tác giả Lê

Thị Quý đã cung cấp những kiến thức cơ bản về giới theo hệ thống để nâng cao

3


kiến thức cho người học về giới, phụ nữ và mối quan hệ của họ với nam giới trong
lịch sử và hiện đại.
Cuốn sách “Gia đình thiếu vắng chồng” của Trung tâm nghiên cứu gia đình và
phụ nữ (Xuất bản năm 1996), đã trình bày những kết quả nghiên cứu của Dự án
Nghiên cứu những gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng. Cuốn sách đã trình bày khá
chi tiết về cuộc sống của những gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng ở nông thôn
miền Bắc Việt Nam trong bối cảnh những năm 80, đầu 90 của đất nước. Ở đây các
tác giả đã đi sâu phân tích từng loại hộ gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng (phụ nữ
góa bụa, ly hôn, ly thân, bị chồng ruồng bỏ, không có chồng hoặc không có chồng
nhưng có con…), điều kiện sinh sống, hiện trạng kinh tế và đời sống tình cảm của
họ, những khó khăn mà họ gặp phải, có so sánh với các gia đình đầy đủ cả vợ cả
chồng. Theo tác giả ở khu vực nông thôn miền núi phía Bắc Việt Nam, phần lớn số
người được hỏi cho rằng vấn đề khó khăn kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống
gia đình. Đặc biệt, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, những người phụ nữ thiếu vắng
chồng nhận được rất ít sự trợ giúp từ phía gia đình, họ hàng, cộng đồng và xã hội.
Vấn đề đơn thân còn được đề cập đến như một hậu quả nặng nề của hai cuộc
chiến tranh để lại mà người phụ nữ phải gánh chịu. Trong tập IV, bộ sách “Việt
Nam trong thế kỷ XX” có các bài tham luận giới thiệu một số vấn đề chung, đặc
biệt có bài đề cập đến tình trạng phụ nữ đơn thân, những người phụ nữ Trường Sơn,
những thanh niên xung phong, những phụ nữ có chồng hy sinh trong chiến tranh
phải chịu cảnh cô đơn, sống đơn thân, kiến nghị những chính sách hỗ trợ thích đáng
để bù đắp những thiệt thòi mà họ đang phải gánh chịu.
Phụ nữ đơn thân có rất nhiều loại hình: đơn thân do chồng mất, đơn thân do ly
hôn, ly thân, do bị chồng ruồng bỏ…. Đối với mỗi loại hình, người phụ nữ đơn thân
lại có những hoàn cảnh và gặp phải những khó khăn khác nhau. Trong cuốn sách

“Ly hôn – nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Tâm trung
tâm nghiên cứu khoa học về Gia đình và phụ nữ, NXB Khoa học xã hội, năm 2002
đã chỉ ra hậu quả mà ly hôn để lại phần nhiều ảnh hưởng đến phụ nữ và con cái của
họ. Nghiên cứu cũng đã mô tả thực trạng cuộc sống cũng như tâm lý, nhu cầu,
nguyện vọng của phụ nữ đơn thân nuôi con sau ly hôn.

4


“Quyền của phụ nữ” – khía cạnh được đề cập đến ở nhiều lĩnh vực khác nhau
như pháp luật, góc nhìn xã hội, vấn đề an sinh và quyền con người. Vấn đề này có
một số công trình nghiên cứu như Luận văn thạc sĩ “Quyền của phụ nữ theo pháp
luật Việt Nam” của tác giả Ngô Thị Mai Hiên – Khoa Luật, Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề quyền của phụ nữ và
pháp luật về quyền của phụ nữ ở Việt Nam. Phân tích thực trạng và thực tiễn thi
hành pháp luật về các quyền phụ nữ Việt Nam trong một số lĩnh vực như chính trị,
kinh tế, lao động, giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao, y tế…
Tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
quyền của phụ nữ ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Cũng đề cập đến vấn đề quyền của phụ nữ, ông Banki – Moon – Tổng thư ký
Liên hiệp quốc cũng đã khẳng định: “Trách nhiệm giải quyết tình trạng phân biệt
đối xử đang thuộc về mọi quốc gia, mọi dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, phải làm sao
để phụ nữ có được tối đa quyền phát triển”. Việc này có ý nghĩa đặc biệt to lớn
trong việc xóa bỏ nghèo đói bần cùng và tình trạng phân biệt đối xử đối với phụ nữ,
bất bình đẳng giới và nó cũng rất có ý nghĩa khi mà hầu hết những người phụ nữ
đơn thân ở những vùng nông thôn đều phải chịu sự phân biệt đối xử này.
Cuốn sách “Nỗi đau thời đại” (chuyên khảo về sự sai lệch chuẩn mực xã hội
và phụ nữ) của tác giả Lê Thị Quý (1996), NXB Phụ nữ. Cuốn sách xuất bản nhân
dịp Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ tám. Cuốn sách đề cập sâu sắc đến những
hoàn cảnh người lang thang cơ nhỡ, nạn mại dâm, bạo lực gia đình là những tệ nạn

