Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của các dạng đê bao vùng đồng tháp mười làm cơ sở đề xuất xây dựng mô hình hệ kinh tế sinh thái phục vụ phát triển bền vững (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.45 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

THÁI VŨ BÌNH

“NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA
CÁC DẠNG ĐÊ BAO VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI
LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG MÔ HÌNH
HỆ KINH TẾ SINH THÁI
PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG”
Chuyên ngành
: Môi trường đất và nước
Mã số chuyên ngành : 62 85 02 05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017


Công trình được hoàn thành tại: Viện Khoa học Công nghệ và
Quản lý Môi trường (Trường Đại học Công nghiệp Tp. HCM)
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ HUY BÁ

Phản biện 1:

GS.TS Lê Quang Trí

Phản biện 2:

PGS.TS Võ Lê Phú


Phản biện 3:

PGS.TS Bùi Xuân An

Phản biện độc lập 1: PGS.TS Huỳnh Văn Chương
Phản biện độc lập 2: PGS.TS Võ Lê Phú

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh
vào lúc
giờ
ngày 23 tháng 03 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. HCM
2. Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
I. Các bài báo khoa học
[1]. Thái Vũ Bình (2008), Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng đê bao
khu vực phía Bắc Sông Tiền, tỉnh Đồng Tháp lên môi trường và các mô
hình sản xuất. Tuyển tập Hội nghị KHCN Lần III, Trường Đại học Công
nghiệp.
[2]. Lê Huy Bá, Thái Vũ Bình, Nguyễn Thị An (2010), Nghiên cứu,
đánh giá sức chịu tải của hệ sinh thái đối với hoạt động nuôi trồng thủy
sản trên lưu vực sông Vàm Cỏ. Tạp chí Công nghiệp, ISSN: 0868-3778.
[3]. Lê Huy Bá, Thái Vũ Bình, Trương Thị Thu Hương (2011), Nghiên
cứu, đánh giá chất lượng môi trường đất nông nghiệp dưới tác động của
đê bao chống lũ trên lưu vực sông Vàm Cỏ - Khu vực Bến Lức – Long An.

Tuyển tập Hội nghị KHCN Lần IV, Trường Đại học Công nghiệp.
[4]. Thái Vũ Bình, Lê Huy Bá, Lê Nguyễn (2013), Nhận diện diễn biến
môi trường trong các dạng đê bao vùng phía Bắc sông Tiền, Đồng Tháp
Mười. Tạp chí Đại học Công nghiệp, ISSN: 1859-3712, số 1, năm 2013.
[5]. Thái Vũ Bình, Lê Huy Bá, Ung Văn Tuyền (2013), Nhận diện khía
cạnh kinh tế của các mô hình sản xuất trong các dạng đê bao vùng phía
Bắc sông Tiền, Đồng Tháp Mười. Tạp chí Đại học Công nghiệp, ISSN:
1859-3712, số 1, năm 2013.
[6]. Thái Vũ Bình (2014), Đánh giá kinh tế sinh thái các mô hình sản
xuất trong các dạng đê bao mùa lũ Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ISSN:1859-4581, Tháng
12-2014.
[7]. Thái Vũ Bình, Lê Huy Bá (2015), Đánh giá ảnh hưởng các dạng đê
bao mùa lũ Đồng Tháp Mười đến môi trường đất và nước với các mô
hình canh tác nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp. Tạp chí Đại học Công
nghiệp, ISSN: 1859-3712, số 2, năm 2015.
[8]. Thai Vu Binh, Le Huy Ba, Truong Thi thu Huong, Le Nguyen
(2015), Ecological Economic Assessment of the production in different
forms of dikes in plain of reeds of Dong Thap Muoi area, Vietnam.
Southeast-Asian Journal of Sciences, Vol.4, No. 1 (2015) pp. 1-13.
II. Sách
[1]. Lê Huy Bá, Thái Vũ Bình và nnk, Khả năng chịu tải hệ sinh thái môi
trường lưu vực sông Vàm Cỏ. NXB Khoa học Kỹ thuật, năm 2013.
[2]. Lê Huy Bá, Thái Vũ Bình và nnk, Quản lý môi trường (phần chuyên
đề). NXB Đại học Quốc gia Tp. HCM, năm 2016.


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT
Đồng Tháp Mười là vùng ngập sâu của Đồng bằng sông Cửu Long

(ĐBSCL). Đây là vùng có diễn biến lũ rất phức tạp những năm qua. Lũ vào
theo hai hướng: Qua biên giới từ 7.000 đến 9.000 m3/s và từ sông Tiền với
lưu lượng 200 đến 500m3/s. Thóat lũ theo hai hướng: Ra sông Vàm Cỏ và
theo các cống dưới QL 30, QL 1A. Lũ thường kèo dài từ tháng 7 đến tháng
11, 12. Từ thực tiễn vận hành hệ thống đê bao, nhìn nhận trong bối cảnh
vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) nói riêng và ĐBSCL nói chung, có 04 vấn đề
cần quan tâm: (1). Diễn biến lũ những năm qua khá phức tạp; (2). Thiên tai
và biến đổi khí hậu khó lường và khó kiểm soát; (3). Đê bao, bờ bao dày đặc
và vận hành thiếu thống nhất, tự phát ; (4). Các mô hình canh tác trong đê
bao thiếu ổn định, tự phát. Những vấn đề này đã và đang tác động tiêu cực
đến hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất trong đê bao, tác động đến
sinh thái và môi trường ngày càng sâu sắc với quy mô và cường độ tăng.
Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề sinh kế và phát triển bền vững (PTBV)
vùng ngập lũ nói chung và vùng trong đê bao nói riêng cần phải được nghiên
cứu xuất phát từ định tính và lượng hóa các tác động của đê bao đến các khía
cạnh kinh tế, môi trường, sinh thái từ đó tìm kiếm những giải pháp hài hòa
vừa đảm bảo khả năng khai thác (kinh tế) vừa đảm bảo khả năng bảo vệ
(sinh thái). Đề tài „Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của các dạng đê bao
vùng Đồng Tháp Mười làm cơ sở đề xuất xây dựng mô hình hệ kinh tế - sinh
thái phục vụ phát triển bền vững‟ được thực hiện nhằm làm sáng tỏ về mặt
khoa học và thực tiễn các ảnh hưởng của đê bao, các giải pháp kinh tế – sinh
thái (KT-ST) cho vùng trong đê bao.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Hoàn thiện về mặt phương pháp luận quy trình đánh giá KT-ST cho các mô
hình sản xuất trong đê bao, trên cơ sở đó ứng dụng để đánh giá được sự ảnh
hưởng của các dạng đê bao vùng ĐTM đến các yếu tố kinh tế, sinh thái môi
trường của các mô hình sản xuất trong đê bao từ đó có cơ sở đề xuất định
hướng xây dựng các mô hình KT-ST cho vùng trong đê bao nhằm phát huy
vai trò cung cấp (kinh tế) và duy trì, đảm bảo vai trò bảo vệ (sinh thái môi

trường) phục vụ PTBV.
2.2. Mục tiêu cụ thể
1


1. Hoàn thiện quy trình đánh giá KT-ST cho các mô hình sản xuất trong đê
bao
2. Đánh giá được ảnh hưởng của lũ và các dạng đê bao lên một số chỉ tiêu
môi trường đất và nước trong các mô hình canh tác trong đê bao
3. Đánh giá được ảnh hưởng của lũ và các dạng đê bao lên hiệu quả sản xuất
của các mô hình canh tác trong đê bao thông qua một số chỉ tiêu kinh tế
4. Đánh giá được sự hợp lý của việc bố trí các mô hình sản xuất dưới góc độ
KT-ST
5. Đề xuất định hướng phát triển các mô hình KT-ST cho các mô hình canh
tác trong các dạng đê bao phục vụ PTBV
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là:
1. Các dạng đê bao vùng phía Bắc sông Tiền
2. Các mô hình canh tác nông nghiệp trong các dạng đê bao
3. Tác động của đê bao lên môi trường đất và nước
4. Tác động của đê bao lên hiệu quả kinh tế của các mô hình canh tác nông
nghiệp
5. Mức độ KT-ST của các mô hình sản xuất nông nghiệp trong các dạng đê
bao
4.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Về mặt không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại 04 huyện nằm ở phía
Bắc sông Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp
- Trong môi trường đất, đề tài tập trung các chỉ tiêu pH, Al 3+ là hai chỉ tiêu
đặc trưng của vùng nghiên cứu

