Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã từ thực tiễn tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.94 KB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KIỀU NGỌC LỄ

ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CHO CÁN BỘ CẤP XÃ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

KIỀU NGỌC LỄ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT VỀ
ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CHO CÁN BỘ CẤP XÃ ........ 11
1.1.Những vấn đề lý luận về đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã
......................................................................................................................... 11
1.2. Cơ sở pháp luật về đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã ....... 31
1.3 Những yếu tố tác động đến đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp
xã ..................................................................................................................... 36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CHO CÁN BỘ CẤP XÃ TẠI TÌNH HÀ GIANG ...................................... 44
2.1. Những yếu tố tác động đến đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp
xã tại tỉnh Hà Giang. ...................................................................................... 44
2.2. Thực trạng tổ chức đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tại
tỉnh Hà Giang .................................................................................................. 51
2.3. Đánh giá kết quả đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tại tỉnh
Hà Giang ......................................................................................................... 58
Chƣơng 3: TĂNG CƢỜNG ĐÀO TẠO NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CHO CÁN BỘ CẤP XÃ TẠI TỈNH HÀ GIANG ...................................... 62
3.1. Nhu cầu và định hướng tăng cường đào tạo nghề công tác xã hội cho
cán bộ cấp xã ở nước ta hiện nay ................................................................... 62
3.2 Các giải pháp tăng cường đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã
ở nước ta hiện nay. .......................................................................................... 64
3.3. Kế hoạch triển khai đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tại
tỉnh Hà Giang .................................................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
BẢNG
Bảng 2.1 Số liệu kết quả thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên ................ 49

Bảng 2.2 Mức độ hài lòng cơ sở đào tạo nghề công tác xã hội tỉnh Hà Giang
......................................................................................................................... 52
Bảng 2.3 Các môn học cần thiết cho hệ Trung cấp công tác xã hội tại Hà
Giang ............................................................................................................... 54
Bảng 3. 1: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ, viên chức công tác xã
hội .................................................................................................................... 66
Bảng 3.2 dự kiến mạng lưới nhân viên công tác xã hội năm 2020 ................. 74
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Trình độ của cán bộ cấp xã theo chuyên môn nghiệp vụ ........... 45
Biểu đồ 2.2. Trình độ của công chức xã theo chuyên môn nghiệp vụ ............ 46
Biểu đồ 2.3. Tuổi của cán bộ cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang ................. 48
Biểu đồ 2.4. Hình thức đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tỉnh
Hà Giang. ........................................................................................................ 53
Biểu đồ 2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề công tác xã
hội cho cán bộ cấp xã tại Tỉnh Hà Giang. ....................................................... 57
Biểu 2.6. Nhận thức của cán bộ xã về đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ
cấp xã tại Hà Giang ......................................................................................... 58


DANH MỤC VIẾT TẮT
LĐNT

Lao động nông thôn

Bộ LĐ TB&XH

Bộ Lao động thương binh và Xã hội

Bộ GD& ĐT


Bộ Giáo dục và Đào tạo

CTXH

Công tác xã hội

Cục BTXH

Cục Bảo trợ xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐNĐ

Hội đồng nhân dân

VP- TK

Văn phòng thống kê


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, nghề công tác xã hội đã phát triển trở
thành một nghề chuyên nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề công tác xã hội
mới chỉ ở bước đầu hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó
trên tất cả các khía cạnh. Thực tế cho thấy, đa phần nhân viên làm công tác xã
hội chưa được đào tạo cơ bản. Đội ngũ nhân viên này phát triển có tính tự

phát chủ yếu là của các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ,
Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, cán bộ phường, xã đôi khi là những
người dân tự nguyện. Họ làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đào
tạo kỹ năng khoa học xã hội, kỹ năng nghề cần thiết về công tác xã hội. Do
vậy, hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội, vấn đề của cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng dân cư không cao, thiếu tính bền vững. Nghề công tác xã
hội hiện là ngành mới đào tạo ở Việt Nam. Sinh viên tốt nghiệp ngành công
tác xã hội có thể làm việc tại các cơ quan của ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội các cấp từ Trung ương đến địa phương, hoặc các cơ sở cung cấp
dịch vụ xã hội cho các loại đối tượng xã hội khác nhau thuộc các lĩnh vực
như: y tế, giáo dục, pháp luật, phúc lợi xã hội… cũng có thể làm việc độc lập
với vai trò là nhân viên xã hội, kiểm huấn viên, nhà nghiên cứu, hay cán bộ
hoạch định chính sách xã hội. Từ năm 2004, Bộ GD&ĐT đã ban hành chương
trình khung đào tạo ngành công tác xã hội bậc đại học và bậc cao đẳng, nhưng
phải tới năm 2010 khi Đề án 32 được ban hành, mới tạo cơ sở pháp lý cho
việc hình thành, phát triển nghề công tác xã hội. Nghề công tác xã hội ở ta
ngày càng được chuẩn hóa và đào tạo một cách bài bản. Bộ Nội vụ đã ban
hành chức danh, mã ngạch viên chức công tác xã hội. Đây được coi là bước
khởi đầu mở ra một nghề mới đầy triển vọng trên thị trường lao động. Tuy
nhiên số lượng, chất lượng đào tạo ngành công tác xã hội đáp ứng nhu cầu xã
hội đang là thách thức lớn.
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng trong
hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, vấn đề này được Hiến
1


pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi tại điều 118. Chính
quyền cấp xã có chức năng: bảo đảm việc chấp hành các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết định của chính
quyền Nhà nước cấp trên; quyết định và đảm bảo thực hiện các chủ trương,

biện pháp để phát huy mọi khả năng và tiềm năng của địa phương về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong xã và làm tròn nghĩa
vụ của địa phương với Nhà nước. Cán bộ, công chức cấp xã là những người
gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, hàng ngày triển khai, hướng dẫn,
vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, trực tiếp lắng nghe, giải quyết hoặc kiến nghị lên
chính quyền cấp trên những kiến nghị, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Vì
v ậy, chất lượng hoạt động của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ảnh
hưởng trực tiếp đến sức mạnh của hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực
tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố
chính quyền cấp xã vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính
quyền cấp xã vững mạnh thì phải xây dựng cán bộ, công chức có đủ năng lực
chuyên môn phù hợp với vị trí công việc và đầy đủ các phẩm chất để thực
hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Trước thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội của nước ta hiện nay và căn
cứ trên tình hình thực tế cán bộ, công chức xã, (phường) trên cả nước. Đặc biệt
là cán bộ công tác xã hội cấp xã của tỉnh Hà Giang. Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề
tài: “Đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã từ thực tiễn tỉnh Hà Giang”.
Nhằm đánh giá lại thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội của cả nước và nhu
cầu đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những vấn đề trong lĩnh vực hoạt động CTXH đã thu hút được sự chú
ý của các nhà nghiên cứu đặc biệt là trong những năm gần đây. Bởi tính cấp
thiết của CTXH ra đời đáp ứng nhu cầu xã hội, phát triển hệ thống an sinh
2


xã hội. Một số khía cạnh trong nghiên cứu CTXH như: nghiên cứu về nguồn

nhân lực, nhu cầu đào tạo CTXH, mạng lưới dịch vụ CTXH, những lĩnh vực
đòi hỏi đáp ứng nhu cầu CTXH, hệ thống cơ sở thực hành CTXH.
2.1. Nghiên cứu về nhu cầu đào tạo và nhu cầu xã hội đối với công tác xã hội
Theo kết quả nghiên cứu “Nguồn nhân lực và nhu cầu đào tạo công tác
xã hội ở Việt Nam” - do Trường Đại học Lao động - Xã hội, Bộ Giáo dục và
Đào tạo tiến hành trên địa bàn 4 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Lạng Sơn, Tp Hồ
Chí Minh, và Đồng Tháp) với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Unicef, năm
2005. Nghiên cứu đưa ra những số liệu định lượng về thực trạng phát triển
công tác xã hội. Đồng thời tác giả phân tích bối cảnh phát triển công tác xã
hội ở nước ta gắn liền với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, công bằng trong tiếp
nhận những lợi ích từ sự phát triển kinh tế. Việc phát triển công tác xã hội
như một nghề được xem như việc giải quyết sự gia tăng của các vấn đề xã
hội đi kèm theo phát triển kinh tế và đáp ứng đòi hỏi phải có cách tiếp cận
mang tính khoa học và hệ thống. Tác giả đặt ra những câu hỏi để phát triển
nghề công tác xã hội ở Việt Nam như: nhiệm vụ của công tác xã hội, việc
đào tạo nên được mở rộng ở cấp nào và phát triển như thế nào, làm thế nào
để có thể phát triển công tác xã hội một cách tập thể?... Để có thể nắm bắt
được bức tranh toàn cảnh về thực trạng công tác xã hội tại Việt Nam, Phòng
bảo vệ trẻ em của UNICEF Việt Nam kết hợp cùng với Bộ Lao động thương
binh Xã hội, Ủy ban dân số Gia đình và Trẻ em, Bộ giáo dục Đào tạo và 3
trường đại học để tiến hành một cuộc khảo sát và phân tích hiện trạng về lĩnh
vực an sinh xã hội, phạm vi kiến thức về công tác xã hội và các quan điểm
của nhiều tổ chức, ban ngành liên quan về phát triển công tác xã hội như
một nghề ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy những người trả lời
(60%) cho rằng họ đã được đào tạo công tác xã hội. Việc đào tạo này phần
lớn nhằm nói đến các khoá đào tạo ngắn hạn được cấp chứng chỉ, và chỉ có
khoảng từ 15% đến 20% được đào tạo công tác xã hội cấp đại học. Một số
người trả lời họ được đào tạo công tác xã hội thực tế là những người có bằng
đại học của một chuyên ngành hoặc lĩnh vực khác và họ có học qua những
3