xã hội, những nỗi đau nhức nhối nhất đã gây nên nỗi đau cho những người phụ nữ,
nhiều phụ nữ đơn thân có nguy cơ rơi vào các cạm bẫy này. Cuốn sách nhắc chúng
ta không thờ ơ với số phận đen tối của những người phụ nữ và những trẻ em bất
hạnh.
Việt Nam hiện chưa có nhiều nghiên cứu hay thống kê chính thức về số lượng
hay thực trạng của nhóm người mẹ đơn thân trên toàn quốc, mà chỉ có một số
nghiên cứu nhỏ lẻ về họ tại một số địa phương ở khu vực nông thôn. Theo kết quả
nghiên cứu, họ thường có công việc bấp bênh, điều kiện kinh tế khó khăn và rất cần
sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần để có thể cải thiện cuộc sống. Dư luận và định

5


kiến xã hội vẫn còn là một áp lực lớn đối với họ, khiến họ dễ rơi vào trạng thái trầm
cảm, căng thẳng về tâm lý. Nhiều trường hợp phải nghỉ việc do không chịu được áp
lực tâm lý tại nơi làm việc, dẫn đến gặp khó khăn về thu nhập, đời sống kinh tế.
Nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều người mẹ đơn thân ở Việt
Nam có thể do cả chủ quan và khách quan. Về nguyên nhân chủ quan, có thể là do
hôn nhân hay tình yêu không trọn vẹn. Và người phụ nữ đã phải gánh chịu sự dị
nghị của gia đình, của những người xung quanh nên quyết định nuôi con một mình.
Về nguyên nhân khách quan, điều này là kết quả và sự phản ánh những thay đổi lớn
trong cấu trúc xã hội, hay những thay đổi trong quan niệm, giá trị, liên quan đến
tình yêu, hôn nhân, gia đình của giới trẻ. Với một bộ phận lớp trẻ, hôn nhân và gia
đình được cho là gánh nặng, đi kèm nhiều nghĩa vụ. Nhiều phụ nữ trẻ sợ phải đảm
nhận vai trò và trách nhiệm trong gia đình, khiến họ lựa chọn cuộc sống nuôi con
một mình. Hơn nữa, ngày nay, người phụ nữ hiện đại đang từng bước cải thiện vị
thế xã hội của mình. Họ tự chủ hơn về kinh tế và có đủ khả năng nuôi con một mình
và bảo đảm cho con một cuộc sống đầy đủ mà không cần đến vai trò của người chồng.
Về sự hỗ trợ xã hội, ở Việt Nam hiện nay, chính sách phúc lợi dành cho người
mẹ đơn thân cùng con cái của họ chưa nhiều. Chính sách phúc lợi của chính phủ đối

với người mẹ đơn thân tuy vẫn nằm trong các chính sách chung dành cho gia đình
khuyết một thành viên, nhưng đang được thực hiện trên toàn quốc theo hai hướng:
1) Hỗ trợ trực tiếp chi phí nuôi con; 2) Hỗ trợ về các khu nhà tạm trú. Các hoạt
động hỗ trợ đơn lẻ, hạn chế ở một vài khoản chi phí nhất định, giúp đỡ người mẹ
đơn thân thu nhập thấp. Cũng có một vài khu nhà tạm trú dành cho họ, đặt dưới sự
quản lý và hỗ trợ của các tổ chức tôn giáo. Ngoài ra, cũng có một số chương trình
hỗ trợ người mẹ đơn thân được tổ chức nhỏ lẻ nằm trong chương trình hỗ trợ phụ
nữ nghèo nói chung của Hội Liên hiệp phụ nữ địa phương, hoặc của một địa
phương nhất định. Bên cạnh đó là một số chương trình của các tổ chức từ thiện, phi
lợi nhuận.
Về chi phí hỗ trợ cho người mẹ đơn thân, theo khoản 4 Điều 5 Nghị định số
136/2013/NĐ – CP về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội
của Việt Nam có quy định: “Người thuộc hộ nghèo không có chồng hoặc không có