- Đề tài tập trung các chỉ tiêu pH, BOD, COD để đánh giá những thay đổi về
mặt chất lượng môi trường.
- đánh giá các yếu tố như hiệu quả trên một đơn vị chi phí vật chất, hiệu quả
trên một đơn vị chi phí lao động.
5. CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ LUẬN ĐIỂM CỦA LUẬN ÁN
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài:
- Câu hỏi nghiên cứu 1: Có thể ứng dụng quan điểm, lý thuyết KT-ST để giải
quyết các bài toán cho các mô hình canh tác vùng lũ nói chung và vùng
trong đê bao nói riêng ?
- Câu hỏi nghiên cứu 2: Liệu rằng đê bao có tác động tiêu cực đến môi
trường sinh thái, hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất trong đê bao ?
2


- Câu hỏi nghiên cứu 3: Các yếu tố KT-ST chủ đạo nào quyết định đến sự
phát triển bền vững của các mô hình sản xuất trong đê bao ?
- Câu hỏi nghiên cứu 4: Có giải pháp nào để nâng cao hiệu quả KT-ST của
các mô hình sản xuất trong đê bao ?
Các luận điểm của đề tài:
- Luận điểm 1: Các đê bao có vai trò tích cực trong việc ngăn lũ, ổn định
đời sống và sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên các tác động tiêu cực của nó đến
môi trường đất và nước, đến hiệu quả KT-ST của các mô hình sản xuất trong
các dạng đê bao sẽ được nhận định và đánh giá.
- Luận điểm 2: Mức độ phù hợp kinh tế - sinh thái của mỗi mô hình sản xuất
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là: (1). Việc bố trí không
gian mô hình trên từng vùng đất khác nhau; (2). Các yếu tố môi trường do
ngoại cảnh và nội sinh; và (3). Tính kinh tế mà mô hình sản xuất mang lại.
Trong đó những tác động của tự nhiên (lũ) và nhân tác (đê bao, kỹ thuật
canh tác) mang lại tác động rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả KT-ST của từng
mô hình sản xuất.

- Luận điểm 3: Có thể nâng cao hiệu quả KT-ST của từng mô hình sản xuất
trên cơ sở chuyển đổi (hiệu quả, thích hợp) của từng/các yếu tố chủ đạo tác
động đến mô hình sản xuất.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
6.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Bằng những cơ sở lý thuyết và những dẫn cứ thực tế, đề tài góp phần củng
cố về mặt phương pháp đánh giá KT-ST cho các mô hình canh tác trong điều
kiện lũ và giới hạn trong các dạng đê bao.
Thông qua quá trình đánh giá mức độ KT-ST, Luận án góp phần nhằm làm
sáng tỏ những ảnh hưởng của lũ, các dạng đê bao lên môi trường đất, môi
trường nước, hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, lũ vẫn về hàng năm, các đê bao đã được xây dựng
và vận hành nhiều năm qua, Luận án nhìn nhận mặt lợi, mặt hại của các dạng
đê bao từ trước, trong và sau lũ để có thể khuyến nghị những giải pháp theo
quan điểm KT-ST làm sao phát huy được mặt lợi và hạn chế của các dạng đê
bao đối với các mô hình canh tác nhằm PTBV trong điều kiện lũ.
Dưới góc độ và quan điểm KT-ST, Luận án đã phân tích và đánh giá mức độ
phù hợp KT-ST của từng mô hình canh tác, từ đó khuyến nghị các hướng
phát triển, phân bố không gian và thời gian của các mô hình canh tác sao cho
3


đạt được lợi ích về kinh tế và đảm bảo khả năng bảo vệ (sinh thái) nhằm
hướng đến PTBV.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Phát triển theo quan điểm KT- ST
1.1. 1.1. Kinh tế tài nguyên và môi trường

Dưới góc độ kinh tế, vấn đề ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên được
đánh giá qua các công cụ kinh tế và tính toán chi phí thiệt hại do ô nhiễm
trong hạch toán kinh tế. Thực chất đó là quá trình lượng hóa mức thiệt hại
bằng đơn vị tiền tệ theo nhiều cách khác nhau.
1.1.1.2. Kinh tế hóa sinh thái
Theo Schreiner (1996), dưới góc kinh tế, việc sử dụng có mục tiêu hệ thống
thiên nhiên mà vẫn giữ được hay có sự cải thiện được hệ thống sinh thái gọi
là kinh tế hóa sinh thái.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành Chương trình đánh giá hệ sinh thái
(HST) thiên niên kỷ nhằm đưa ra các giải pháp PTBV hơn trong tương lai.
Hướng đi của quan điểm này là cần xem các HST dưới các dịch vụ cung cấp
của nó. Thông qua việc đánh giá các dịch vụ này sẽ có các chiến lược khai
thác và gìn giữ các HST bền vững.
1.1.1.3. Sinh thái hóa kinh tế
Phát triển kinh tế dưới sự cân nhắc về sinh thái được xem là sinh thái hóa
kinh tế. Trong đó ba trụ cột chính của hệ thống phát triển là Kinh tế - Môi
trường – Xã hội. Làm sao để phát triển hài hòa giữa ba đối tượng trên đó
chính là con đường hướng đến sự PTBV.
Quan điểm của học thuyết này được Luận án kế thừa trong việc xem xét khả
năng PTBV vùng nghiên cứu trong bối cảnh tổng hòa các yếu tố kinh tế
(hiệu quả khai thác), môi trường – sinh thái trên nền tảng điều kiện tự nhiên,
tài nguyên thiên nhiên của Vùng.
1.1.1.4.Kinh tế sinh thái
Mối quan hệ giữa hệ kinh tế và HST là mối quan hệ hai chiều, mỗi một thay
đổi của hệ thống này sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của hệ thống
kia và ngược lại. Trong mối quan hệ này, con người đóng vai trò gần như
chủ đạo điều khiển sự tác động qua lại của hai hệ thống.
Hệ KT-ST là tổng hòa các mối quan hệ giữa các yếu tố mang tính chi phối
do con người điều khiển theo hướng có lợi cho con người. Hệ KT-ST được
xem là một hệ thống chức năng nằm trong tác động tương hỗ giữa sinh vật

4


và môi trường chịu sự điều khiển của con người để đạt mục đích PTBV, là
hệ thống vừa bảo đảm chức năng cung cấp (kinh tế) vừa đảm bảo chức năng
bảo vệ (sinh thái) và bố trí hợp lý trên lãnh thổ.
1.1.2.
Mô hình hệ kinh tế sinh thái
1.1.2.1. Nghiên cứu kinh tế sinh thái
+ Phương pháp mô phỏng hệ KT-ST: hai nhà tóan học người Mỹ Cohen và
Newman đã phát triển thành mô hình tóan hòan chỉnh dưới dạng phương
trình vi phân. Để đảm bảo cân bằng tối ưu thì các thành phần của phương
trình phải tối ưu. Tuy nhiên để giải bài tóan này là rất phức tạp. Mỗi HST cụ
thể, chọn những yếu tố quan trọng nhất (tính đến trọng số) để thiết lập
phương trình và giải để tìm ra các nghiệm tối ưu nhất.
+ Phƣơng pháp đánh giá trọng số các thành phần của HST: Khi nghiên
cứu HST, vấn đề đặt ra là trong rất nhiều thành phần cấu tạo ta nên chọn
thành phần nào và bỏ qua thành phần nào để nghiên cứu sâu hơn. Giải quyết
vấn đề này bằng cách tiếp cận thông qua các thuật toán. Vậy phương pháp
mô phỏng HST thông qua phương trình vi phân sẽ được thiết lập trên cơ sở
các biến có trọng số lớn và bỏ qua các biến có trọng số nhỏ, như vậy lúc này
phương trình sẽ đơn giản hơn và việc giải sẽ khả thi hơn.
+ Phương pháp hệ số truyền ảnh hưởng: Trong một hệ KT-ST với rất
nhiều yếu tố tác động, trong đó, tại một hệ điển hình/đặc thù nào đó, giả sử
tồn tại hai yếu tố mà mối quan hệ của chúng quyết định chiều hướng biến
đổi của hệ, sử dụng phương pháp hệ số truyền ảnh hưởng của hai yếu tố này
để phân tích và đánh giá hệ thống.
+ Phương pháp phân loại cảnh quan và đánh giá mức độ thích hợp:
Phương pháp này dựa trên việc nghiên cứu sự phân hóa các điều kiện tự
nhiên và hình thành nên hệ thống các đơn vị cảnh quan làm đơn vị cơ sở đánh

giá, phân hạng và đề xuất sử dụng hợp lý lãnh thổ theo quan điểm KT-ST.
1.1.2.2. Nội dung của hệ kinh tế sinh thái
Nội dung cơ bản của hệ KT-ST được đặc trưng bởi: năng suất, tính ổn định,
tính chống chịu, tính công bằng, tính tự trị, tính thích hợp, tính đa dạng và
tính hợp tác. Các tính chất này là các yếu tố cơ bản giúp đánh giá hoạt động
của hệ KT-ST, đồng thời là công cụ để phân tích hệ thống. sự hài hòa giữa
các tính chất và sự tốt hay xấu của hệ thống phụ thuộc vào sự nhìn nhận,
đánh giá của con người thông qua nhận thức, văn hóa, trình độ và kể cả tập
quán, tín ngưỡng…
5