lớp đào tạo tại chức về công tác xã hội. Loại hình công việc các cán bộ đang
đảm nhận phần lớn là làm việc với cá nhân, gia đình và phát triển cộng đồng,
còn công tác tham vấn, quản lý chương trình và công tác hành chính là loại
hình công việc chiếm phần nhỏ nhất. Từ những kết quả nghiên cứu như vậy,
tác giả thảo luận khung chương trình phát triển công tác xã hội và đưa ra
một số ý tưởng cho phát triển công tác xã hội ở Việt Nam.
Theo nghiên cứu của tác giả Đặng Kim Khánh Ly “Nguồn nhân lực
Công tác xã hội và nhu cầu đào tạo” - trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2010Đổi mới CTXH trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
những vấn đề lý luận và thực tiến. Tác giả khẳng định Công tác xã hội ngày
càng có vị trí quan trọng trong sự nghiệp ổn định xã hội và phát triển bền
vững. Nguồn nhân lực về CTXH đang trở thành một nhu cầu cấp bách cho
mọi quốc gia. Nhu cầu phát triển ngành CTXH Việt Nam đã xuất hiện từ rất
lâu trong lịch sử. Tuy nhiên nguồn nhân lực khoa học ngành CTXH ở nước ta
hiện nay còn thiếu, nhân viên công tác xã hội còn yếu về kinh nghiệm và kỹ
năng tay nghề. Những cán bộ giảng dậy, nhà nghiên cứu về CTXH tại các
trường đại học, các trung tâm nghiên cứu chưa được chuẩn hóa, chưa được
đào tạo bài bản và nâng cao trình độ.
Theo nghiên cứu tác giả Nguyễn Thị Thu Hà “Nhu cầu hoạt động CTXH
trong một số lĩnh vực tại Việt Nam hiện nay” - trong Tạp chí Xã hội học Viện XHH, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, ISSN 0866 – 7659, 2011. Nhu
cầu phát triển CTXH ở Việt Nam ngày càng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế xã hội. Cán bộ CTXH cần phải có những kiến thức, kỹ năng và phẩm
chất cần thiết để đáp ứng hiệu quả và hợp lý nhu cầu xã hội. Với nhiều vấn
đề xã hội đặt ra thì nhu cầu về một đội ngũ CTXH đảm bảo đủ về số lượng
và chất lượng là rất cần thiết với Việt Nam. Tác giả phân tích nhu cầu xã hội
đối với hoạt động CTXH trên một số lĩnh vực cũng như một số nhóm đối
tượng như:
Nhu cầu CTXH trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo vai trò của cán bộ
nhân viên CTXH là rất quan trọng bởi cán bộ nhân viên CTXH là người giúp

4


những người nghèo nhận ra và phát huy tối đa năng lực của mình cũng như
gia đình để vươn lên thoát nghèo bền vững.
Nhu cầu xã hội trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em không chỉ giới hạn ở
những nhóm trẻ khó khăn thiệt thòi về điều kiện vật chất hay thể chất mà còn
với cả những trẻ em gặp khó khăn về tinh thần. Trẻ em là nhóm đối tượng
đặc biệt cần chú trọng đến công tác phòng ngừa, loại bỏ sớm các yếu tố nguy
cơ ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện cuả trẻ.
Nhu cầu xã hội trong lĩnh vực chăm sóc người cao tuổi bởi có hàng triệu
người cao tuổi đang cần đến sự hỗ trợ, trợ giúp xã hội trong khi đó nguồn lực
nhân viên công tác xã hội còn hạn chế. Nhu cầu trợ giúp là đa dạng và rất
quan trọng. Cần phải có một đội ngũ cán bộ CTXH chuyên nghiệp, đông đảo
được đào tạo để đáp ứng nhu cầu chăm sóc, hỗ trợ người cao tuổi…Tác giả
bàn đến nhu cầu xã hội trong một số lĩnh vực khác như thanh niên, nhu cầu
hoạt động CTXH trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe. Để phát triển
CTXH chuyên nghiệp, CTXH ở Việt Nam cần phải giải quyết được những
nhu cầu xã hội đặt ra mà trước hết là đào tạo về số lượng cũng như đảm bảo
chất lượng nguồn nhân lực CTXH.
Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Hoa “Nhu cầu về hoạt động CTXH đối
với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay” - Trong kỷ yếu hội thảo khoa học:
Đổi mới CTXH trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế những
vấn đề lý luận và thực tiễn - 2010. Tác giả đã đưa ra những nhu cầu hoạt
động CTXH đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu can thiệp CTXH
trong một số lĩnh vực của đời sống như nhóm yếu thế trong xã hội, bất kỳ
nhóm nào cần chăm sóc sức khỏe tâm thần, các lĩnh vực y tế chăm sóc sức
khỏe cộng đồng. CTXH đáp ứng nhu cầu nhóm đối tượng có hoàn cảnh bên
cạnh những nhóm đối tượng bất ổn của xã hội. Những nhu cầu trong hoạt
động đào tạo CTXH, đội ngũ nhân viên CTXH còn thiếu và yếu chưa đảm

bảo được chất lượng. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa phát triển
CTXH theo hướng chuyên nghiệp hóa gắn liền với thực tiễn. Những nhu cầu
về hoạt động nghiên cứu thuộc lĩnh vực CTXH: nghiên cứu vấn đề liên quan
5


