VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỮU ĐIỆP
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC TOẢN
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn cao học về đề tài “Công tác xã hội đối với
người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang” là
công trình do chính tôi thực hiện. Mọi số liệu, kết quả nêu trong luận văn là
trung thực và được trích dẫn tài liệu đã công bố và cập nhật chính xác. Nếu
sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 14 tháng 8 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Hữu Điệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ..................................... 10
1.1. Lý luận về người nghèo ............................................................................. 10
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người nghèo........................................ 16
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội đối với người nghèo ............... 28
1.4. Văn bản pháp lý liên quan đến công tác xã hội đối với người nghèo........ 30
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO
TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNGTRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG .......... 36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang ..................................... 36
2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững ở tỉnh
Hà Giang ........................................................................................................... 38
2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội trong giảm nghèo bền
vững ................................................................................................................... 52
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ....................... 59
3.1. Định hướng giảm nghèo bền vững của Hà Giang đến năm 2020 .............. 59
3.2. Giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội đối với người nghèo . 60
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 75
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
4
ABCD
5
6
MTQG
MTTQ
Mục tiêu quốc gia
Mặt trân tổ quốc
Participatory Rural Appraisal (Là phương
7
PRA
pháp đánh giá nhanh nông thôn có người dân
tham gia trong phát triển cộng đồng)
DTTS
Dân tộc thiểu số
BHYT
CTXH
Bảo hiểm y tế
Công tác xã hội
Là phương pháp nghiên cứu phát triển dựa
vào nội lực của cộng đồng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu về huy động vốn cho giảm nghèo ......................... 42
Bảng 2.2: Hỗ trợ tín dụng cho sản xuất của hộ nghèo .................................... 43
Bảng 2.3: Tổng hợp số liệu hỗ trợ về Giáo dục .............................................. 47
Bảng 2.4: Số liệu hỗ trợ y tế cho người nghèo của tỉnh Hà Giang ................. 49
Bảng 2.5: Một số yếu tố thuộc về bản thân người nghèo ............................... 53
Bảng 2.6: Một số yếu tố thuộc về cán bộ làm CTXH ..................................... 54
Bảng 2.7: Một số yếu tố thuộc về cán bộ lãnh đạo địa phương .................... 55
Bảng 2.8: Một số yếu tố thuộc về phong tục tập quán ................................... 56
Bảng 2.9: Một số yếu tố thuộc về tài chính cho giảm nghèo ........................ 57
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước nhằm
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm
dân cư, là một trong những nội dung quan trọng để thực hiện định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách giảm nghèo đã và đang được hoàn thiện,
mang tính hệ thống, hỗ trợ hiệu quả và toàn diện đối với người nghèo.
Thông qua thực hiện đồng bộ hệ thống chính sách giảm nghèo, Việt
Nam đã đạt được một bước tiến ấn tượng trong công tác giảm nghèo những
năm vừa qua. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn
14,2% (năm 2010) và dưới 4,5% (năm 2015)... Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các
huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường, đời
sống người dân không ngừng được cải thiện cả về sinh kế và tiếp cận các
dịch vụ xã hội. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng
quốc tế vinh danh, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có
thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, chương trình giảm
nghèo giai đoạn 2011-2015, công tác xã hội đã trở thành một trong những
công cụ giúp người nghèo giảm nghèo bền vững. Công tác giảm nghèo trên
cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng đã đạt được những
kết quả đáng khích lệ, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm khá nhanh, đạt được
mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, giảm nghèo còn chưa bền vững, tái nghèo cao;
một số chính sách hỗ trợ người nghèo còn thực hiện chưa hiệu quả; một bộ
phận người nghèo còn có thái độ trông chờ, ỷ lại; cơ chế phân cấp, trao quyền
cho người dân chưa được thực hiện tốt; nguồn lực cho giảm nghèo còn thấp,
chủ yếu dựa vào ngân sách… Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau
1
nhưng một nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa có một đội ngũ nhân
viên công tác xã hội (CTXH) chuyên nghiệp, những cán bộ làm công tác giảm
nghèo đa phần lại kiêm nhiệm và thiếu các kiến thức, phương pháp và kỹ
năng CTXH trong việc hỗ trợ cho người nghèo.