1.1.2.3. Mô hình hệ kinh tế - sinh thái
Mô hình hệ KT-ST là một Hệ KT-ST được thiết kế và xây dựng trong một
vùng sinh thái xác định. Vai trò của các mô hình này là bố trí hợp lý các lực
lượng sản xuất, phương thức sản xuất nhằm nâng cao khả năng cung cấp
(tính kinh tế) trong điều kiện đảm bảo khả năng bảo vệ (tính sinh thái) trên
một vùng xác định.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
1.2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nƣớc
1.2.1.1. Lịch sử nghiên cứu kinh tế - sinh thái
Phát triển nghiên cứu kinh tế - sinh thái được cho là đầu tiên tại Úc
và New Zealand bắt đầu từ cuối năm 1970 (Murray, 2006). Các nghiên cứu
tại hai quốc gia này tập trung vào phát triển phương pháp luận và tầm nhìn
kinh tế - sinh thái.
Các nước phương Tây tập trung nghiên cứu phát triển lĩnh vực
kinh tế - sinh thái từ nhiều đối tượng, vùng nghiên cứu, công cụ và phương
pháp nghiên cứu khác nhau.
Khu vực Châu Á, kể từ những năm 1980, các học giả đầu ngành ở
Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu cụ thể về các vấn đề kinh tế sinh thái

phù hợp với chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và điều kiện sinh thái ở Trung
Quốc (Tian Shi, 2002).
Cho đến nay, nghiên cứu về kinh tế - sinh thái đã phát triển mạnh
mẽ tại hầu hết các quốc gia. Lĩnh vực này đã mang lại một quan điểm mới
trong vài năm gần đây trong hoạch định chính sách phát triển cũng như đánh
giá mức độ phát triển bền vững tại một số quốc gia. Quan điểm này được
biết đến đó là tích hợp các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- sinh thái mà vốn trước đây được xây dựng một cách riêng biệt về kinh tế và
về sinh thái môi trường.
1.2.1.2. Các nghiên cứu kinh tế - sinh thái bằng mô hình hóa
Martin (2007) đã hệ thống hóa khoảng 60 nghiên cứu về mô hình
hóa về kinh tế và mô hình hóa về sinh thái và đã chỉ ra có sự khác biệt giữa
các phương pháp tiếp cận mô hình hóa trong kinh tế và sinh thái. Từ việc
phân tích này, Martin đề nghị phát triển một mô hình tích hợp kinh tế - sinh
thái và điều đáng để đề cập đó là mô hình tích hợp thì lại đơn giản hơn, trực
quan hơn và dễ ứng dụng hơn.
Bockstael (1995) đã phát triển mô hình toán kinh tế sinh thái nhằm
làm công cụ lượng hóa các gía trị, dịch vụ của hệ sinh thái. Tiếp theo đó,
6


Alexey và cộng sự (1999) đã phát triển mô hình GEM bằng cách tích hợp
mô-đun kinh tế và mô-đun sinh thái để nghiên cứu kinh tế sinh thái Lưu vực
Patuxent, Maryland, Mỹ. Cũng với cách tiếp cận này, Di Jin (2003) đã xây
dựng mô hình kinh tế sinh thái trên cơ sở hợp nhất giữa mô hình kinh tế với
mô hình sinh thái, được đặc trưng bởi các thông số đầu vào - đầu ra của vùng
đới bờ và mạng lưới thức ăn trong HST biển. Tương tự vậy, các nghiên cứu
của Monica (1998), Robert (2001), Roberta (2002), Erickson (2005),
Münier (2006), …đều xây dựng mô hình tích hợp để giải quyết các bài toán
kinh tế - sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái nông nghiệp, lưu vực sông,

sức chịu tải của đô thị…
1.2.1.3. Các nghiên cứu bằng đánh giá cấu trúc – chức năng
Hướng nghiên cứu mô hình kinh tế - sinh thái theo tiếp cận cấu
trúc – chức năng của các thành phần trong hệ thống là cách tiếp cận rộng
hơn, phổ quát hơn khi nghiên cứu về mô hình kinh tế - sinh thái. Cách tiếp
cận này được nhiều tác giả triển khai tại nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và
thích hợp với vùng nghiên cứu có phạm vi không gian rộng và cũng phù hợp
với các nghiên cứu phát triển chính sách kinh tế - sinh thái cấp địa phương,
vùng và quốc gia.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nƣớc
Một cách tổng quát, các tác giả trong nước đã sử dụng các cách
tiếp cận và phương pháp nghiên cứu như sau:
- Hướng tiếp cận thứ nhất: Thiết lập hệ phương trình vi phân mô phỏng mối
quan hệ giữa các yếu tố chủ đạo trong vùng nghiên cứu, từ đó giải hệ
phương trình này để tìm nghiệm tối ưu làm cơ sở điều chỉnh hệ thống theo
hướng tốt hơn (nghiên cứu tại Bạch Đằng và ở Hoa Lư).
- Hướng tiếp cận thứ hai: Nghiên cứu cấu trúc – chức năng của các thành
phần trong hệ thống và mối quan hệ, phụ thuộc giữa chúng làm cơ sở điều
chỉnh cấu trúc, thay đổi chức năng theo hướng bảo vệ sinh thái và phát triển
kinh tế (nghiên cứu tại Phú Mỹ và tại Đông Hà).
- Hướng tiếp cận thứ ba: Dùng phương pháp hệ số truyền ảnh hưởng giữa
thực trạng môi trường sinh thái và các yếu tố kinh tế để xác lập yếu tố chủ
đạo quyết định lên hệ thống, từ đó tập trung điều chỉnh các yếu tố trội này
trên quan điểm KT-ST (nghiên cứu tại Trà Khúc).
- Hướng tiếp cận thứ tư: Hướng nghiên cứu này xuất phát từ các nhà khoa
học về địa lý cảnh quan, đó là phân chia vùng nghiên cứu thành các đơn vị
7


cảnh quan từ đó đánh giá tính hợp lý của từng đơn vị cảnh quan làm cơ sở

quy hoạch phát triển theo quan điểm KT-ST.
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VÙNG NGHIÊN CỨU TRONG BỐI
CẢNH LŨ VÀ XÂY DỰNG, VẬN HÀNH CÁC DẠNG ĐÊ BAO
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1.1. Vị trí địa lý
Vùng nghiên cứu gồm 04 huyện: Tam Nông, Tân Hồng, Hồng Ngự và
Thanh Bình, nằm phía Bắc sông Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp. Đây được xem
là vùng đầu nguồn sông Tiền (lãnh thổ Việt Nam), với hệ thống kênh rạch
chằng chịt. Lũ về vùng nghiên cứu có phần sớm hơn các vùng khác và mức
độ ngập cũng sâu hơn.
2.1.2. Đặc điểm địa hình
Địa hình toàn vùng mang tính chất của vùng ĐBSCL tương đối bằng phẳng,
không có chênh lệch lớn về độ cao. Vùng nghiên cứu nằm trong vùng trũng
ĐTM nên địa hình tương đối thấp.
2.2.3. Phát triển kinh tế
Nông nghiệp là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao của vùng nghiên
cứu. Trong đó cây lúa là cây trồng chủ yếu trên địa bàn nghiên cứu. Nuôi
trồng thủy sản cũng là ngành kinh tế mũi nhọn của vùng lũ nói chung và
vùng nghiên cứu nói riêng.
2.2.4. Vấn đề xã hội
Tổng dân số vùng nghiên cứu năm 2011 là 575.184 người. Mật độ dân số là
394 người/km2. Phần lớn cư dân sống ở nông thôn và được hình thành theo
hai dạng chủ yếu: (1). Điểm dân cư hình thành theo các tổ chức sản xuất,
như làng cá bè trên sông; làng ruộng, rẫy; làng vườn; làng rừng; làng tiểu thủ
công nghiệp; (2). Điểm dân cư hình thành theo các cụm, tuyến dọc theo các
kênh, rạch, các trục đường giao thông và mô hình tập trung theo cụm dân cư.
2.3. CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN ĐỒNG THÁP MƢỜI
2.3.1. Lũ lụt
Hằng năm, lũ vào theo hai hướng: (1). Từ sông Tiền theo các kênh vào vùng