đến đối tượng yếu thế, những phương pháp, kỹ thuật, kỹ năng thực hành
CTXH…Bên cạnh đó tác giả có một số phương hướng thúc đẩy hoạt động
CTXH nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển CTXH: cần thể chế hóa ngành
CTXH một cách chính thức, chú trọng hơn nữa công tác đào tạo sinh viên
chuyên ngành CTXH.
Những nghiên cứu về nhu cầu xã hội đối với CTXH và nhu cầu đào
tạo về CTXH các tác giả đều khẳng định: hiện nay CTXH có vai trò quan
trọng, trong từng lĩnh vực hoạt động đòi hỏi nhu cầu về hoạt động CTXH
chuyên nghiệp. Để đáp ứng đòi hỏi của xã hội, chúng ta cần phải đào tạo đội
ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp có kỹ năng, chuyên môn, phương
pháp, để hoạt động CTXH đạt được hiệu quả cao và bền vững.
2.2. Nghiên cứu về thực trạng hoạt động công tác xã hội
Đề tài cấp Bộ do Nguyễn Tiệp “Luận cứ khoa học để xác định công
tác xã hội trở thành một nghề” (chủ nhiệm). Đề tài đã đưa ra cơ sở khoa học
những luận cứ để xác định CTXH là một nghề, một hoạt động nghề nghiệp
chuyên môn. Những cơ sở, tiêu chí để xác định CTXH trở thành một nghề.
Trên cơ sở nghiên cứu tác giả đánh giá tình hình phát triển CTXH ở Việt
Nam. Kết quả điều tra là bức tranh đánh giá thực trạng về đối tượng, cán bộ
làm CTXH trực tiếp giúp đỡ các nhóm đối tượng: người già cô đơn, trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn, gái mại dâm, người khuyết tật, gia đình nghèo, nạn
nhân chiến tranh, người thất nghiệp, người khuyết tật. Qua đó nội dung hoạt
động của CTXH cũng tập trung vào vấn đề như: chăm sóc nâng đỡ những
người yếu thế trong xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo đặc biệt là vùng
nông thôn, chăm sóc đời sống vật chất tinh thần cho người đã hoàn thành

nghĩa vụ lãnh đạo, người về hưu, bị tai nạn lao động… Phát triển CTXH ở
Việt Nam là cần thiết và xu hướng tất yếu là phải xây dựng mô hình phát
triển CTXH một cách chuyên nghiệp. Tác giả đưa ra một số khuyến nghị để
xây dựng phát triển nghề CTXH như: Xây dựng tiêu chuẩn, chức danh nghề
CTXH, đối tượng nghề, xây dựng quy điều đạo đức nghề nghiệp cho CTXH,
6


thành lập hiệp hội nghề nghiệp CTXH. CTXH phát triển chuyên nghiệp phải
chú ý đến đào tạo CTXH một cách chuyên nghiệp.
Theo Viện Khoa học lao động và Xã hội đã tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đánh giá nhu cầu sử dụng dịch vụ CTXH và đề xuất kế hoạch mô hình
hệ thống cung cấp dịch vụ CTXH từ trung ưng đến địa phương” Dự án hỗ
trợ phát triển nghề CTXH tại Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014. Đề tài đã
đánh giá tìm hiểu nhu cầu CTXH đồng thời đánh giá thực trạng phát triển
nghề CTXH hiện nay. Đánh giá năng lực của hệ thống trung tâm dịch vụ
CTXH, hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội. Từ đó đề xuất mô hình trung tâm và hệ
thống cung cấp dịch vụ CTXH từ Trung ương đến cộng đồng. Theo kết quả
nghiên cứu cho thấy nhu cầu về CTXH của các đối tượng rất lớn. Trong
tương lai một số nhóm đối tượng của CTXH sẽ tăng quy mô và nhu cầu sử
dụng dịch vụ CTXH. Các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội của Nhà nước hiện
nay hoạt động dựa vào nguồn ngân sách đang gặp nhiều khó khăn do kinh
phí thấp và phân bố chưa kịp thời. Trong khi đó có nhiều cơ sở ngoài công
lập được mở ra nhằm đáp ứng dịch vụ CTXH cho các đối tượng yếu thế
trong cộng đồng. Nghiên cứu cho thấy thực trạng nguồn nhân lực CTXH,
cán bộ tại địa phương chủ yếu là cộng tác viên hoặc bán chuyên trách. Hiện
nay công tác đào tạo chưa sâu rộng, các cán bộ có chuyên môn chưa nhiều.
Như vậy, đã có những nghiên cứu đến nhu cầu và thực trạng hoạt động
CTXH đặc biệt là nghiên cứu về nhu cầu xã hội đối với hoạt động CTXH.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp

xã thì chưa có nghiên cứu nào đề cập đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội cho
cán bộ cấp xã để tăng cường đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã ở
nước ta hiện nay.