Trong thời gian tới, việc thay đổi cách tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo
từ đơn chiều sang đa chiều, đòi hỏi cần phải phát huy vai trò của CTXH cũng
như tăng cường các hoạt động CTXH chuyên nghiệp trong trợ giúp người
nghèo thoát nghèo bền vững nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn lực, sự
phối kết hợp của các cơ quan, ban ngành cũng như sự tham gia tích cực của
người dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám
sát các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo. Vì vậy, đề tài luận văn
“Công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực
tiễn tỉnh Hà Giang” là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam trong những năm qua cũng có rất nhiều công trình và đề
tài khoa học nghiên cứu về vấn đề nghèo và giảm nghèo như:
Trần Tiến Khai & Nguyễn Ngọc Danh (2012), với “Quan hệ giữa sinh
kế và tình trạng nghèo ở nông thôn Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Mã số: CS-2012-02 đã khẳng
định: Tình trạng nghèo không chỉ được đo lường bằng chi tiêu hay thu nhập,
mà còn bằng các chỉ báo về mức sống chỉ ra phúc lợi kinh tế - xã hội mà hộ
gia đình có được. Nghiên cứu đã nhằm đến việc khám phá các quan hệ qua lại
giữa tình trạng nghèo về tiền và các đặc trưng kinh tế - xã hội khác của hộ gia
đình ở nông thôn Việt Nam dựa trên cách tiếp cận sinh kế và tìm kiếm các chỉ
báo kinh tế - xã hội phù hợp cho đo lường nghèo đa chiều. Kết quả nghiên
cứu xác nhận rằng có tối thiểu 10 chiều đo lường cho tình trạng nghèo đa
chiều và đại diện cho bốn nhóm tài sản sinh kế. Một số biến định lượng và
phân loại được trích ra và sử dụng như là các chỉ báo phù hợp cho đo lường
2
nghèo đa chiều. Phân loại hộ dựa trên tình trạng nghèo đa chiều tỏ ra có hiệu
quả thống kê tốt hơn khi tính đồng nhất trong từng nhóm được cải thiện rõ
ràng so với phân loại hộ dựa trên chi tiêu bình quân đầu người.
Nguyễn Đức Nhật và nhóm chuyên gia (2013) đã có công trình
“Nghiên cứu mô hình giảm nghèo của các đối tác quốc tế ở Việt Nam”, Báo
cáo trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ thực hiện Nghị quyết 80/NQ-CP về định
hướng giảm nghèo bền vững (2011-2020) và Chương trình mục tiêu quốc gia
về Giảm nghèo bền vững (2012-2015)”, do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Tổ chức UNDP, Tổ chức Iris Aid đã tài trợ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng
định: tình trạng đói nghèo ở mỗi vùng miền có đặc tính khác nhau và cần các
phương pháp tiếp cận khác nhau; trong thực thi cần chú trọng tính tự chủ của
địa phương, sự tham gia của người dân và lựa chọn đối tác triển khai phù hợp.
Quá trình phân tích chỉ ra rằng, mô hình của các tổ chức quốc tế thành công
hơn bởi họ tuân thủ các nguyên tắc của lý thuyết kinh tế, xây dựng động lực
tham gia của các bên và trao quyền tự quyết cho người dân. Các mô hình
quốc tế cũng triển khai theo hướng nhỏ, chậm chắc và chú trọng về nâng cao
năng lực so với các chương trình đại trà nhanh và thiếu kiểm tra đánh giá của
nhà nước.
Phạm Thái Hưng và cộng sự (2010) có bài “Nghèo của đồng bào dân
tộc thiểu số ở Việt Nam Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn
thuộc Chương trình 135-II”, Hà Nội. Nghiên cứu này đã khai thác các khía
cạnh quan trọng về mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS); mô
tả một cách toàn diện về tình trạng nghèo và vấn đề mức sống của nhóm
DTTS ở các xã đặc biệt khó khăn. Mô tả này tập trung ở khía cạnh nghèo về
thu nhập và các khía cạnh phi tiền tệ của vấn đề mức sống kinh tế (như: tiếp
cận giáo dục, dịch vụ y tế và phát huy tính chủ động,...). Đồng thời nghiên
cứu về các yếu tố quyết định chênh lệch thu nhập giữa nhóm đa số và nhóm
DTTS khác bằng cách phân tích chênh lệch thu nhập: một là khác biệt về các
3
đặc điểm và nguồn lực giữa các nhóm dân tộc, hai là sự khác biệt về thu nhập
từ các đặc điểm và nguồn lực, ba là đã tìm hiểu đồng bào các DTTS nghèo
được hỗ trợ từ những chính sách và chương trình hiện tại như thế nào. Sau
những phân tích đó tác giả đã có những kiến nghị cho các chính sách và
chương trình trong tương lai nhằm đưa ra những hỗ trợ hiệu quả hơn cho việc
nâng cao mức sống đối với nhóm DTTS.