nghiên cứu, (2). Lũ tràn qua biên giới và vào vùng nghiên cứu. Vào đầu mùa
lũ (khoảng tháng 6, tháng 7) nước từ sông Tiền theo các kênh rạch chảy vào
nội đồng. Đến tháng 8, nước lũ bắt đầu tràn bờ Nam kênh Sở Hạ đưa nước
vào vùng nghiên cứu và đạt đến đỉnh lũ vào khoảng cuối tháng 9, đầu tháng
10. Sau đó nước bắt đầu rút dần đến khoảng cuối tháng 12 xem như rút hết.
8


Thời gian lũ kéo dài khoảng 5-6 tháng với độ ngập sâu trung bình khoảng
0,5 – 4,0m.
2.3.2. Xây dựng và vận hành các dạng đê bao
Hiện nay, vùng nghiên cứu có 2 mô hình kiểm soát lũ: Mô hình kiểm soát lũ
theo thời gian (đê bao lửng – đê bao tháng 8), mô hình kiểm soát lũ cả năm
(đê bao chống lũ triệt để - gọi tắt là đê bao triệt để).
- Đê bao triệt (ĐBTĐ) để là các đường đê phối hợp giao thông có cao trình
khá cao và đỉnh lũ năm 2000 thường được chọn làm mốc cho các công trình
đê, khu vực này có thể canh tác vụ 3.
- Đê bao lửng (ĐBL) có mục đích là nâng dần cao trình các đường giao
thông nông thôn, để bảo vệ lúa vụ 2.
2.3.3. Bố trí các mô hình sản xuất
Tùy thuộc vào các dạng đê bao, địa hình, chất đất và kể cả yếu tố thị trường,
việc phân bố các mô hình sản xuất trong các dạng đê bao là rất thiếu ổn định.
Nhiều mô hình xuất hiện một cách tự phát, thiếu quy hoạch và chạy theo thị
hiếu của thị trường do vậy hiệu quả về kinh tế và sinh thái là điều cần phải
quan tâm đánh giá.
Tại vùng nghiên cứu, các mô hình sản xuất trong ĐBTĐ chiếm 22,33% (diện
tích 322,56 km2) và trong ĐBL chiếm 77,67% (diện tích 1.166,99 km2 vùng
nghiên cứu).
2.3.4. Diễn biến môi trường
2.3.4.1. Môi trường nước

Khu vực ĐBTĐ có chất lượng nước ô nhiễm và kém hơn các khu vực khác.
Ô nhiễm hữu cơ đã xuất hiện tại vùng trong đê bao và phần lớn các điểm kết
quả ghi nhận trước lũ có xu hướng ô nhiễm cao hơn trong lũ và vùng trong
ĐBTĐ ô nhiễm cao hơn vùng trong ĐBL. Ô nhiễm do các chỉ tiêu khác như
Nitrate, Nitrite và Ammonia cũng đã xuất hiện một vài nơi và cũng theo quy
luật tương tự. Trong khi đó lượng Coliform trong lũ thường cao hơn trước lũ
và nhiều điểm vượt tiêu chuẩn từ 2 đến 3 lần.
2.3.4.2. Môi trường đất
Các hệ thống canh tác, đê bao và lũ chính là nguyên nhân làm thay đổi, lan
truyền chất trong đất theo các quy luật phức tạp. Đánh giá môi trường đất và
ảnh hưởng của các quá trình tự nhiên, nhân tác lên môi trường đất vùng
ĐTM đến nay đã có nhiều nghiên cứu bước đầu chỉ ra. Lượng phù sa và dinh
dưỡng tầng mặt sau đê bao thường thấp hơn trước đê bao và vùng trong
ĐBL cao hơn vùng đê ĐBTĐ.
9


2.3.5. Hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất
Hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất theo các loại đất cũ và đất mới
khai hoang cho thấy vùng đất mới khai hoang hiệu quả còn khá thấp. So với
các mô hình canh tác lúa thì mô hình 3 vụ lúa có hiệu quả thấp nhất. Trong
vùng đất mới khai hoang, do các yếu tố đất, nước và kinh nghiệm canh tác
còn hạn chế nên hiệu quả kinh tế nhìn chung thấp hơn nhiều so với vùng đất
thuộc. Trong vùng đất này, mô hình 2 vụ lúa HT-Mùa có hiệu quả cao nhất,
kế đến là mô hình 1 vụ ĐX, tiếp đến là mô hình chuyên màu và mô hình 2
vụ ĐX-HT.
Vùng ĐBL có hiệu quả hơn vùng không đê bao và vùng ĐBTĐ. Trong vùng
ĐBTĐ hiệu quả canh tác trước khi xây dựng đê bao cao hơn sau khi xây
dựng đê bao và chênh lệch về hiệu quả kinh tế giữa trước và sau khi xây
dựng đê bao triệt để càng lớn khi thời gian hoạt động của đê càng dài. Trong

khi đó ở vùng ĐBL, sau khi xây dựng đê bao lại có hiệu quả kinh tế cao hơn
trước khi xây dựng.
CHƢƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp liên quan đến vùng nghiên cứu
- Điều tra thực trạng các mô hình canh tác trong các dạng đê bao
- Điều tra thực trạng, tình hình quản lý và vận hành các dạng đê bao
- Đánh giá thích hợp về đất của các mô hình canh tác
- Đánh giá ảnh hưởng của lũ và đê bao đến môi trường đất và nước
- Đánh giá ảnh hưởng của các dạng đê bao, quá trình lũ đến hiệu quả kinh tế
của các mô hình sản xuất
- Đánh giá mức độ KT-ST của các mô hình sản xuất
- Đề xuất định hướng KT-ST cho các mô hình sản xuất
3.2.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Phƣơng pháp luận
Việc xây dựng và vận hành các dạng đê bao mang lại tác động 2 chiều. Về
mặt tiêu cực: (1). Đê bao hạn chế đóng góp tích cực của nước nổi trong việc
ngăn chặn phù sa, tài nguyên thủy sinh vật và tài nguyên nước vào nội đồng;
(2). Làm thay đổi các yếu tố môi trường, sinh thái khu vực trong đê bao. Bên
cạnh đó, về mặt tích cực, đê bao giúp ổn định sản xuất, phát triển hạ tầng các
khu dân cư.
Quan điểm KT-ST trong hoạch định phát triển được nhiều quốc gia trên thế
giới nghiên cứu và áp dụng. Lợi ích của nó là khai thác được một cách hợp
10


lý các dạng tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế nhưng vẫn bảo vệ được
môi trường sinh thái.
Với cách tiếp cận đó, xuất phát từ đánh giá các ảnh hưởng của đê bao lên

môi trường, hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất trong bối cảnh nước
nổi về từ đó làm cơ sở xem xét tích hợp của cả 3 yếu tố (đất, môi trường,
hiệu quả kinh tế) theo các mức độ KT-ST khác nhau của từng mô hình sản
xuất. Từ kết quả của đánh giá này tiếp tục xem xét vai trò đóng góp (tầm
quan trọng) của từng yếu tố trong mỗi loại mô hình sản xuất trong từng dạng
đê bao quyết định lên mức độ KT-ST của mô hình sản xuất để có cơ sở điều
chỉnh các yếu tố đó nhằm hướng đến tính KT-ST cao hơn của mô hình sản
xuất.
3.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, thu thập số liệu
- Phương pháp lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu môi trường: Lấy 588 mẫu đất,
597 mẫu nước qua 04 đợt với 50-70% số mẫu lặp lại.
- Phương pháp xử lý số liệu thống kê
- Phương pháp điều tra theo phiếu mẫu: Điều tra tổng hợp cấp xã 47 phiếu,
điều tra nông hộ 303 phiếu và kiểm định kết quả bằng theo dõi qua Sổ tay tại
các mô hình (50 Sổ tay)
- Phương pháp đánh giá thích hợp về đất của các mô hình canh tác: Ứng
dụng phương pháp đánh giá định tính của FAO cho đặc thù của vùng nghiên
cứu.
- Phương pháp tính hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất: Đề tài xử lý số
liệu và phân tích qua các thông số: Giá trị sản xuất trên chi phí vật chất
(HCGO = GO/DC) và Lợi nhuận trên lao động (HLPr = Pr/LĐ)
- Phương pháp bản đồ, GIS