7


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và cơ sở pháp luật về đào tạo nghề
công tác xã hội cho cán bộ cấp xã;
- Nghiên cứu thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã
tại tỉnh Hà Giang;
- Nghiên cứu các biện pháp tăng cường đào tạo nghề công tác xã hội cho
cán bộ cấp xã ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã từ thực tiễn tỉnh Hà
Giang
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu công tác đào tạo nghề công tác xã hội
cho cán bộ cấp xã từ thưc tiễn tỉnh Hà Giang.
Phạm vi thời gian: Tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài này trên các số
liệu, báo cáo trong thời gian 2 năm học. Năm học 2014- 2015 và năm học
2015- 2016
- Phạm vi khách thể: đề tài nghiên cứu 195 xã trên địa bàn tỉnh Hà
Giang
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp thu thập thông tin và phân tích tài liệu
Phương pháp thu thập, tổng hợp, tìm hiểu các tài liệu như sách, báo, tạp
chí, các báo cáo, các văn bản pháp luật và nắm bắt, vận dụng các lý thuyết của
ngành CTXH liên quan đến công tác hỗ trợ dạy nghề và việc làm ,kết hợp với
công tác dạy nghề trong thời gian qua vào công tác nghiên cứu, giải thích hiện
tượng, từ đó nhìn nhận tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài một cách
đúng đắn, khách quan nhất.
5.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý, giáo viên dạy
nghề, phỏng vấn sâu 5 cán bộ giáo viên, tập trung trả lời những câu hỏi để tìm
8


hiểu: Việc đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tại Tỉnh Hà Giang
có thực sự cần thiết và đáp ứng nhu cầu cung cấp nhân sự tại địa phương hay
không? Những khó khăn và thuận lợi gì khi tiến hành đào tạo nghề công tác
xã hội cho cán bộ cấp xã tại tỉnh Hà Giang.
5.3. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Nguyên tắc cơ bản về việc xây dựng bảng hỏi, trên cơ sở trưng cầu ý kiến
chi tiết, dễ hiểu để làm sao cho tất cả cán bộ, giáo viên và cán bộ xã trả lời
theo các nội dung yêu cầu và cung cấp thông tin chính xác. Dùng phương
pháp này, tác giả chọn 195 mẫu ngẫu nhiên là đại diện cho cán bộ xã của 195
xã trên địa tỉnh Hà Giang. Tác giả chọn mẫu như vậy để tìm hiểu các vấn đề:
những khó khăn, nguyện vọng của cán bộ cấp xã đã, đang và sẽ học nghề
công tác xã hội và làm việc tại địa phương. Với mỗi phiếu hỏi, tác giả xây
dựng từ 10 đến 15 câu hỏi, có những câu hỏi đóng và câu hỏi mở để tìm hiểu,
nhu cầu mức độ hài lòng của cán bộ cấp xã công tác đào tạo nghề công tác xã
hội cho cán bộ cấp xã trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
5.4. Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp thu thập thông tin xã hội về đối tượng nghiên cứu

bằng cách tri giác trực tiếp và ghi chép tỉ mỉ mọi yếu tố, nhân tố có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu và có ý nghĩa đối với mục tiêu của nghiên cứu.
5.5. Phương pháp đàm thoại
Qua các cuộc trò chuyện trực tiếp, gián tiếp để khai thác thêm thông tin,
hỗ trợ các phương pháp khác trong việc xử lý phân tích và đưa ra kết luận
khách quan, tác giả đàm thoại với 5 cán bộ giáo viên và 10 mẫu học viên đang
học nghề tại trường. Nội dung đàm thoại là nhu cầu của cán bộ cấp xã hiện
nay, những khó khăn, hạn chế trong hoạt động cung cấp, học nghề công tác
xã hội và việc làm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu tình hình thực tiễn đào tạo nghề tại Trường Trung cấp nghề
Bắc Quang tỉnh Hà Giang có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng
9