Chương trình Chia Sẻ - SIDA (2009), báo cáo “Các nhân tố hỗ trợ và
cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững”
trong khuôn khổ thực hiện các dự án nâng cao năng lực phát triển cộng đồng
đã xác định những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn
lực để giảm nghèo bền vững. Theo đó, 5 nguồn vốn sinh kế đã được phân
tích bao gồm: nguồn vốn con người; nguồn vốn vật chất; nguồn vốn tài
chính; nguồn vốn xã hội; nguồn vốn tự nhiên. Nghiên cứu cũng chỉ rõ: sự
đóng góp các nguồn vốn sinh kế vào trong quá trình giảm nghèo đối với các
nguồn vốn có sự khác nhau. Vì vậy, cần có cách điều chỉnh khác nhau trong
việc tác động các nguồn vốn sinh kế vào mục tiêu giảm nghèo. Xét trong
ngắn hạn, nguồn vốn tài chính và một phần nguồn vốn con người có tác
động tích cực trong quá trình giảm nghèo. Việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn tài
chính từ các kênh khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn sản xuất kinh doanh của
hộ. Và điều này mang lại kết quả giảm nghèo trong ngắn hạn. Bên cạnh đó,
việc hỗ trợ gia tăng nguồn vốn con người từ việc đào tạo tập huấn ngắn hạn
cũng có tác động nhanh chóng. Xét về trung hạn, sự gia tăng nguồn vốn con
người trên khía cạnh giáo dục, cơ sở hạ tầng sẽ mang lại kết quả giảm nghèo
về trung hạn, ít nhất là trong thời hạn từ 3 - 5 năm. Ví dụ, việc xây dựng
đường giao thông hay cầu cống chỉ mang lại hiệu quả tốt cho giảm nghèo
khi mà sản xuất của họ đã phát triển đến mức có thể tiếp cận với thị trường
để gia tăng thu nhập. Hoặc là việc đào tạo chỉ có tác dụng tốt khi người dân
được đào tạo đã có quá trình tích lũy kiến thức để có thể phát huy trong đời
sống và sản xuất.
4
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - VASS: “Giảm nghèo tại Việt Nam:
Thành tựu và Thách thức”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội - 2011. Báo cáo đã
chỉ ra những thành tựu trong giảm nghèo của Việt Nam trong giai đoạn qua là
rất tốt, nhưng không đồng đều và chưa bền vững; Công tác giảm nghèo trong
bối cảnh kinh tế mới trong giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới và những thách thức đi kèm trong giai đoạn tới. Báo cáo
cũng đã bước đầu chỉ ra phương pháp đo lường nghèo ở Việt nam trong giai
đoạn tới cần có sự thay đổi theo hướng người nghèo cần tiếp cận được với các
dịch vụ xã hội cơ bản.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2015), “Đề án tổng thể chuyển
đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều dựa và thu nhập
sang đa chiều áp dụng trong giai đoạn 2016 - 2020”. Đề án đã chỉ ra rằng,
nghèo đói thường được xác định bằng thu nhập hoặc chi tiêu và chuẩn nghèo
được xác định bằng tiền. Cách xác định này đã bộc lộ những hạn chế như:
một số nhu cầu cơ bản của con người không thể quy ra tiền (như tham gia xã
hội, an ninh, vị thế xã hội, v.v...) hoặc không thể mua được bằng tiền (tiếp
cận giao thông, thị trường và các loại cơ sở hạ tầng khác, an ninh, môi
trường, một số dịch vụ y tế, giáo dục công v.v...); có những trường hợp hộ
gia đình có tiền nhưng không chi tiêu vào việc đáp ứng những nhu cầu tối
thiểu. Điều này cho thấy việc áp dụng duy nhất tiêu chí thu nhập để xác định
hộ nghèo đã dẫn đến sự phân loại đối tượng, đánh giá mức độ và nguyên
nhân nghèo chưa chính xác vì chưa phản ánh đầy đủ nhu cầu cơ bản, cũng
như mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Chính sách giảm nghèo được
xây dựng dựa trên cơ sở sự thiếu hụt thu nhập của hộ để chi trả dịch vụ. Như
vậy chưa tính đến các yếu tố không tiếp cận được là do dịch vụ không có sẵn
hoặc không phù hợp hoặc do chính người dân từ chối sử dụng. Từ đó chỉ ra
cần thay đổi và áp dụng phương pháp xác định nghèo đa chiều.
5
Ngoài ra còn nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu của nhiều tác
giả khác, mỗi tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau của vấn đề đói
nghèo và giảm nghèo trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương, như: Tập
thể tác giả, “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội - 2001; Đinh Đức Thuận và nhóm nghiên cứu Trường Đại học
Lâm nghiệp, “Lâm nghiệp, giảm nghèo và sinh kế nông thôn ở Việt Nam”,
năm 2005; Nguyễn Trọng Xuân, “Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện
nhiệm vụ giúp dân xoá đói giảm nghèo”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2008;
Nguyễn Thị Hằng, “Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện
nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – 1997; Oxfam, “Mô hình giảm
nghèo tại một số cộng đồng dân tộc thiểu số điển hình ở Việt Nam” Hà Nội 2013; Viện Khoa học xã hội Việt Nam – VASS, “Giảm nghèo tại Việt Nam:
Thành tựu và Thách thức”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011, Ngân
hàng thế giới tại Việt Nam, “Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012”, Hà
Nội - 2012; Luận văn Thạc sĩ của Phạm Ngọc Dũng, “Giảm nghèo bền vững
trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, năm
2015. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu về công tác xã hội đối với người nghèo
trong giảm nghèo bền vững.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác xã hội đối với người
nghèo trong giảm nghèo bền vững qua thực tiễn tỉnh Hà Giang từ đó đề xuất
quan điểm, giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội trong thực hiện
giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang, góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của người nghèo để giảm nghèo bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về người nghèo, giảm nghèo bền vững
công tác xã hội đối với người nghèo.