6


vợ; có chồng hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy định của pháp
luật và đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng
người con đó đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học văn bằng thứ nhất (gọi chung là người đơn thân nghèo đang nuôi con). Tuy
nhiên trên thực tế, các thủ tục xin xác nhận là hộ nghèo cũng khá phức tạp, nhiều
bất cập nên những người mẹ đơn thân còn gặp nhiều khó khăn trong việc nhận hỗ
trợ, mức hỗ trợ là 270.000 đồng/người/tháng (nuôi 1 con) và 540.000
đồng/người/tháng (nuôi từ 2 con trở lên) cho các trường hợp này rõ ràng là quá ít ỏi
với mức sinh hoạt chung hiện nay.
Tất cả các bài viết, các tài liệu trên đây đã cung cấp rất nhiều tư liệu tham
khảo và phương pháp tiếp cận vấn đề trợ giúp cho đối tượng là phụ nữ đơn thân ở
những góc độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có một công trình hay đề tài nào đề cập
đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về lĩnh vực trợ giúp cho đối tượng là phụ nữ

nghèo đơn thân nuôi con dưới góc nhìn và phương pháp tiếp cận của ngành Công
tác xã hội.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những vấn đề đã được đề cập trong các công
trình, tài liệu kể trên cùng với việc kết hợp khảo sát thực tiễn tại tỉnh Điện Biên để
phân tích, đánh giá một cách có hệ thống về cuộc sống của những người phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con, những khó khăn, vướng mắc, những biện pháp trợ giúp
đã thực hiện, hiệu quả và những hạn chế của những biện pháp đó. Với đề tài này tác
giả xây dựng và và ứng dụng một số mô hình của công tác xã hội với một nhóm
thân chủ cụ thể nhằm phát huy tối đa tiềm năng của họ, giúp họ tự mình giải quyết
vấn đề, vươn lên hòa nhập xã hội. Đề tài cũng khẳng định và nhấn mạnh về sự cần
thiết, vai trò của công tác xã hội trong việc trợ giúp cho các đối tượng yếu thế nói
chung và đặc biệt nhấn mạnh đến nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng về
công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con. Các yếu tố ảnh
hưởng đến công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại đây.

7


Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân với một trường hợp cụ thể để
từ đó đưa ra các khuyến nghị về công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con từ thực tiễn tỉnh Điện Biên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về phụ nữ đơn thân qua các tài liệu thứ cấp.
- Phân tích thực trạng và những khó khăn gặp phải của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi
con trên trên địa bàn tỉnh Điện Biên thông qua điều tra xã hội học 37 phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con tại xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Vận dụng các lý thuyết CTXH liên quan với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con để hỗ
trợ họ giải quyết vấn đề đang gặp phải góp phần làm nâng cao chất lượng cuộc sống,
đồng thời giúp họ thoát nghèo một cách bền vững.
Đưa ra các khuyến nghị, giải pháp CTXH thông qua mô hình cá nhân trong hỗ trợ
giải quyết những vấn đề và khó khăn của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con. Hỗ trợ, tham
vấn tâm lý và kết nối với nguồn lực cộng đồng để thân chủ lấy lại sự tự tin, có nghị lực
sống và hòa nhập cộng đồng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con từ thực tiễn tỉnh Điện
Biên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng: những khó khăn, vấn đề gặp phải của phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Phạm vi về khách thể: nghiên cứu 37 phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con; chính
quyền, đoàn thể xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên và 03 cán bộ làm việc với phụ nữ
nghèo đơn thân nuôi con.
Phạm vi về địa bàn: phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại xã Thanh Chăn,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