chương trình đào tạo mang tính ứng dụng. Đề tài mang ý nghĩa lý luận sâu
sắc, có thể nhìn nhận công tác dạy nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã và
nghề công tác xã hội tại Tỉnh Hà Giang từ góc độ khoa học, mô tả và đánh giá
vấn đề bằng nhiều lý thuyết khác nhau, những kiến thức từ thực tiễn được bổ
sung làm phong phú thêm kho tàng kiến thức, để phục vụ nghiên cứu, xây
dựng chính sách hỗ trợ, đề ra các giải pháp có hiệu quả,…về công tác dạy
nghề.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội tại tỉnh Hà
Giang, từ đó thấy được vấn đề cốt lõi, có cái nhìn tổng quát hơn, sâu sắc hơn,
quy chuẩn hơn, dễ tiếp cận hơn và từ kết quả nghiên cứu có thể đưa ra những
khuyến nghị nhằm giúp các cơ quan chức năng, tổ chức, các cơ sở đào
tạo,…có những định hướng, giải pháp tăng cường hỗ trợ cho cán bộ xã
phường. Nhân rộng mô hình đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ xã,

phường trên cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
Luận văn có 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và cơ sở pháp luật về đào tạo nghề
công tác xã hội cho cán bộ cấp xã.
Chương 2: Thực trạng đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã tại
tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Tăng cường đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã
tại Tỉnh Hà Giang.

10


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO
TẠO NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CHO CÁN BỘ CẤP XÃ
1.1. Những vấn đề lý luận về đào tạo nghề công tác xã hội cho cán
bộ cấp xã
1.1.1. Các khái niệm
Cán bộ cấp xã
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.[3, Điều 4].
Trên cơ sở đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX xác định: Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở
có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.

Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ
chức vụ qua bầu cử và cán bộ chuyên môn được ủy ban Nhân dân tuyển chọn;
đội ngũ này có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán
bộ, công chức nhà nước. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi
tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Tại Điểm g, h Khoản 1, Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh cán bộ, công chức ngày 26/2/1998 (được ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua ngày 29/4/2003) quy định: Những người do bầu cử để
đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
ủy ban Nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn, những người được tuyển dụng, giao
11


giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban Nhân dân cấp xã được
gọi là cán bộ, công chức trong biên chế nhà nước; được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước. Trên cơ sở lý luận về chính quyền (Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân); cán bộ, công chức cũng như các quy định về cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn thì cán bộ công chức chính quyền cấp xã hiện nay
bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây
gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Cán bộ chuyên trách là những người dành phần lớn thời gian làm việc
cho công việc của mình để thực hiện nhiệm vụ và trọng trách mà nhân nhân
dân giao phó.
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã),

gồm có các chức danh sau đây:
+ Trưởng ban công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy).
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng;
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội;
Công chức cấp xã làm công tác chuyên môn, giúp Uỷ ban nhân dân cấp
xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực như: văn phòng, thống kê; an ninh;
quân sự; địa chính, xây dựng; tài chính, kế toán; văn hóa, xã hội; tư pháp, hộ
tịch; ngoài ra những công chức này công thực hiện các nhiệm vụ khác khi
được thường trực Uỷ ban nhân dân cấp xã giao.
12


Ở chính quyền cấp xã, ngoài chức danh cán bộ chuyên trách, công
chức còn có đội ngũ cán bộ không chuyên trách và cán bộ thôn, bản bao gồm:
+ Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy)
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự
+ Cán bộ Kế hoạch- Giao thông- Thuỷ lợi- Nông, Lâm, Ngư nghiệp
+ Cán bộ Lao động-Thương binh-Xã hội
+ Cán bộ Dân số- Gia đình và Trẻ em
+ Thủ quỹ- Văn thư- Lưu trữ
+ Cán bộ phụ trách đài truyền thanh
+ Cán bộ quản lý Nhà văn hoá
+ Trưởng thôn, bản, tổ dân phố
+ Công an viên ở thôn, bản, tổ dân phố
Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã là những người không làm công
việc thường xuyên, liên tục, không hưởng lương từ ngân sách của nhà

nước. Những người này họ được hưởng phụ cấp hàng tháng do Uỷ ban nhân
dân tỉnh quyết định.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau:
Khái niệm cán bộ chính quyền cấp xã: Cán bộ chính quyền cấp xã là
công dân Việt Nam trong biên chế; được hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước, gồm những người được bầu giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn.
Khái niệm công chức chính quyền cấp xã: Công chức chính quyền cấp xã
là công dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước, được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ
13


ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật.
Khái niệm cán bộ, công chức chính quyền cấp xã: Cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã là công dân Việt Nam, trong biên chế, được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, làm việc tại Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã do được bầu để giữ chức vụ, hoặc được tuyển
dụng giao giữ chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của chính quyền cấp xã cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có
phẩm chất tốt, đạo đức tốt mà còn cần phải có tri thức, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực công tác để hoàn thành nhiệm vụ.
+ Khái niệm đào tạo nghề
Tại Điều 3 trong Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014: “Đào tạo nghề

nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ
nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Hay nói theo cách khác, đào tạo nghề là quá trình tác động có mục đích, có
tổ chức đến người học nghề để hình thành và phát triển một cách có hệ thống
những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm đáp ứng nhu
cầu của xã hội, trong đó có nhu cầu quốc gia, nhu cầu doanh nghiệp và nhu
cầu bản thân người học nghề” [17].
Đặc điểm của đào tạo nghề của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo
nghề cho người lao động nông thôn:
Thứ nhất: Ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được
hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu
nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người
tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác.
14