6
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động công tác xã hội
trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
- Đề xuất giải pháp tăng cường và phát triển công tác xã hội trong giảm
nghèo bền vững tại tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo bền
vững ở tỉnh Hà Giang.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Người nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Cán bộ làm công tác giảm nghèo, công tác xã hội tại Hà Giang.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động
CTXH đối với người nghèo, cụ thể là các hoạt động về: hoạt động tuyên
truyền vận động; hoạt động kết nối nguồn lực; hỗ trợ về tư vấn, tham vấn; hỗ
trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản; hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm;
các yếu tố ảnh hưởng đến CTXH đối với người nghèo.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 6 năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác giảm nghèo bền vững.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - xít như:
7
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Nghiên cứu và phân tích các tài
liệu, các công trình nghiên cứu đã được công bố về giảm nghèo cũng như
công tác xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan: Các tài liệu,
báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các chính sách, Chương trình MTQG giảm
nghèo giai đoạn 2011-2015; các báo kết quả thực hiện Đề án 32.
- Phương pháp, thảo luận phỏng vấn sâu đối với cán bộ và hộ nghèo:
Học viên tiến hành thảo luận, phỏng vấn sâu với 02 nhóm hộ nghèo và cán bộ
làm công tác giảm nghèo tại Bắc Quang, Quản Bạ (mỗi nhóm 15 hộ nghèo và
4 cán bộ) về kết quả thực hiện của một số hoạt động trợ giúp người nghèo.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Là phương pháp được
thực hiện với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn với 2 dạng câu hỏi chính
là: câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng
cách đánh dấu vào các ô tương ứng hoặc trả lời câu hỏi theo một quy ước mặc
định sẵn. Học viên lựa chọn ngẫu nhiên 100 hộ nghèo trên 2 huyện Bắc
Quang, Quản Bạ; 20 cán bộ làm công tác giảm nghèo cấp tỉnh, huyện, xã.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu về công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm nghèo
bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang có ý nghĩa khoa học quan trọng. Các kết
quả nghiên cứu trong đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động đào
tạo CTXH đối với người nghèo, ngoài ra còn có ý nghĩa tham khảo cho những
ai đang nghiên cứu, quan tâm về lĩnh vực này
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phân tích thực trạng các hoạt động công tác xã hội trong hỗ trợ người
nghèo giảm nghèo bền vững tại Hà Giang cho thấy vai trò của công tác xã hội
có đóng góp rất quan trọng trong việc đánh giá hiện trạng nghèo, triển khai
thực hiện các chế độ, chính sách và giải pháp đối với người nghèo. Trên cơ sở
8
đó, đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà
Giang trong việc tổ chức thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2016- 2020.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung của luận văn còn được
chia thành 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội đối với người
nghèo trong giảm nghèo bền vững
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội đối với người nghèo trong giảm
nghèo bền vững ở tỉnh Hà Giang
Chương 3: Giải pháp nâng tăng cường và phát triển công tác xã hội đối
người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI NGHÈO TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1. Lý luận về người nghèo
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm nghèo
Nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội không chỉ tồn tại ở các quốc gia
có nền kinh tế kém phát triển, mà nó còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền
kinh tế phát triển. Tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia mà tính chất,
mức độ nghèo của từng quốc gia có khác nhau. Các quốc gia thường xác định
nghèo bằng mức thu nhập tối thiểu, đó là mức thu nhập mà hộ gia đình có thể
mua sắm vật dụng cơ bản phục vụ nhu cầu thiết yếu theo mức giá hiện hành.
Mặc dù vậy, vẫn còn các khái niệm khác nhau. Cụ thể như: Năm 1995, Hội
nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen (Đan
Mạch) cho rằng người nghèo là những người có thu nhập dưới 1 USD mỗi
ngày. Đây là khoản tiền đủ để mua nhu yếu phẩm thiết yếu. Ngoài ra, cũng có
quan niệm nghèo có tính triết lý hơn như coi nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn
tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng hoặc nghèo “sự thiếu hụt, hay
là sự bất lực trong việc tiếp cận đến một mức sống mà xã hội chấp nhận”
(Ngân hàng thế giới, 2001). Hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do Ủy ban
kinh tế xã hội khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Băng
Cốc Thái Lan tháng 9/1993 cho rằng: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được
xã hội thừa nhận, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của các địa phương. Đây là một trong những định nghĩa chung nhất về
nghèo, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện những nét
chính phổ biến về nghèo.
10
Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng nghèo là một khái niệm đa chiều
vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số
dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như
dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền
phát ngôn và không có quyền lực.
Nghèo đa chiều không chỉ là thiếu ăn, thiếu uống, hoặc thiếu các điều
kiện sống, sinh hoạt khác, mà nghèo còn do các rào cản về xã hội và các tác
nhân khác ngăn chặn những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận với các nguồn
lực, thông tin và dịch vụ, nghèo về chất lượng công việc và đe dọa từ hành vi
bạo lực.