8


Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những mối quan hệ biện chứng
giữa phụ nữ nghèo đơn thân với cộng đồng, với con cái và gia đình của họ để đánh
giá thực trạng về đời sống của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con, thực trạng của công
tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con trên địa bàn rút ra được những lý
luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác xã

hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con trên địa bàn tỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin,
số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài
liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu:
- Qua các giáo trình, tài liệu có liên quan đến công tác xã hội như: Nhập môn
công tác xã hội, Phát triển cộng đồng, Lý thuyết công tác xã hội…
- Phân tích những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn đề
công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con.
- Đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo của tỉnh như: Đề án Hỗ trợ phụ nữ
học nghề, tạo việc làm; Đề án Phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia
đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững; Báo cáo thực hiện các hoạt
động cho vay vốn, từ thiện nhân đạo, sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ; Báo cáo kết quả
năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016 của tỉnh Điện Biên....
- Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính sách
hỗ trợ đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ,
giúp đỡ những phụ nữ này.
* Phương pháp điều tra xã hội học
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu giữa nghiên cứu định lượng và nghiên
cứu định tính nhằm có được cái nhìn tổng thể, toàn diện phục vụ tốt nhất cho quá
trình nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp điều tra bảng hỏi

9


Là phương pháp dựa trên hình thức hỏi đáp trực tiếp dựa trên bảng các câu
hỏi được soạn thảo trước, điều tra viên tiến hành phát bảng hỏi, hướng dẫn thống

nhất cách trả lời các câu hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi rồi
ghi cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên.
Với phương pháp này, đề tài sẽ phát bảng hỏi dành cho 37 phụ nữ nghèo đơn
thân nuôi con tại xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên để tìm hiểu, thu thập thông tin
chung về thực trạng đời sống của họ như điều kiện về nhà ở, thu nhập, các nhu cầu
của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con …, tìm hiểu về thực trạng hoạt động công tác
xã hội trên địa bàn đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con như các hoạt động hỗ
trợ xã hội, hỗ trợ các nguồn lực, hoạt động tuyên truyền… của nhân viên công tác
xã hội đối với thân chủ.
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được sử dụng
để tìm hiểu sâu sát về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động cơ, quan điểm,
chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn đề liên quan.
Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu 45 người để tìm hiểu về
đời sống, tâm tư nguyện vọng cũng như nhu cầu của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi
con và thuận lợi, khó khăn gặp phải của đội ngũ cán bộ khi thực hiện chính sách trợ
giúp những phụ nữ này tại tỉnh Điện Biên.
* Phương pháp Công tác xã hội (phương pháp CTXH cá nhân)
Tiến trình công tác xã hội cá nhân là một chuỗi hoạt động tương tác giữa nhân
viên công tác xã hội với thân chủ để giải quyết vấn đề. Trong quá trình này, thông
qua mối quan hệ tương giao giữa nhân viên CTXH với thân chủ, nhân viên CTXH
dùng chính các quan điểm, giá trị, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng
của mình để giúp thân chủ hiểu rõ vấn đề của mình đồng thời khích lệ họ biểu đạt
tâm tư, nhu cầu, phát huy tiềm năng, tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn
đề, cải thiện điều kiện sống của mình.
Tiến trình CTXH là quá trình bao gồm các bước của các hoạt động do nhân
viên CTXH và đối tượng thực hiện để giải quyết vấn đề. Đây là những bước chuyển

10



tiếp theo trình tự logic, nhưng trong quá trình giúp đỡ có những bước kéo dài suốt
quá trình như thu thập dữ liệu, thẩm định và lượng giá:
Bước 1: Tiếp cận đối tượng và xác định đối tượng ban đầu
Bước 2: Thu thập thông tin
Bước 3: Chuẩn đoán
Bước 4: Lên kế hoạch trị liệu
Bước 5: Trị liệu
Bước 6: Lượng giá
Bước 7: Kết thúc
Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con là những người có chức năng xã hội suy giảm
do nhiều nguyên nhân như: sức khỏe suy yếu, kinh tế khó khăn, quan hệ xã hội mâu
thuẫn… .do đó, việc áp dụng phương pháp CTXH cá nhân vào đối tượng này sẽ
thiết lập được mối quan hệ tốt đối với đối tượng, giúp họ hiểu rõ được chính họ
hoặc hoàn cảnh sống của họ, xác định lại mối tương quan với những người xung
quanh…..từ đó, nhân viên CTXH sẽ đóng vai trò là người định hướng, hỗ trợ giúp
đỡ thân chủ tăng cường khả năng huy động và vận dụng các nguồn lực của bản thân
và xã hội nhằm tạo sự thay đổi cho chính mình.
Hơn nữa, phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con là những người luôn có những mặc
cảm, tự ti trong cuộc sống. Họ chỉ nhìn thấy sự yếu kém và luôn có những cái nhìn
tiêu cực về bản thân cũng như bối cảnh xung quanh mình. Do vậy, nhân viên CTXH
cần phân tích để họ nhìn thấy những điểm mạnh, những mặt tích cực của bản thân
và những nguồn lực mà họ có thể huy động để họ có thêm động lực vươn lên thay
đổi cuộc sống.
Như vậy, trong suốt tiến trình Công tác xã hội cá nhân, nhân viên CTXH luôn
đóng vai trò hỗ trợ, “không làm thay, làm hộ, làm cho” mà cần khơi gợi những tiềm
năng để thân chủ tự giải quyết vấn đề của chính mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên ở tỉnh nghiên cứu có hệ thống hoạt động công tác

xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con và có những đóng góp mới sau đây:

11


- Vận dụng cơ sở lý luận và những đặc điểm của hoạt động công tác xã hội
đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con.
- Đánh giá có hệ thống và khái quát thực trạng hoạt động công tác xã hội trên
địa bàn tỉnh Điện Biên giúp cho những người nghiên cứu về vấn đề này ở Điện Biên
có thể tham khảo và rút ra những kinh nghiệm cho mình về vấn đề này.
- Đưa ra các khuyến nghị góp phần hoàn thiện công tác xã hội cá nhân và từ
đó nâng cao nhận thức của xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con. Góp
phần giúp chính quyền địa phương, cán bộ, đoàn thể và bản thân PNNĐTNC nhận
ra được vấn đề của mình và các giải pháp, trong đó có công tác xã hội để giúp cải
thiện tình hình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung nhận thức lý luận về
thực hiện pháp luật cho tác giả và đề xuất những giải pháp phù hợp trong quá trình
hoạch định chính sách, triển khai chính sách, làm tài liệu tham khảo cho các nghiên
cứu sau này về lĩnh vực phụ nữ nói chung, phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng, biểu; danh mục tài liệu
tham khảo thì nội dung của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo
đơn thân nuôi con
Chương 2: Thực trạng phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại tỉnh Điện Biên
Chương 3: Vận dụng công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi
con.

12



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHỤ
NỮ NGHÈO ĐƠN THÂN NUÔI CON
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
* Phụ nữ nghèo đơn thân
Phụ nữ đơn thân có nghĩa là phụ nữ thiếu vắng chồng hoặc có chồng nhưng
không sống chung cùng chồng, phụ nữ đơn thân có 3 dạng:
- Những người phụ nữ đã lập gia đình gồm: Phụ nữ góa chồng, ly hôn, ly thân
hay có chồng đi xa vắng từ 3 đến 10 năm không tin tức, họ sống cùng gia đình, con
cháu, một số ít không sống cùng gia đình đặc biệt khi về già.
- Còn lại là những phụ nữ chưa lập gia đình không lấy chồng, đã nhiều tuổi, họ
không lấy chồng vì những nguyên do khác nhau: có người không có chồng nhưng
có con ngoài giá thú, thường họ sống với con hoặc cha mẹ đẻ. Những người phụ nữ
không chồng không con thì sống với anh chị em ruột hoặc cha mẹ của mình. Số ít
người sống độc thân, đơn côi.
- Còn phụ nữ đơn thân do lựa chọn, đây là một xu thế mới của thời đại ngày
nay, những người phụ nữ đơn thân này họ theo đuổi hình mẫu người phụ nữ thành
công trong công việc nhưng vẫn luôn bản lĩnh chăm sóc con một cách tốt nhất và họ
lựa chọn làm mẹ đơn thân.
Phụ nữ nghèo đơn thân là những người thường có học vấn thấp, nuôi con một
mình, nhận thức hạn chế và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, sinh hoạt. Họ chủ
yếu là những người lao động thuần nông hoặc buôn bán nhỏ, lao động chân tay và
có chuyên môn thấp. Họ là những người ít có cơ hội tiếp cận với khoa học, công
nghệ, tín dụng và đào tạo…không những thế phụ nữ nghèo đơn thân còn là những
người thường gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống gia đình nhất là trong việc tự
quyết định các công việc trong gia đình một cách đơn độc. Ngoài xã hội thì họ
thường là những người dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi, họ rất ít có cơ hội