11


Hình 3.1. Tiếp cận đánh giá kinh tế sinh thái cho các mô hình sản xuất trong
đê bao
Bối cảnh phát triển của

ĐTM

Quan điểm KT-ST

Luận điểm, phương
pháp luận và PPNC

Nghiên cứu ảnh
hưởng của các dạng
đê bao lên MT

Nghiên cứu ảnh hưởng
của các dạng đê bao
lên hiệu quả kinh tế

Đánh gía thích nghi đất
cho các mô hình canh
tác

Đánh giá mức độ KT-ST
của các mô hình sản xuất

Xem xét tầm quan trọng
của các yếu tố lên mức độ
KT-ST

Khuyến nghị điều chỉnh
các mô hình sản xuất
theo hướng KT-ST


CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
4.1. ẢNH HƢỞNG CỦA ĐÊ BAO ĐẾN MÔI TRƢỜNG ĐẤT
4.1.1. Môi trƣờng đất thời điểm trƣớc lũ trong các dạng đê bao
Chất lượng đất trong ĐBTĐ tốt hơn trong vùng ĐBL. Điều này thể hiện qua
tần suất xuất hiện các giá trị pH và Al3+ thuận lợi cho cây trồng ở ĐBTĐ lần
lượt là 45% và 32,4% tổng số điểm khảo sát, trong khi ở ĐBL tần suất tương
ứng là 40% và 24,5%.
4.1.2. Môi trƣờng đất thời điểm sau lũ trong các dạng đê bao
Thời điểm sau lũ, đánh giá đất qua các chỉ tiêu pH và nhôm trao đổi (Al3+) cho
thấy, ĐBL có nồng độ Al3+ cao hơn trong ĐBTĐ và vượt ngưỡng thích hợp
cho cây trồng. Trong khi pH đất vùng ĐBL có xu hướng tốt hơn vùng ĐBTĐ
12


với nhiều điểm khảo sát có pH tăng lên và đạt ngưỡng thích hợp cho cây trồng
phát triển.
Nhận xét: Thời điểm trước lũ môi trường đất trong vùng ĐBTĐ tốt hơn
trong ĐBL. Vào thời điểm sau lũ, pH đất trong ĐBL được cải thiện tốt hơn
vùng ĐBTĐ, trong khi Al3+ được cải thiện tốt hơn trong ĐBTĐ với số lượng
vị trí khảo sát có nồng độ Al3+< 0,5mg/100g đất (nồng độ thích hợp cho cây
trồng) tăng lên.
4.1.3. Kiểm định kết quả đánh giá môi trƣờng đất
Kết quả kiểm định cho 2 nhóm các chỉ tiêu pH, Al3+ trong đất, vào các thời
điểm quan sát cho thấy (mức ý nghĩa 95%): Qua hai thời điểm quan sát, các
chỉ tiêu theo dõi tại vùng ĐBL có giá trị cao hơn so với ĐBTĐ, và thời điểm
sau lũ giá trị của các chỉ số có tăng nhẹ so với thời điểm quan sát trước đó.
Về mặt thống kê 2 nhóm chỉ tiêu này có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai thời
điểm quan sát (Sig. (2-tailed) < 0,05).
4.2. ẢNH HƢỞNG CỦA ĐÊ BAO ĐẾN MÔI TRƢỜNG NƢỚC
4.2.1. Môi trƣờng nƣớc trong các dạng đê bao thời điểm trƣớc lũ

Trong khu vực ĐBL, pH nước mặt dao động trong khoảng 5,6 - 7,2; giá trị
này tại khu vực ĐBTĐ là 5,5 - 7,4. Tần suất xuất hiện tại các điểm khảo sát
nhiều nhất chủ yếu ở giới hạn pH trong khoảng 6,2 - 7,1, là khoảng pH trung
tính phù hợp cho các mục đích sử dụng nước mặt.
Khu vực ĐBTĐ với 38,5% số điểm có BOD5 cao gấp >2 lần (30 - 44mg/l)
và 9,4% số điểm có BOD5 cao gấp >3 lần (45 - 55mg/l) so với QCVN
08:2015 loại B1. Tương tự, khoảng 18% số điểm có COD cao gấp >2 lần (60
- 77mg/l) so với QCVN 08:2015 loại B1. Khu vực ĐBL với 42,6% số điểm
có BOD5 cao gấp >2 lần (30- 40mg/l) và 7,4% số điểm có BOD5 cao gấp >3
lần (45 - 54mg/l) so với QCVN 08:2015 loại B1 (15mg/l). Đối với thông số
COD, 11,1% số điểm có giá trị cao gấp >2 lần (64,4 - 75,6mg/l) so với QCVN
08:2015 loại B1 (30mg/l).
4.2.2. Môi trƣờng nƣớc trong các dạng đê bao thời điểm sau lũ
Giá trị pH trong khoảng 6,3 - 6,8 có tần suất xuất hiện là cao nhất. Khu vực
ĐBL có 49,6% tổng số điểm khảo sát có pH dao động trong khoảng này và
khu vực ĐBTĐ là 55,8%.
Tần suất xuất hiện các giá trị COD vượt quá QCVN 08:2015 loại B1
(30mg/l) ở thời điểm sau lũ khu vực ĐBL có 73/135 vị trí khảo sát (54,1%)
và khu vực ĐBTĐ có 168/291 vị trí khảo sát (57,7%) có COD > 30mg/l. Tần
13


suất xuất hiện này giảm mạnh so với thời điểm trước lũ (87% trong ĐBL và
88,9% trong ĐBTĐ).
Sau lũ khu vực ĐBL đã có 25,2% tổng số vị trí khảo sát có giá trị BOD5 nằm
trong giới hạn cho phép của QCVN 08:2015 loại B1, trong khi tại khu vực
ĐBTĐ chỉ đạt 17,1%. Tương tự đối với chỉ tiêu COD, số lượng vị trí có giá
trị COD nằm trong giới hạn cho phép của QCVN 08:2015 loại B1 tại khu
vực đê bao lửng cũng tăng nhiều hơn so với khu vực ĐBTĐ.
Có thể nhận định rằng sau lũ, môi trường nước trong ĐBL được cải thiện tốt

hơn. Hay nói cách khác, ĐBTĐ để ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước khi
nghiên cứu từ giai đoạn trước lũ đến sau lũ.
Cũng với kết quả đó, nếu nhìn nhận ở quá trình lũ có thể kết luận lũ có khả
năng cải thiện môi trường nước tốt lên. Tuy nhiên do giới hạn trong các
dạng đê bao nên mức độ cải thiện là không nhiều và tùy thuộc vào quá trình
vận hành đê bao. Trong khi ĐBL chỉ ngăn lũ đến đầu vụ nên mức cải thiện
chất lượng nước tốt hơn ĐBTĐ.
4.2.3. Kiểm định kết quả đánh giá môi trƣờng nƣớc
Kết quả cho từng cặp – dãy số liệu cho thấy: Thời điểm trước lũ, pH, BOD
vùng ĐBL có giá trị cao hơn vùng ĐBTĐ. Thời điểm sau lũ, giá trị pH
không thay đổi đáng kể (6,5015/6,3822) giữa 2 vùng đê bao. Tuy nhiên, có
thể nhận định, giá trị COD và BOD tại vùng ĐBL thấp hơn so với vùng
ĐBTĐ. Trong kết quả này, có thể khẳng định vào thời điểm sau lũ với độ tin
cậy 95% giá trị của BOD của ĐBTĐ cao hơn BOD vùng ĐBL. Thời điểm và
các giá trị còn lại mức ý nghĩa thấp hơn 95%.
4.3. ẢNH HƢỞNG CỦA ĐÊ BAO ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA
CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC
4.3.1. Hiệu quả kinh tế thời điểm trƣớc lũ
Khu vực ĐBL tần suất xuất hiện giá trị GO/DC> 2 trong các điểm khảo sát
là 32,1% và ở ĐBTĐ là 40,8%. Giá trị Pr/LĐ> 1 xuất hiện với tần suất
97,6% trong đê bao lửng và 25% trong ĐBTĐ.
Trong khu vực ĐBL, nhiều điểm khảo sát có giá trị GO/DC và Pr/LĐ tương
đồng nhau, trong khi vùng ĐBTĐ hầu hết các điểm đều có giá trị GO/DC
cao hơn Pr/LĐ. Như vậy kết quả cho thấy, nếu xét về thu nhập thì canh tác
trong vùng ĐBTĐ có hiệu quả hơn vùng ĐBL, nhưng nếu xét về lợi nhuận
thì mô hình canh tác trong ĐBL hiệu quả hơn.
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của đê bao vào thời điểm trước lũ cho phép
nhận định: Lợi nhuận trên chi phí vật chất tại ĐBTĐ tốt hơn ĐBL, nhưng
14