Nghèo không chỉ được đo lường bằng thu nhập, chi tiêu mà còn bởi khả
năng tiếp cận một cách đồng thời đến lương thực, nhà ở, giáo dục, chăm sóc
sức khỏe và các mức sống xã hội khác, ngay cả các chỉ báo phi vật chất. Nói
cách khác, nghèo được phản ánh bằng sự thiếu hụt phúc lợi xã hội ở các khía
cạnh khác nhau và có thể được một bộ các chỉ báo đại diện. Tổng hòa các chỉ
báo này phản ánh chất lượng cuộc sống. Hiện nay, các tổ chức quốc tế đã áp
dụng khái niệm nghèo đa chiều và xây dựng các chỉ số đo lường nghèo đa
chiều. Các chỉ số đa chiều phổ biến nhất là Chỉ số nghèo con người (Human
Poverty Index - HPI) do Anand và Sen đề xuất (1997), Chỉ số phát triển con
người (Human Development Index - HDI) được Liên Hiệp Quốc sử dụng, và
Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) do Đại học
Oxford và UNDP áp dụng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007).
Ở Việt Nam, nghèo được hiểu thống nhất là tình trạng một bộ phận dân
cư chưa bảo đảm các điều kiện thoả mãn những nhu cầu tối thiểu. Cụ thể là có
mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng.
1.1.1.2. Khái nhiệm chuẩn nghèo
Để đo lường nghèo hay xác định được người nghèo, phải đo lường
được tất cả các khía cạnh thiếu hụt hay sự không thỏa mãn tất cả các nhu cầu
11
cơ bản. Ví dụ, nhu cầu ăn (dinh dưỡng, lương thực, thực phẩm,…), nhu cầu
về mặc (đẹp, ấm,…), nhu cầu về ở (diện tích, chất lượng nhà ở),..
Trên thực tế, do có sự tương quan khá chặt chẽ giữa mức thu nhập với
mức độ tiêu dùng hay thỏa mãn những nhu cầu của con người; xu hướng
chung là thu nhập càng cao thì tiêu dùng càng cao. Tiêu dùng này được hiểu
là mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản càng cao. Vì vậy, chuẩn nghèo (tuyệt
đối) thường được xác định trên cơ sở một mức thu nhập hay chi tiêu, mà với
mức thu nhập hay chi tiêu đó có thể đảm bảo thoả mãn được những nhu cầu
cơ bản phù hợp trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và được gọi là
chuẩn nghèo quốc gia.
Chuẩn nghèo quốc gia quy định và áp dụng thống nhất trên phạm vi
toàn quốc và dùng để xác định hộ nghèo, người nghèo. Chuẩn nghèo không
cố định mà thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Ở Việt Nam, từ năm 2015 trở về trước, hộ nghèo trên xác định là hộ gia
đình có mức thu nhập (bình quân đầu người) thấp hơn hoặc bằng chuẩn
nghèo. Giai đoạn 2016-2020, người nghèo, hộ nghèo được xác định dựa trên
cả tiêu chí về thu nhập và mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội. Cụ thể:
Chuẩn nghèo theo Quyết định số 09 2011 QĐ-TTg ngày 30 01 2011
của Thủ tướng Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 là:
- Thành thị: Từ 500.000 đồng người tháng trở xuống.
- Nông thôn: Từ 400.000 đồng người tháng trở xuống.
Chuẩn nghèo theo Quyết định số 59 2015 QĐ-TTg ngày 19 11 2015 về
việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 là:
- Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Có thu nhập bình quân đầu người tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; (2)
Có thu nhập bình quân đầu người tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên.
12
- Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Có thu nhập bình quân đầu người tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống; (2)
Có thu nhập bình quân đầu người tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên.
Các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: y tế, giáo dục, nhà ở,
nước sạch và vệ sinh, thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các
dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế;
trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà
ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí nhà tiêu
hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
1.1.1.3. Khái niệm hộ nghèo, người nghèo
- Người nghèo là những người thuộc hộ nghèo.
- Hộ nghèo là hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người thấp
hơn chuẩn nghèo. Các nghiên cứu chỉ ra hộ nghèo thường thiếu đất canh tác,
thiếu vốn, rơi vào hoàn cảnh nợ nần, nhà cửa và đồ dùng tạm bợ, thiếu kinh
nghiệm làm việc, thiếu kiến thức, con cái bỏ học sớm, mù chữ, đau ốm…
1.1.1.4. Khái niệm giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
- Giảm nghèo được hiểu là giảm tỷ lệ hộ nghèo hay giảm số hộ nghèo
trên một địa bàn, hay giảm mức độ nghèo của một cộng đồng, hoặc giảm
khoảng cách nghèo của cộng đồng dân cư. Bản chất giảm nghèo là cải thiện
hay nâng cao mức độ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và đích là hộ nghèo thoát
nghèo, có nghĩa là thỏa mãn các nhu cầu cơ bản ở mức độ cao.
- Giảm nghèo bền vững là sự bảo đảm hay duy trì kết quả giảm nghèo
một cách lâu dài, bền vững hay nói cách khác giảm nghèo bền vững là tình
trạng đạt được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản mức thu nhập cao hơn
mức chuẩn và duy trì được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản mức thu nhập
trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền
13
vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là thoát nghèo bền vững, hay không
bị tái nghèo.