Thứ hai, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề được lấy từ ngân sách trung
ương, địa phương, doanh nghiệp.
Thứ ba, đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm cho người lao
động. Đây là đặc điểm nổi bật của đề án 1956 của Chính phủ về đào tạo nghề
Thứ tư, đào tạo nghề hướng tới từng bước xoá bỏ sự cách biệt cứng
nhắc giữa khu vực nông thôn và khu vực thành thị, giữa lao động chân tay và
lao động trí óc.
Thứ năm, sự liên kết giữa các bên tham gia ở tất cả các khâu của đào
tạo nghề. Từ khâu tuyển sinh đầu vào đến quá trình đào tạo và đầu ra phải có
sự phối hợp ăn ý giữa chính quyền - đại diện quản lý nhà nước, doanh nghiệp
- đại diện tiếp nhận lao động qua đào tạo nghề, người lao động - đại diện bên
hưởng thụ hỗ trợ dự án.. Tính liên kết trong đào tạo nghề không thể thiếu đối
với bất kỳ mô hình đào tạo, từ truyền thống cho đến hiện đại. Để làm tốt được

sự liên kết nêu trên, đại diện mỗi bên tham gia phải tìm tiếng nói chung và
bản ký kết trong đó quy định nghĩa vụ, quyền lợi cụ thể khi tham gia vào từng
mắt xích của hệ thống.
Thứ sáu, từng bước thay đổi những định hướng giá trị nghề nghiệp
trong đó kết hợp hài hoà giữa lợi ích, nhu cầu cá nhân và xã hội.
Thứ bảy, chuyển dần từ đào tạo nghề một lần sang đào tạo, bồi dưỡng
liên tục, suốt đời. Chuyển từ đào tạo kỹ năng sang đào tạo và hình thành năng
lực, đặc biệt là các năng lực mềm (tư duy, thích nghi, biến đổi…).. Hầu hết
những cơ sở đào tạo nghề hiện nay mới hướng tới những giá trị đạt chỉ tiêu
hiện tại, chưa xác định được định hướng trong phát triển tương lai, điều này
đòi hỏi ở người lao động lại càng khó hơn.
Khái niệm nghề công tác xã hội
Trên thế giới, nghề công tác xã hội đã chính thức được hình thành và
phát triển từ cuối thế kỷ 19 tại các quốc gia châu Âu và Hoa Kỳ thông qua
phong trào phát triển phúc lợi xã hội khi các tổ chức từ thiện bắt đầu cung cấp
15


dịch vụ gia đình, nhà định cư, hỗ trợ trẻ mồ côi, quả phụ, người nhập cư và
các lao động trẻ trong bối cảnh điều kiện sinh sống và làm việc khắc nghiệt.
Cho đến nay, công tác xã hội (CTXH) đã được nhiều quốc gia trên thế giới
công nhận như một ngành nghề mang tính chuyên môn với chức năng cơ bản
là ngăn ngừa và khắc phục những vấn đề xã hội, tập trung vào những mối
quan tâm và nhu cầu của con người, đồng thời giúp họ vượt qua khó khăn và
phát huy tối đa khả năng của bản thân. CTXH tập trung vào ba nhóm đối
tượng chính, bao gồm CTXH với cá nhân, với nhóm và với cộng đồng.
Theo Liên đoàn Nhân viên Công tác xã hội Quốc tế (IFSW): “ CTXH là
nghề nghiệp dựa trên thực hành nhằm khuyến khích những thay đổi và phát
triển xã hội, gắn kết xã hội, trao quyền và giải phóng con người. Các nguyên
tắc về công bằng xã hội, quyền con người, trách nhiệm tập thể và tôn trọng sự

đa dạng là trung tâm của nghề CTXH. Được củng cố bởi các lý thuyết về
công tác xã hội, khoa học xã hội, nhân văn và kiến thức địa phương, CTXH
thực hành với con người và các thể chế để giải quyết những thách thức cuộc
sống và nâng cao sức khỏe của cộng đồng”.
Tại Việt Nam, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 32/2010/QĐ-TTg, ngày 23/3/2010 về việc phê duyệt Đề án phát triển
nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020 (gọi tắt là Đề án 32). Theo Đề án
32: “ CTXH góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con
người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho
người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến”.
Hiệp hội CTXH quốc tế và các trường đào tạo CTXH quốc tế (2011)
thống nhất một định nghĩa về CTXH như sau: “Công tác xã hội là nghề
nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con
người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng
quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các
16