hiệu quả trên đơn vị lao động thì canh tác trong ĐBL vượt trội hơn. Đây là
bài toán lớn đối với việc hoạch định chính sách phát triển cho vùng đê bao.
Trong ĐBTĐ chi phí đầu tư là rất cao và thu nhập mang lại bằng tiền là khá
cao, trong khi tại ĐBL chi phí đầu tư thấp nhưng hiệu quả về mặt lao động
là cao hơn.
4.3.2. Hiệu quả kinh tế thời điểm sau lũ
Sau lũ, Các mô hình canh tác trong cả hai dạng đê bao đều mang lại hiệu quả
kinh tế hơn thời điểm trước lũ. Vùng ĐBL có hiệu quả kinh tế tính theo giá
trị thu nhập (GO/DC) cao hơn lợi nhuận (Pr/LĐ), với giá trị lần lượt đạt
trong khoảng 0,58 - 5,37 và 0,02 - 10,52. Vùng đê bao triệt để, giá trị
GO/DC và Pr/LĐ dao động lần lượt trong khoảng 1,24 - 8,30 và (-0,46) 10,07.
Mặt khác, sau lũ số lượng điểm canh tác có giá trị GO/DC> 2 cũng tăng lên
trong khu vực nghiên cứu, với tần suất xuất hiện là 65,8% (trước lũ là
40,8%); đồng thời số điểm canh tác có giá trị Pr/LĐ> 1 cũng tăng đáng kể và
đạt tần suất 34,2% (trước lũ là 25%).
Đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình canh tác giữa trước và sau lũ, nếu
xét về giá trị lợi nhuận thì vùng ĐBL cao hơn vùng ĐBTĐ nhưng xét về giá trị
thu nhập thì vùng ĐBTĐ có hiệu quả hơn.
Từ các kết qủa và phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận như sau:
- Một là: Xét về thu nhập trên chi phí đầu tư, canh tác trong ĐBTĐ hiệu
quả hơn ĐBL
- Hai là: Xét về hiệu quả trên lao động, canh tác trong ĐBL hiệu quả hơn
ĐBTĐ.
- Ba là: So với giai đoạn trước lũ, sau khi lũ về hiệu quả canh tác trong cả
hai dạng đê bao tốt hơn, đây là lợi thế của của mùa nước nổi tại vùng ĐTM.
4.3.3. Kiểm định kết quả đánh gía hiệu quả kinh tế
Kết quả kiểm định cho 2 nhóm chỉ tiêu kinh tế, vào các thời điểm quan sát
cho thấy (mức ý nghĩa 95%): Thời điểm trước lũ, lợi nhuận trên một đơn vị
lao động (PR/LĐ) tại vùng ĐBTĐ thấp hơn vùng ĐBL (Mean (pair 2) = 0,570028, với Sig.(2-tailed) < 0,05). Về mặt thống kê 2 nhóm chỉ tiêu kính tế

này có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai thời điểm quan sát. Thời điểm sau lũ,
giá trị sản xuất trên chi phí vật chất (GO/DC) của vùng ĐBL thấp hơn so với
vùng ĐBTĐ (Mean (pair 3) = - 0,51236, với Sig.(2-tailed) = 0,001 < 0,05).
Về mặt thống kê 2 nhóm chỉ tiêu kính tế này có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
hai thời điểm quan sát. Song đó, chỉ tiêu lợi nhuận trên một đơn vị lao động
15


(PR/LD) ở vùng ĐBL cao hơn vùng ĐBTĐ (Mean (pair 4) = 0,67939, với
Sig.(2-tailed) = 0,004 < 0,05). Từ kết quả này (với mức ý nghĩa 95%), có thể
kết luận lợi nhuận trên một đơn vị lao động ở vùng ĐBL có lợi ích về mặt
kinh tế hơn so với vùng ĐBTĐ.
4.4. ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC TRONG CÁC
DẠNG ĐÊ BAO DƢỚI GÓC ĐỘ KINH TẾ - SINH THÁI
4.4.1.
Mức độ thích hợp về đất đai tại các mô hình canh tác
trong các dạng đê bao
4.4.1.1. Mức độ thích hợp về đất đai tại các mô hình canh tác trong
Vùng ĐBL
Vào vụ trước lũ, 44,23% số ô bao có mức thích hợp cao, 21,15% thích hợp
trung bình, 17,31% ít thích hợp và 17,31% không thích hợp. Vụ trong lũ, số ô
bao thích hợp cao chiếm 84,62% và còn lại 15,38% là không thích hợp, không
có ô bao ở mức thích hợp trung bình hay ít thích hợp. Vụ sau lũ, có 46,15%
thích hợp cao, 28,85% thích hợp trung bình và 25% ô bao ít thích hợp, không
có ô bao ở mức không thích hợp.
4.4.1.2. Mức độ thích hợp về đất đai của các mô hình canh tác trong
Vùng ĐBTĐ
Vụ trong lũ có số ô bao ở mức thích hợp cao chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với vụ
trước và sau lũ. Vào vụ trước lũ, có 36% số ô bao thích hợp cao, 46% ô bao
thích hợp trung bình, 6% ô bao ít thích hợp và 12% ô bao không thích hợp.

Vụ trong lũ, 70% số ô bao ở mức thích hợp cao, 22% ô bao thích hợp trung
bình, 4% ô bao ít thích hợp và 4% ô bao không thích hợp. Vụ sau lũ, 28% ô
bao thích hợp cao, 40% ô bao thích hợp trung bình, 28% ô bao ít thích hợp
và 4% ô bao không thích hợp.
4.4.1.3. Đánh giá phân hạng thích hợp đất của các mô hình
Có sự chênh lệch về số lượng của 2 dạng ĐBL và triệt để trong từng nhóm
phân hạng, trong đó nhóm phân hạng 4 và 2 ở dạng ĐBL chiếm ưu thế,
nhóm phân hạng 3 ở dạng ĐBTĐ chiếm ưu thế, còn nhóm phân hạng 1 đều
ngang bằng nhau ở cả 2 dạng đê bao. Như vậy, vùng ĐBL có phân hạng tốt
hơn so với vùng ĐBTĐ.
4.4.2. Mức độ thích hợp về môi trƣờng tại các mô hình canh tác
trong các dạng đê bao
4.4.2.1. Mức độ thích hợp về môi trƣờng nƣớc
Trong vùng ĐBL, có 18 điểm được đánh giá, trước lũ có 1/18 điểm thích
hợp kém và 17/18 điểm còn lại là thích hợp trung bình, sau lũ có 10/18 điểm
16


thích hợp trung bình và 8/18 điểm thích hợp cao. Trong vùng ĐBTĐ, có 14
điểm được đánh giá, trước lũ có 2/14 điểm thích hợp kém và 12/14 điểm còn
lại thích hợp trung bình, sau lũ có 8/14 điểm thích hợp trung bình và 6/14
điểm thích hợp cao.
4.4.2.2. Mức độ thích hợp môi trƣờng đất
Trong vùng ĐBL cũng có 18 điểm được đánh giá, trước lũ có 1/18 điểm mức
thích hợp kém, 15/18 điểm thích hợp trung bình và 2/18 điểm thích hợp cao,
sau lũ có 14/18 điểm thích hợp trung bình và 4/18 điểm thích hợp cao. Trong
vùng ĐBTĐ, có 14 điểm được đánh giá, trước lũ có 13/14 điểm thích hợp
trung bình và 1/14 điểm thích hợp cao, sau lũ có 1/14 điểm thích hợp kém,
7/14 điểm thích hợp trung bình và 6/14 điểm thích hợp cao. Thời điểm sau
lũ, có 10/32 điểm khảo sát được đánh giá là thích hợp cao thuộc cả 2 dạng