1.1.2. Đặc điểm của người nghèo
1.1.2.1. Về đặc điểm kinh tế
Đại bộ phận người nghèo, hộ nghèo chủ yếu sống ở nông thôn và chủ
yếu tham gia vào hoạt động nông nghiệp; không có vốn hay rất ít vốn, thu
nhập mà họ nhận được là từ lao động tự tạo việc làm; nếu là những người ở
thành thị thì tập trung ở khu vực phi chính thức; thu nhập thấp, trình độ văn
hóa thấp; thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định, bấp bênh do trình độ
học vấn thấp; khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội thấp, đặc biệt là người
nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào sống ở các vùng miền núi, bãi
ngang ven biển và hải đảo.
1.1.2.2. Đặc điểm đời sống tâm lý
Do khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, người nghèo thường mặt cảm, tự ti
do hoàn cảnh, số phận của mình, sống thụ động trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ
từ các chính sách giảm nghèo trong đó có chính sách cho không của nhà
nước, điều kiện sống của người nghèo luôn thấp hơn mặt bằng chung của
cộng đồng nơi mình sinh sống. Đối với người nghèo họ luôn trong tình trạng
thiếu hụt các nhu cầu xã hội cơ bản từ những nhu cầu thiết yếu nhất, do đó họ
gặp rất nhiều nguy cơ trong cuộc sống, phải đối mặt với nhiều khó khăn và
thách thức trong cuộc sống do phải bảo đảm chi phí đắt đỏ cho các dịch vụ y
tế, nhà ở, giáo dục, đi lại và sinh hoạt tối thiểu. Do mặc cảm với cuộc sống
nên một số người nghèo ngại giao tiếp và tham gia vào các hoạt động tập thể
của cộng đồng, không mạnh dạn tham gia đề xuất ý kiến, cho rằng lời nói của
mình không có trọng lượng, không được cộng đồng chấp nhận không dám
đấu tranh, không dám bộc lộ bản thân. Bên cạnh đó có một số nhỏ người
nghèo vẫn còn tư tưởng buông xuôi, ngại thay đổi, phó mặc cho số phận và
chưa thực sự quyết tâm vươn lên để thoát nghèo bền vững.
14
1.1.3. Nhu cầu của người nghèo
- Nhu cầu có việc làm, thu nhập ổn định: Phần lớn lao động là người
nghèo sống ở nông thôn có công việc không ổn định, thu nhập thấp. Do vậy,
họ luôn mong muốn có được công việc, thu nhập ổn định. Có công việc, có
thu nhập họ mới có thể trang trải cuộc sống, mới đảm bảo các nhu cầu như ăn,
ở, mặc, học tập, chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình…
- Nhu cầu được học tập: Đây là một trong những nhu cầu quan trọng
của người nghèo. Ngoài nhu cầu về học tập phổ thông, người nghèo còn có
nhu cầu được đào tạo nghề, trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất nhất
là sản xuất nông nghiệp.
- Nhu cầu được tiếp cận thông tin: Do những hạn chế về thu nhập thấp,
thường sống ở vùng sâu, vùng xa nên người nghèo thường thiếu thông tin.
Chính vì vậy, họ cũng có nhu cầu được tiếp cận các thông tin về các loại hình
thiên tai, hiểm họa tự nhiên, thảm họa, biến đổi khí hậu; thông tin, kiến thức
và kỹ năng sản xuất, chăm sóc sức khỏe; thông tin về kinh tế, chính trị, xã
hội; thông tin về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính và các loại hồ sơ
giấy tờ cần thiết để được nhận hỗ trợ, bảo trợ từ Nhà nước và các tổ chức xã
hội…; nhu cầu hỗ trợ các phương tiện thông tin như sách, báo, đài radio…
- Nhu cầu được chăm sóc y tế: Đây là nhu cầu có thể nói là rất cần thiết
và được đa số người nghèo quan tâm. Bởi đa số họ, do sống trong điều kiện
thiếu thốn về vật chất nên dễ ốm đau, bệnh tật, hơn nữa lại thu nhập thấp nên
khi mắc bệnh lại không có tiền để chi trả chi phí khám chữa bệnh.
- Nhu cầu được sống trong môi trường an toàn, vệ sinh: phần lớn người
nghèo sống trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt cơ sở vật chất thiết yếu cho
cuộc sống. Chính vì vậy, họ đều mong muốn được sống, sinh hoạt và sản xuất
trong một môi trường an toàn, đảm bảo những nhu cầu căn bản như nhà ở,
điện, nước sạch và thức ăn hợp vệ sinh để có thể đảm bảo cho sức khỏe, có
khả năng tái sản xuất sức lao động, tránh bị bệnh tật.
15
1.2. Lý luận về công tác xã hội đối với người nghèo
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm về công tác xã hội
Theo Hiệp hội quốc gia nhân viên công tác xã hội Mỹ (NASW – 1970):
“Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm, hoặc cộng
đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và
tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó” [16, tr. 171].
Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế thông qua tháng 7 năm
2000 tại Montreal, Canada (IFSW): “Nghề công tác xã hội thúc đẩy sự thay
đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực
và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng
thoải mãi, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống,
công tác xã hội tương tác vào những điểm giữa con người với môi trường của
họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc cơ bản của nghề” [16, tr. 171].
Từ thực tế tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Oanh định nghĩa công tác
xã hội như sau: Công tác xã hội là một hoạt động thực tiễn, mang tính tổng
hợp cao được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp nhất định
nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm người trong việc giải quyết các vấn đề đời sống
của họ. Qua đó công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con
người và tiến bộ xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể tóm lược nội dung định nghĩa CTXH như sau:
Thứ nhất, CTXH là một nghề, một khoa học ứng dụng, một dịch vụ xã
hội cung ứng cho các cá nhân, gia đình, nhóm người, cộng đồng kho họ gặp
khó khăn mà bản thân họ chưa tìm được hướng giải quyết.
Thứ hai, CTXH với quan điểm và trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề
khó khăn trong quan hệ giữa con người với nhau, làm phong phú thêm cho
cuộc sống của họ thông qua mối quan hệ tương tác tích cực, giúp các cá nhân
16
thực hiện các chức năng của bản thân, chức năng xã hội và giúp cá nhân,
nhóm, cộng đồng có vấn đề có thể tự đứng vững được trên chính đôi chân của họ.
Thứ ba, nhân viên CTXH là những người được đào tạo chuyên nghiệp,
có đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm để trợ giúp cho các cá
nhân, nhóm người, cộng đồng. Họ trợ giúp các đối tượng khó khăn luôn tuân
theo những nguyên tắc nghề nghiệp và vận dụng các phương pháp, kỹ năng
cơ bản của CTXH một cách linh hoạt trong hoạt động hỗ trợ đối tượng tự giải
quyết vấn đề của chính họ.
Thứ tư, nó là một dịch vụ cung ứng các kiến thức, thông tin, kỹ năng,
hỗ trợ về tinh thần cho các cá nhân, nhóm, cộng đồng thông qua sự quan tâm
giữa người với người và giúp họ tăng thêm khả năng cải thiện điều kiện, hoàn
cảnh để tự vươn lên cải thiện cuộc sống của mình.
Có nhiều khái niệm CTXH khác nhau vì vậy trong khuôn khổ nghiên
cứu này, tác giả vận dụng, hiểu khái niệm CTXH theo bốn nội dung tóm lược
ở trên để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình đối với hoạt động CTXH đối
với người nghèo trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tỉnh Hà Giang.
1.2.1.2. Khái niệm về công tác xã hội đối với người nghèo
CTXH với người nghèo là một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp
người nghèo nâng cao năng lực, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về sức
khỏe, tinh thần, vật chất và những nhu cầu xã hội cơ bản khác. Đồng thời,
CTXH cũng có vai trò thúc đẩy môi trường xã hội, kết nối nguồn lực nhằm
giúp người nghèo có khả năng tiếp cận các chính sách giảm nghèo và các dịch
vụ xã hội cần thiết từ đó thoát nghèo nhanh và bền vững góp phần đảm bảo an
sinh xã hội.
1.2.2. Vai trò công tác xã hội đối với người nghèo
- Vai trò là người tuyên truyền vận động: CTXH tuyên truyền và phổ
biến chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo cho người
nghèo, đồng thời cũng đóng vai trò là người tuyên truyền, vận động nhằm
17
thay đổi hành vi, thái độ của người nghèo, cộng đồng nghèo để thực hiện tốt
việc hỗ trợ và trợ giúp cho họ.
- Vai trò thúc đẩy thực hiện chính sách, chương trình giảm nghèo: CTXH
nắm vững tình trạng nghèo của cộng đồng, tạo điều kiện và khuyến khích cho
mọi người dân, nhóm tích cực tham gia ý kiến, tăng cường khả năng, trách
nhiệm, quyền hạn và quan hệ của họ trong công cuộc giảm nghèo.
- Vai trò biện hộ: CTXH đại diện cho tiếng nói của nhóm nghèo, cộng
đồng nghèo đề đạt với cấp thẩm quyền, các tổ chức cơ quan ban ngành những
vấn đề về việc làm, đào tạo nghề, phát triển sản xuất... của nhóm, cộng đồng,
từ đó kêu gọi sự hưởng ứng, hỗ trợ của họ cho công tác giảm nghèo.
- Vai trò nghiên cứu: CTXH cùng với những người nòng cốt trong cộng
đồng thu thập tình hình tại cộng đồng, về tình trạng nghèo đói, nguyên nhân
nghèo đói, các giải pháp giảm nghèo đã áp dụng... giúp họ phân tích tình hình
của cộng đồng và xây dựng chương trình hành động, xây dựng dự án giảm
nghèo hiệu quả, bền vững cho cộng đồng.
- Vai trò hỗ trợ nâng cao năng lực: CTXH tham gia huấn luyện cho các
nhóm, cộng đồng, chuyển giao cho cộng đồng kiến thức, kỹ năng phát triển
cộng đồng thông qua các chương trình hành động, dự án phát triển cộng đồng.