13


thăng tiến bản thân; đặc biệt, họ thường được trả công lao động thấp hơn nam giới
kể cả cùng loại công việc [36, tr.68].
Qua đó ta thấy, phụ nữ nghèo đơn thân có đời sống khó khăn về vật chất và họ
thường khó tiếp cận với các dịch vụ kinh tế - xã hội và văn hóa, ít có cơ hội thăng
tiến cho bản thân và gia đình.
* Phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
Khái niệm phụ nữ đơn thân nuôi con là một khái niệm mới xuất hiện trong
những năm 1990, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau về khái
niệm. Theo một số nhà khoa học: phụ nữ đơn thân là những người phụ nữ chưa lấy
chồng hoặc không muốn lấy chồng, những người phụ nữ góa bụa, ly hôn, ly thân
hoặc bị chồng ruồng bỏ. Họ có thể có con (hay con nuôi) hoặc không có con. Họ có
thể sống một mình hay sống cùng con cái, gia đình, họ hàng.
Trong khuôn khổ đề tài này, khái niệm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con được
hiểu như sau: “phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con là những người mẹ một mình nuôi
con mà không có chồng và thuộc hộ nghèo”.
1.1.2. Nghèo đói và một số khái niệm liên quan
Xung quanh khái niệm nghèo đói vẫn còn nhiều quan điểm và nhận định khác
nhau song chúng đều thống nhất ở một số điểm nhất định tuy nhiên sẽ không thể có
một chuẩn mực chung về nghèo khổ cho tất cả các quốc gia. Ngay trong cùng một
quốc gia cũng có thể khác nhau giữa các vùng, thậm chí là tiểu vùng.
Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan
Mạch năm 1995, đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau: “Người nghèo là tất cả những ai
mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la ( USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ
mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
Trong “Báo cáo về tình hình phát triển thế giới – Tấn công nghèo đói, năm 2000”,
Ngân hàng thế giới thừa nhận quan điểm truyền thống hiện nay về đói nghèo: Đói nghèo

“không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất (được đo lường theo một khái niệm thích hợp
về thu nhập hoặc tiêu dùng) mà còn là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế”. Báo cáo
đã mở rộng quan niệm về đói nghèo khi tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro
của người nghèo. Báo cáo nêu bật: “Nghèo có nghĩa là không có nhà cửa, quần áo, ốm đau

14


và không ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường”. Báo cáo chỉ ra “người nghèo
đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự biểu hiện bất lợi nằm ngoài khả năng kiểm soát
của họ. Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra rìa và
không có tiếng nói quyền lực trong các thể chế đó”.
Để giúp các nước chống lại sự đói nghèo, từ ngày 15 đến ngày 17/9/1993 tại
Băng Cốc (Thái Lan) đã diễn ra hội nghị giảm nghèo đói ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức, các nhà nghiên cứu và chuyên gia hoạch định
chính sách đã đưa ra khái niệm, định nghĩa đói nghèo như sau: “Nghèo đói là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy trình độ phát
triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Có thể xem đây là định
nghĩa chung nhất về nghèo đói, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp
đánh giá nhận diện nét chính yếu phổ biến về đói nghèo.
Ở Việt Nam, nghèo được đánh giá theo thu nhập bình quân đầu người, theo từng
khu vực thành thị và nông thôn, theo từng địa phương nhất định đều có những tiêu chuẩn
nghèo riêng. Ngày 19 tháng 11 năm 2015, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
59/2015/QĐ – TTg về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016 – 2020. Trong đó quy định rõ các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp
dụng cho giai đoạn 2016 – 2020; chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung
bình áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020.
Tại tỉnh Điện Biên, các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016 – 2020 gồm tiêu chí về thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ

bản. Với tiêu chí về thu nhập, quy chuẩn nghèo ở khu vực nông thôn là 700.000
đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị là 900.000 đồng/người/tháng. Quy định chuẩn
cận nghèo ở khu vực nông thôn là 1.000.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị là
1.300.000 đồng/người/tháng. Về tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hôi cơ bản
bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.
1.1.3. Lý luận về công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
*Khái niệm về công tác xã hội
Có nhiều khái niệm về công tác xã hội được đưa ra ở các góc độ khác nhau:

15


Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011) thống
nhất một định nghĩa về CTXH như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia
vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay
đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất
lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và
lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với với môi
trường sống.
Theo IFSW (Hiệp hội nhân viên CTXH Quốc tế), Tháng 07/2000, Montreal,
Canada: "Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải
quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải
phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu.
Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, CTXH can thiệp ở
các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng
xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề".
Theo từ điển Bách khoa ngành công tác xã hội (1995) có ghi “công tác xã hội
là một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo
ra những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”.
Công tác xã hội ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía cạnh

khác nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: “công tác xã hội là hoạt
động thực tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc,
phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. Công tác xã
hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội’’.
Công tác xã hội tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết
khoa học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức
năng xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu
thế hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ
chuyên môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để
thỏa mãn những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về
vị trí, vai trò xã hội của mình.