ĐBL và ĐBTĐ.
4.4.3. Mức độ kinh tế - sinh thái của các mô hình sản xuất trong
các dạng đê bao
Kết quả phân hạng có 7 ô bao có mức độ KT-ST kém, 90 ô bao có mức độ KTST trung bình và 25 ô bao có mức độ KT-ST cao. Trong đó, có 6 ô bao là
ĐBTĐ (chiếm 85,7%) và 1 ô bao là ĐBL. Cũng vậy, trong 7 mô hình có hiệu
quả KT-ST kém thì có 6 mô hình là canh tác 3 vụ trong 1 năm (chiếm
85,7%).
Có 90 ô bao (ô bao) có hiệu quả KT-ST trung bình, trong đó có 57 ô bao trong
ĐBL (chiếm 63%) và 33 ô bao trong ĐBTĐ.
Có 25 mô hình canh tác được đánh giá có hiệu quả KT-ST cao. Trong đó có
đến 21 mô hình nằm trong ĐBL (chiếm 84%). Các mô hình canh tác 3 vụ chỉ
có 4 mô hình (chiếm 16%), còn lại 84% các mô hình canh tác được đánh gía
hiệu quả cao về KT-ST là canh tác 2 vụ.
4.5. ĐỀ XUẤT ĐỊNH HƢỚNG KINH TẾ – SINH THÁI CỦA
CÁC MÔ HÌNH SẢN XUẤT TRONG CÁC DẠNG ĐÊ BAO
Cách tiếp cận xuyên suốt của đề tài đi từ đặc tính đất của khu vực, các hoạt
động làm biến đổi/dẫn đến kết quả là mức chất lượng môi trường và hiệu quả
kinh tế của mỗi loại ô bao, đây là 3 nhóm yếu tố đặc trưng nhất cho mỗi loại
ô bao. Có thể xem mỗi mô hình canh tác trong mỗi loại đê bao là một hàm
số, hàm số này được miêu tả như sau:
F (ô bao) = {đặc tính đất; quá trình lũ; môi trường; kinh tế; sự can
thiệp của con người}
17


Quá trình lũ và sự can thiệp của con người qua từng giai đoạn, mùa vụ là có
sự biến động rất lớn. Các yếu tố còn lại đã được đề tài đánh giá thực trạng và
xu hướng biến đổi trong mỗi loại mô hình canh tác và sắp xếp, phân hạng
theo mức độ thích hợp thấp – trung bình – cao.
Với cách tiếp cận và nhìn nhận hiện thực khách quan như trên, Đề tài tiến tới

xây dựng các kịch bản (định hướng KT-ST) theo 03 phương thức:
1. Kịch bản phát triển thấp: Các ô bao có mức độ KT-ST cao và trung bình
được tiếp tục duy trì, các ô bao có mức độ KT-ST thấp được chuyển đổi mô hình
canh tác khác để đạt được tính KT-ST cao.
2. Kịch bản phát triển trung bình: Kết hợp với kịch bản 1, các ô bao có
mức độ KT-ST trung bình và mức thích hợp đất thấp được chuyển đổi mô
hình canh tác nhằm có mức độ KT-ST cao.
3. Kịch bản phát triển cao: Chuyển đổi các ô bao có mức độ KT-ST
trung bình, các ô bao có mức độ thích hợp đất trung bình thành mô hình canh
tác có mức độ KT-ST cao.
 Kịch bản phát triển thấp: Dựa vào mức độ KT-ST của các ô
bao, chúng ta sẽ duy trì các ô bao có mức độ KT-ST cao và trung bình, đồng
thời chuyển đổi ô bao có mức độ KT-ST thấp ứng với mô hình canh tác phù
hợp. Có tổng cộng 277 ô bao duy trì mô hình canh tác hiện trạng trong kịch
bản phát triển thấp, vùng ĐBL có số ô bao hơn gấp 5 lần so với vùng ĐBTĐ
(trong đó: 232 ô bao ở vùng ĐBL, 45 ô bao vùng ĐBTĐ). Trong các ô bao
này bên cạnh các mô hình canh tác có mức độ KT-ST cao còn có các mô
hình có mức độ KT-ST trung bình. Có 7 ô bao có mức độ KT-ST thấp đã
được đề nghị chuyển đổi, số ô bao ở vùng ĐBTĐ chiếm ưu thế gần như tuyệt
đối (trong đó: 6 ô bao ở vùng dê bao triệt để và chỉ có 1 ô bao ở vùng ĐBL).
Việc điều chỉnh này dựa trên cơ sở lựa chọn mô hình canh tác của các ô bao
có cùng loại đất, cùng dạng đê bao và kĩ thuật canh tác và có mức độ KT-ST
cao sẽ ưu tiên lựa chọn.
 Kịch bản phát triển trung bình: Dựa trên cơ sở kịch bản phát
triển thấp, tiếp tục chuyển đổi mô hình canh tác của các ô bao có mức độ
KT-ST trung bình và sự thích hợp của đất thấp. Có 5 ô bao ở vùng đê bao
lửng được chuyển đổi sang các mô hình canh tác phù hợp. Các ô bao có mức
độ KT-ST trung bình và sự thích hợp đất thấp sẽ được chuyển đổi sang mô
hình canh tác có cùng loại đê bao, loại đất và có sự thích hợp về đất cao.
 Kịch bản phát triển cao: Dựa trên cơ sở kịch bản phát triển

trung bình, chúng ta tiếp tục chuyển đổi mô hình canh tác của các ô bao có
18


mức độ KT-ST trung bình và sự thích hợp của đất trung bình. Có tất cả 10 ô
bao được chuyển đổi sang mô hình canh tác phù hợp với sự thích hợp về đất cao
(trong đó: 3 ô bao ở ĐBL, 7 ô bao ở ĐBTĐ). Bên cạnh đó còn một số ô bao có
mức độ KT-ST là trung bình nhưng sự thích hợp với đất là cao ứng với các dạng
đê bao, nên ta không thể chuyển đổi mô hình canh tác. Để các ô bao này nâng cao
mức độ KT-ST chúng ta tăng cường các kỹ thuật canh tác mới đồng thời quản trị
tốt các dạng đê bao và có giải pháp bảo vệ môi trường hợp lý từ đó sẽ tăng hiệu
quả kinh tế của các mô hình.
Như vậy, Tác giả đã khuyến nghị lựa chọn 3 kịch bản ứng với phát triển
thấp, trung bình và cao từ đó đưa ra giải pháp chuyển đổi các mô hình canh
tác trong các dạng đê bao hướng đến nền KT-ST nông nghiệp. Không có
kịch bản nào là có thể ứng dụng hoàn toàn và duy nhất. Tùy điều kiện của
từng địa phương, điều kiện của nông hộ mà nên chọn một cách dung hòa
và/hoặc lần lượt đi từ kịch bản thấp, kịch bản trung bình đến kịch bản cao
cho từng ô bao cụ thể. Những ô bao có mức độ KT-ST thấp chuyển đổi dần
sang mức KT-ST trung bình và tiếp tục sang mức cao. Các ô bao có mức độ
KT-ST trung bình có thể duy trì hoặc chuyển đổi sang mức KT-ST cao tùy
điều kiện địa phương nông hộ. Các ô bao có mức độ KT-ST cao tiếp tục duy
trì mô hình sản xuất hiện tại và lưu ý đến các giải pháp kinh tế kỹ thuật, bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên, xuyên suốt quan điểm này, các ô bao đang có mô
hình canh tác với mức độ KT-ST thấp cần nhanh chóng chuyển đổi sang mô
hình canh tác có mức độ KT-ST trung bình. Các giải pháp bổ trợ cần được
duy trì và triển khai thống nhất trong vùng đê bao, đó là: giải pháp vận hành
các ô bao hợp lý (điều tiết nước và tính toán vận hành một cách đồng bộ,
xem xét các ảnh hưởng liên ô bao, liên vùng…) và các giải pháp kỹ thuật
canh tác tiên tiến, thân thiện môi trường tại các mô hình canh tác). Trên tất