- Vai trò hỗ trợ lập kế hoạch: CTXH hỗ trợ người dân về phương pháp
và yêu cầu của một kế hoạch, đồng thời tạo điều kiện để người dân tham gia
đóng góp quyết định những nội dung của kế hoạch, đảm bảo tính khoa học,
tính thực tiễn và vai trò tự quyết của người dân trong cộng đồng về kế hoạch
theo tinh thần: “làm với cộng đồng chứ không phải làm cho cộng đồng”.
- Vai trò kết nối: CTXH huy động, liên kết và phát huy nguồn lực trong
và ngoài cộng đồng để trợ giúp cho người nghèo, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất và tinh thần cho đồng bào DTTS.
18
- Vai trò nhà hoạch định chính sách: CTXH đóng vai trò quan trọng
trong việc tham gia xây dựng và hoạch định chính sách xã hội nói chung
trong đó có chính sách giảm nghèo.
- Vai trò người giám sát, đánh giá kết quả: CTXH tham gia giám sát,
đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách, chương trình, kế hoạch giảm
nghèo, phát hiện những vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức thực hiện để
kiến nghị các bên có liên quan có những điều chỉnh phù hợp.
Thông qua các phương pháp chuyên nghiệp, CTXH sẽ trực tiếp giải
quyết các vấn đề của người nghèo, hỗ trợ giải quyết các vấn đề về việc làm,
thu nhập, lao động, các vấn đề xã hội nảy sinh khác cho người nghèo, hộ
nghèo và cộng đồng nghèo.
1.2.3. Lý thuyết tiếp cận và phương pháp công tác xã hội đối với
người nghèo
1.2.3.1. Lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội đối với người nghèo
Ngành CTXH tiếp cận và sử dụng một số lý thuyết khoa học về xã hội
thuộc ngành tâm lý học như: Thuyết vai trò, thuyết nhận thức - hành vi,
thuyết nhu cầu, thuyết hệ thống…Trong phạm vi thực hiện đề tài này, tác giả
tiếp cận một số lý thuyết có thể áp dụng hiệu quả trong quá trình nghiên cứu,
ứng dụng vào thực tiễn trong làm việc với người nghèo và cộng đồng nghèo
như: Thuyết về quyền con người, thuyết về nhu cầu con người, thuyết trao
quyền, thuyết phát triển cộng đồng.
- Lý thuyết về quyền con người:
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa
đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người
trong quá trình lập kế hoạch và tiến trình thực hiện các hoạt động CTXH.
Cách tiếp cận dựa trên quyền lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống
quyền con người đã được pháp luật quốc tế bảo vệ. Với cách tiếp cận theo
quyền, nhân viên xã hội cần dựa trên hệ thống quyền con người để xây dựng
19
các phương pháp và hoạt động của những mô hình phát triển xã hội. Theo
cách tiếp cận dựa trên quyền con người, vấn đề phân biệt kỳ thị, yếu thế, thiệt
thòi và bóc lột sức lao động là nguyên nhân chủ yếu của đói nghèo. Cách tiếp
cận này luôn đưa ra đối tượng tác động cụ thể, đó chính là con người với
quyền cơ bản của mình. Nhân viên CTXH thực hiện việc trao quyền cho con
người thực hiện các quyền của mình, đồng thời đảm bảo những bên có nghĩa
vụ thực hiện quyền của mình. [16, tr. 168].
Quyền con người là được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản như y
tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, tiếp cận thông tin…,
nhưng đối với người nghèo thì dường như họ lại không được tiếp cận tới các
dịch vụ xã hội cơ bản này nếu không nhận được sự hỗ trợ của nhà nước. Do
đó, trên phương diện vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền con người có bàn
đến tầm quan trọng của Nhà nước trong mối quan hệ tương tác với công dân
của họ về mặt quyền và nghĩa vụ. Cách tiếp cận theo quyền làm cho Nhà
nước phải quan tâm chăm lo đời sống của những người dân dễ bị tổn thương
trong đó có người nghèo.
Tiếp cận dựa vào quyền không chỉ tạo điều kiện cho chính người nghèo
thấy được tầm quan trọng của bản thân trong hệ thống xã hội và cộng đồng
nơi mình sinh sống để người nghèo không bị tâm lý mặc cảm, tự ti mà qua đó
giúp họ có ý thức vươn lên trong cuộc sống để thoát nghèo bền vững.
Vận dụng lý thuyết này vào CTXH với người nghèo giúp nhân viên
CTXH nhận biết được quyền lợi cơ bản của người nghèo cũng như nghĩa vụ
của người nghèo thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống
chính sách giảm nghèo hiện hành cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia
giảm nghèo bền vững của từng giai đoạn. Thông qua việc thực hiện các chính
sách, chương trình, dự án hỗ trợ cho người nghèo tại địa phương để đánh giá
mức độ phù hợp trong việc tiếp cận dựa trên quyền của người nghèo, đánh giá
những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận dựa trên quyền của con người trong
20