16


Và như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của tác giả
Bùi Thị Xuân Mai:“công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp
nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu
cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính
sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và
phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
* Khái niệm công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
Hiện nay, công tác xã hội trên thế giới chủ yếu hướng đến các đối tượng như
người nghèo, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nhiễm
HIV/AIDS, mại dâm… Tuy nhiên, còn một nhóm đối tượng quan trọng nữa của
công tác xã hội đó là phụ nữ nghèo đơn thân nói chung và phụ nữ nghèo đơn thân
nuôi con nói riêng mà trong nhóm này đối tượng chiếm phần khá lớn trong phụ nữ
nghèo đơn thân. Đây là nhóm đối tượng cũng luôn cần sự trợ giúp của công tác xã
hội . Với đối tượng này công tác xã hội không chỉ can thiệp giải quyết vấn đề cá
nhân do những hạn chế về sức khoẻ thể chất, tinh thần mà còn có thể cung cấp, kết

nối họ tiếp cận những nguồn lực nhằm giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc
sống. Những trợ giúp của nhân viên công tác xã hội được thực hiện bằng các
phương pháp chuyên môn như công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội nhóm hay
công tác xã hội với cộng đồng cùng với các kỹ năng như: giao tiếp, tham vấn, vãng
gia, đánh giá vấn đề, biện hộ, can thiệp khủng hoảng, kết nối, truyền thông…
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách ngắn gọn nhất là “công tác xã hội đối
với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con là một hoạt động chuyên nghiệp của công tác
xã hội nhằm trợ giúp phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con giải quyết các vấn đề khó
khăn mà họ đang gặp phải từ đó giúp họ giải quyết những vấn đề đang gặp phải,
nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai
trò, vị trí của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con, giúp họ hòa nhập xã hội, đồng thời
thúc đẩy các điều kiện xã hội để phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tiếp cận được với
chính sách, vận động kết nối nguồn lực và hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ tâm lý- xã
hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản góp phần đảm bảo an sinh xã hội”.
Trong phạm vi của nghiên cứu, tôi vận dụng cách hiểu chung nhất về công tác xã

17


hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con như trên để phục vụ cho nghiên cứu
hoạt động công tác xã hội đối với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con tại tỉnh Điện
Biên.
1.2. Phƣơng pháp luận
Phương pháp luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu của luận văn là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.2.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Theo Triết học Mác – Lê nin: Chủ nghĩa duy vật biện chứng được hiểu là khoa
học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và của tư
duy con người. Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu
thực hành công tác xã hội cá nhân với phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con từ thực tiễn

tỉnh Điện Biên nhất định phải phát huy cao nhất sự tham gia, sự tác động qua lại
tích cực giữa nhóm phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con, giữa nhân viên công tác xã
hội, giữa các chính sách của Nhà nước, địa phương đưa ra phải phù hợp với tình
hình và hoàn cảnh thực tiễn tại địa phương, mở ra những cơ chế, hành lang pháp lý,
những chính sách thuận lợi cho nhóm phụ nữ yếu thế có thể phát huy nội lực của
bản thân vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
Khi có sự quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể địa phương cùng cộng
đồng kết hợp với chính sách phù hợp của Đảng và Nhà nước về sự trợ giúp những
người phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con và những người phụ nữ đơn thân có thể phát
huy cao nhất những nội lực của mình, bỏ qua mặc cảm, tự ti để vượt qua khó khăn,
vượt lên chính mình, hòa nhập cộng đồng.
1.2.2. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội,
là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại,
nhờ đó hoàn thiện và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và phép biện chứng duy vật; hoàn thiện và phát triển thế giới quan, phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sử dụng phương pháp duy vật lịch sử
nhân viên công tác xã hội sẽ phải xác định được vai trò của mình trong từng giai

18


đoạn, từng hoàn cảnh và từng cộng đồng cụ thể, xét trên lĩnh vực địa lý, từng nền
văn hóa khác nhau để có những hướng tiếp cận, hướng can thiệp kịp thời và hiệu
quả nhất. Phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nhân viên công tác xã hội phải có
tính linh hoạt cao, không cứng nhắc và không áp dụng hoàn toàn cách giải quyết
của nhóm người này trong thời gian này vào nhóm người khác trong thời gian hiện
tại vì những cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật trong từng giai đoạn có những sự
điều chỉnh, thay đổi. Đòi hỏi NVCTXH phải tôn trọng lịch sử, tôn trọng cái đã làm