cả, sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, cộng đồng và xã hội đối với việc
đảm bảo đầu ra của sản phẩm, triển khai ứng dụng công nghệ sau thu hoạch
nhằm gia tăng gía trị thặng dư của sản phẩm tại vùng nghiên cứu nói riêng,
ĐTM và ĐBSCL nói chung là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Từ cách tiếp cận ban đầu, Đề tài đã lần lượt đi từ việc (1). Phân tích bối cảnh
của vùng nghiên cứu trong điều kiện lũ và hệ thống đê bao; (2). Phân tích,
lựa chọn quan điểm KT-ST trong hoạch định phát triển cho vùng đặc thù;
(3). Hình thành các Luận điểm, nội dung và phương pháp nghiên cứu; (4).
Nghiên cứu ảnh hưởng của đê bao lên môi trường tại các mô hình canh tác;
(5). Nghiên cứu ảnh hưởng của đê bao đến hiệu quả kinh tế của các mô hình
19


sản xuất; (6). Đánh giá mức độ thích hợp đất đai của các mô hình canh tác;
(7). Đánh giá mức độ KT-ST của các mô hình canh tác bằng cách tích hợp
phân hạng của các yếu tố ảnh hưởng và sắp xếp phân hạng bằng bài toán
trung bình nhân; (8). Xem xét tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến
KT-ST của các mô hình sản xuất; trên cơ sở đó, cuối cùng (9). Khuyến nghị
điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng gia tăng mức độ KT-ST. Đây
chính là phương pháp luận và quy trình đánh giá KT-ST cho các mô hình sản
xuất trong đê bao mà Đề tài muốn xây dựng sau quá trình thực hiện cụ thể
cho Vùng nghiên cứu.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:
Từ những mục tiêu và luận điểm ban đầu, sau quá trình thực hiện
Luận án cho phép kết luận như sau:
1. Có thể ứng dụng quan điểm, lý thuyết kinh tế - sinh thái để giải quyết các
bài toán nhằm giúp tăng hiệu quả cung cấp (kinh tế) và hiệu quả bảo vệ (môi
trường, sinh thái) cho các mô hình canh tác vùng lũ nói chung và vùng trong
đê bao nói riêng. Cách tiếp cận đánh giá này có thể ứng dụng cho các vùng

sinh thái khác tại ĐBSCL nhằm đánh giá được tích hợp lý của các mô hình
sản xuất trên quan điểm KT-ST và có được các hướng điều chỉnh các mô
hình sản xuất theo hướng KT-ST phục vụ phát triển bền vững.
2. Trong bối cảnh nước nổi về hàng năm, đê bao Vùng ĐTM đã được xây
dựng hàng chục năm qua, một mặt giúp ổn định sản xuất, ổn định đời sống
và phát triển hạ tầng cơ sở, nhưng mặt trái của nó là ngăn cản sự cải thiện
môi trường của nước nổi. Có thể kết luận rằng đê bao có tác động tiêu cực
đến môi trường sinh thái, hiệu quả kinh tế của các mô hình sản xuất trong đê
bao:
- Đối với môi trường đất: Giai đoạn trước lũ ở ĐBTĐ có môi trường đất
(thể hiện qua pH và Nhôm trao đổi) tốt hơn ĐBL. Sau khi lũ về, môi trường
đất trong các dạng đê bao được cải thiện tốt, trong đó mức cải thiện trong
ĐBL cao hơn ĐBTĐ (mức tin cậy 95%). Có thể nói lũ giúp cải thiện điều
kiện môi trường đất.
- Đối với môi trường nước: Giai đoạn trước lũ các chỉ tiêu môi trường trong
ĐBL cao hơn ĐBTĐ. Sau khi lũ về chất lượng môi trường nước trong ĐBL
được cải thiện tốt hơn. ĐBTĐ mang lại ô nhiễm hữu cơ (BOD5) với mức độ lớn
hơn ĐBL (độ tin cậy 95%).
20


- Về hiệu qủa kinh tế: Nếu xét về hiệu quả trên chi phí đầu tư thì ĐBTĐ
hiệu quả hơn ĐBL, nhưng nếu xét về hiệu quả trên chi phí lao động thì
ngược lại. Ngoài ra, trong ĐBTĐ hiệu quả trên chi phí vượt trội so với hiệu
quả trên lao động, điều này ở ĐBL là tương đồng. Lũ mang lại hiệu quả kinh
tế (cả về chi phí và lao động).
3. Trong bối cảnh đê bao chằng chịt và nước nổi về hàng năm, việc bố trí các
mô hình sản xuất nông nghiệp trong đê bao vùng ĐTM còn thiếu hợp lý. Đề
tài đã đánh giá tính thích hợp về đất đai của các mô hình sản xuất nông
nghiệp cho kết quả như sau:

- Chỉ có 44% các mô hình sản xuất nông nghiệp được phân bố trên vùng
đất đai có tích thích hợp cao.
- 24% mô hình sản xuất được phân bố trên vùng đất đai không thích hợp.
- Số còn lại các mô hình là thích hợp trung bình hoặc ít thích hợp.
4. Trong rất nhiều các yếu tố tác động và quyết định đến mức độ KT-ST của
các mô hình sản xuất, có thể chỉ ra 03 nhóm yếu tố chính đó là: (1). Môi
trường, (2). Hiệu quả kinh tế và (3). Đất đai, thổ nhưỡng. Việc đánh giá tích
hợp 03 yếu tố này bằng bài toán trung bình nhân và sau đó phân hạng mức
độ kinh tế - sinh thái theo công thức Aivasian (1983) mang lại kết quả trực
quan, phù hợp với quan điểm và lý luận phát triển của đề tài. Kết quả đánh
giá từ 122 mô hình sản xuất như sau:
- Có 7 (5,7%) các mô hình có tính KT-ST kém. Trong đó 86% là tại các
ĐBTĐ, 14% tại ĐBL.
- Có 90 (73,8%) các mô hình có tính KT-ST trung bình. Trong đó số
lượng mô hình trong ĐBL và ĐBTĐ là tương đồng.
- Chỉ có 25 (20,5%) các mô hình có tính KT-ST cao. Trong đó 84% mô
hình từ ĐBL, chỉ có 16% mô hình từ ĐBTĐ.
- Các mô hình canh tác trong các dạng đê bao hiệu nay có mức độ KT-ST
không cao, đặc biệt là khu vực đê bao triệt để.
5. Có thể điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng gia tăng tính KT-ST
nhằm PTBV bằng cách điều chỉnh các yếu tố tác động và quyết định đến tính
KT-ST của mô hình sản xuất. Trên cơ sở xem xét các yếu tố, Luận án đã
khuyến nghị 03 kịch bản phát triển để điều chỉnh các mô hình sản xuất theo
hướng gia tăng mức độ KT-ST nhằm PTBV.
KIẾN NGHỊ:
1. Về mặt khái niệm, nguồn nước từ thượng nguồn về ĐBSCL nói chung và
ĐTM nói riêng là một yếu tố sinh thái mang lại các lợi ích về tài nguyên và
21



sinh thái, càng có nhiều giải pháp công trình để can thiệp (đê bao, cống
bọng, kênh mương…) thì càng bộc lộ những hạn chế của dòng nước về đối
với môi trường sinh thái, kinh tế... Đã đến lúc khái niệm này cần được gọi là
“nước nổi” để phát huy, tận dụng những lợi thế của nó. Với quan điểm này,
Luận án kiến nghị hạn chế tiếp tục bao đê triệt để và tiếp tục nghiên cứu
chuyển đổi đê bao triệt để thành đê bao lửng để tận dụng ưu điểm của nước
nổi.
2. Trong nhiều yếu tố quyết định đến phát triển bền vững vùng đê bao thông
qua các mô hình canh tác, yếu tố can thiệp của con người (kỹ thuật canh tác)
cũng là một yếu tố cần nghiên cứu và ứng dụng một cách khoa học, hiệu quả
với từng chủng loại cây trồng, từng loại mô hình canh tác trong từng vùng
đất đai, từng loại đê bao và theo diễn biến của lũ.
3. Biến đổi khí hậu mang lại những tác động tiêu cực, trong bối cảnh nước
nổi về ĐBSCL hàng năm, cần nghiên cứu một cách sâu sắc các tác động của
biến đổi khí hậu đến đặc điểm, chu kỳ và tác động của nước nổi, từ đó đánh
giá lại hiệu quả của các công trình ngăn lũ hiện nay để có cơ sở điều chỉnh,
thích ứng với biến đổi khí hậu trong điều kiện đặc thù của vùng.

22


×