học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp
sự tương tác của con người với môi trường sống”.
Theo IFSW (Hiệp hội nhân viên CTXH Quốc tế), Tháng 07/2000,
Montreal, Canada: "Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã
hội, việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng
quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày
càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ
thống xã hội, CTXH can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi
trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản
của nghề.".
Theo các nhà nghiên cứu về CTXH Philippines: “Công tác xã hội là

một nghề bao gồm các hoạt động cung cấp các dịch vụ nhằm thúc đẩy hay
điều phối các mối quan hệ xã hội và sự điều chỉnh hòa hợp giữa cá nhân và
môi trường xã hội để có xã hội tốt đẹp hơn” [9].
Các nhà khoa học Việt Nam: Công tác xã hội là hoạt động thực tiễn
mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các nguyên tắc và phương pháp
nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng trong việc giải quyết các
vấn đề đời sống của họ - qua đó, công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì hạnh
phúc con người và tiến bộ xã hội.
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010) CTXH là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng
cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời
thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá
nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp
phần đảm bảo an sinh xã hội. [9].
Từ những sự kế thừa của các tác giả, trong luận văn này tác giả đưa ra
khái niệm:
17


Đào tạo nghề công tác xã hội cho cán bộ cấp xã: là quá trình tác động
có mục đích, có tổ chức đến cán bộ cấp xã để hình thành và phát triển một
cách có hệ thống những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề công tác xã hội
cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu công việc của cán bộ cấp xã, nhu cầu của xã
hội, trong đó có nhu cầu quốc gia.
1.1.2. Các nội dung cơ bản về nghề công tác xã hội
Vị trí, vai trò, chức năng của công tác xã hội
* Vị trí: Công tác xã hội được thực hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội khác nhau, như:
Bảo vệ trẻ em và phụ nữ nạn nhân của bạo hành gia đình và các hình
thức hành hạ, ngược đãi, bóc lột, lạm dụng khác;

Bảo trợ xã hội, bao gồm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi,
người khuyết tật, …
Phòng chống tệ nạn xã hội;
Tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, luật sư, tư vấn, trợ giúp pháp lý…)
Các chương trình cho thanh niên, người chưa thành niên;
Giáo dục ở các cấp học;
Y tế, bao gồm cả lĩnh vực sức khỏe tâm thần;
Phát triển cộng đồng;
Quản lý các dịch vụ xã hội;
Nghiên cứu chính sách …
Vị trí của công tác xã hội rất quan trọng, thể hiện trong một số khía
cạnh sau đây:
Công tác xã hội được coi là một nghề trong xã hội bởi:
- Thứ nhất, nó là một hoạt động chuyên môn, một khoa học thực hiện
nhiệm vụ chức năng xã hội giao phó và được xã hội thừa nhận.

18


- Thứ hai, các chính sách, chương trình và dịch vụ công tác xã hội được
triển khai bởi một bộ máy tổ chức theo hệ thống tổ chức ngành dọc và liên
ngành.
- Thứ ba, công tác xã hội được thực hiện trên một nền tảng hệ thống giá
trị, nguyên tắc, yêu cầu đạo đức nghề nghiệp được pháp luật quy định rõ ràng.
- Thứ tư, là một khoa học bao gồm hệ thống kiến thức lý thuyết và hệ
thống kiến thức kỹ năng thực hành.
- Thứ năm, công tác xã hội được đào tạo ở nhiều cấp bậc trình độ sơ
cấp, trung cấp, đại học, trên đại học.
+ Công tác xã hội có đối tượng riêng: Đối tượng của ngành CTXH là
các cá nhân, các nhóm xã hội và cộng đồng có vấn đề xã hội cần phải giải

quyết. Vấn đề xã hội ở đây được hiểu là những khó khăn, vướng mắc, những
vấn đề không bình thường trong cuộc sống, nếu không được giải quyết sẽ ảnh
hưởng tới sự an toàn, ổn định, phát triển của các đối tượng nói riêng và xã hội
nói chung.
+ CTXH là hoạt động thực tiễn mang tính tổng hợp cao: Tính thực tiễn
của ngành CTXH chính là các hoạt động thường xuyên tiếp xúc, giúp đỡ các
đối tượng cần được trợ giúp thông qua cán bộ xã hội cùng với việc phải huy
động nhiều nguồn lực từ các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, cộng đồng và
cá nhân.
+ CTXH có các phương pháp hoạt động riêng: và sử dụng các kỹ năng
mang tính đặc thù cũng như phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của CTXH.
+Mục đích của Công tác xã hội: Mục đích của công tác xã hội là can
thiệp hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và tác động vào các hệ
thống xã hội để giúp họ giải quyết được các vấn đề, thay đổi về mặt xã hội và
tăng cường an sinh xã hội. Công tác xã hội có tác động ở tất cả các cấp độ
khác nhau trong xã hội, tùy theo nhu cầu được xác định. Người sử dụng dịch
19


×