được để tiếp thu, chắt lọc những mặt được, mặt tốt để áp dụng vào trong quá trình
can thiệp và phải thường xuyên cập nhật, nắm vững quan điểm, chủ trương, chính
sách để có thể đề ra những phương hướng, giải pháp phù hợp vận dụng một cách có
hiệu quả nhất trong quá trình trợ giúp.
Vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử trong quá trình nghiên cứu: Vấn đề của phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con
luôn được xem xét một cách toàn diện cả về phương diện khách quan cũng như khía
cạnh chủ quan; đặt vấn đề trong bối cảnh không gian, thời gian cụ thể, trong những
điều kiện lịch sử cụ thể và có mối quan hệ biện chứng với các điều kiện khác trong bối
cảnh ấy.
Mỗi ngành khoa học đều có đối tượng, phương pháp khác nhau trong việc tiếp
cận và giải quyết các vấn đề. Do đó, dưới góc độ ngành công tác xã hội khi nghiên
cứu vấn đề phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con phải dựa trên nền tảng triết lý “Con
người là giá trị cao nhất trong ngành Công tác xã hội”, dù thân chủ của ta là ai, là
người như thế nào thì chúng ta cũng phải coi họ như là một con người với đầy đủ
nhân cách và giá trị vốn có của họ.
1.2.3. Hƣớng tiếp cận nghiên cứu
Luận văn tiếp cận nghiên cứu về quyền con người, quyền con người của phụ
nữ và một số lý thuyết xã hội học và công tác xã hội có liên quan, đời sống của
người phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con, những khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc
sống cũng như các giải pháp, phương hướng trợ giúp cho nhóm đối tượng này gắn
liền với các phương pháp tiếp cận và trợ giúp của ngành công tác xã hội. Trên cơ sở
hệ thống lý thuyết tương đối hoàn chỉnh, đề tài khái quát, phân tích và đánh giá một

19


cách có hệ thống về cuộc sống của những người phụ nữ nghèo đơn thân nuôi con,
những khó khăn, vướng mắc, những biện pháp trợ giúp đã thực hiện, hiệu quả và
những hạn chế của những biện pháp đó. Tác giả cũng xây dựng và ứng dụng một số

mô hình của công tác xã hội với một nhóm thân chủ cụ thể nhằm phát huy tối đa
tiềm năng của họ, giúp họ tự mình giải quyết vấn đề, vươn lên hòa nhập xã hội. Đề
tài cũng khẳng định và nhấn mạnh về sự cần thiết phải đưa ngành công tác xã hội
vào đời sống nói chung, trong việc trợ giúp các đối tượng yếu thế nói riêng và đặc
biệt nhấn mạnh đến nhóm phụ nữ yếu thế trong cộng đồng.
1.3. Các lý thuyết vận dụng trong luận văn
1.3.1. Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Là con người trong xã hội, mỗi người đều có những nhu cầu về vật chất và
nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường rất đa dạng, phong phú và
luôn phát triển, biến đổi cùng với sự phát triển của con người. Nhu cầu con người
phản ánh mong muốn chủ quan hoặc khách quan tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố
văn hóa, nhận thức và vị trí xã hội của họ.
Để tồn tại con người cần phải đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cơ bản cần cho
sự sống như: ăn, mặc, nhà ở và chăm sóc y tế…để phát triển con người cần được
đáp ứng các nhu cầu cao hơn như: nhu cầu được an toàn, được học hành, được yêu
thương, được tôn trọng và khẳng định. Xét cho cùng sự vận động và phát triển của
xã hội loài người nhằm mục đích đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu của con
người. Việc đáp ứng các nhu cầu của con người chính là động cơ thúc đẩy con
người tham gia hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908 – 1970) được xem như một trong
những người tiên phong trong trường phái tâm lý học nhân văn, trường phái này
được xem là thế lực thứ 3 khi thế giới lúc đó đang biết đến hai trường phái tâm lý
chính: Phân tâm học và chủ nghĩa hành vi.
Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó
được thừa hưởng rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao
gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về thang bậc nhu cầu của con người.
Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật

20



×