Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Quá trình du nhập nho giáo vào việt nam từ đầu công nguyên đến thế kỷ 19 (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.11 KB, 31 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là học thuyết triết học, chính trò, đạo đức Trung Quốc,
ra đời ở thế kỷ VI trước Công nguyên, sau đó lần lượt
được truyền sang các nước Á Đông khác, Nho giáo đã
có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm nay và trải qua
nhiều biến đổi. Từ chỗ những ngày đầu còn xa lạ và
bò phần lớn người Việt từ chối, sau thời Bắc thuộc, Nho
giáo đã dần được các triều đại Việt Nam tiếp nhận, sử
dụng làm hệ tư tưởng và công cụ trò nước, đào tạo ra
những con người phù hợp với mục đích cai trò của chế độ
phong kiến nước nhà. Nho giáo đã trở thành một trong
những thành tố của truyền thống văn hóa Việt Nam, chi
phối mạnh mẽ đến tư duy và thái độ ứng xử của người
Việt.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày
một mạnh mẽ, vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát
triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách
thức to lớn đối với vấn đề bảo vệ, giữ gìn và phát huy
các giá trò văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc
trong bối cảnh mới của thế giới hiện đại. Trong xu hướng
đó, việc khẳng đònh và phát huy những yếu tố văn
hóa bền vững, lâu dài, làm nền tảng tinh thần cho sự
tồn tại và phát triển của cả một dân tộc là điều
kiện hết sức thiết yếu. Nền văn hóa ấy tất yếu phải
kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống
hàng ngàn năm của dân tộc mà trong đó Nho giáo đã
từng giữ vai trò chủ đạo suốt nhiều thế kỷ. Việc
nghiên cứu vấn đề Nho giáo nói chung, quá trình Nho


giáo du nhập Việt Nam nói riêng một mặt nhằm xem
xét những cơ sở lòch sử, chính trò và văn hóa mà Nho
giáo có thể bén rễ trong xã hội, những ảnh hưởng
của Nho giáo thể hiện qua tư tưởng, phong tục tập quán,
lối sống, cách ứng xử xã hội... mặt khác để có thái
độ đúng đắn đối với một học thuyết đã có những
ảnh hưởng sâu sắc đối với đời sống xã hội của dân
tộc trong lòch sử, đồng thời đem lại những bài học kinh
nghiệm về sự tiếp thu, vận dụng của dân tộc ta đối với
Nho giáo nói riêng và các học thuyết, tư tưởng ngoại lai
nói chung vừa để tránh bò đồng hóa văn hóa vừa để
làm giàu thêm nền văn hóa của riêng mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài


2

Nghiên cứu về quá trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam được nhận thức trong lý luận về sự chuyển đổi
tư tưởng từ một nền văn hóa này sang một nền văn
hóa khác, thể hiện ở nhiều công trình nước ngoài, như:
Learning as Transformation: Critical perspectives on a theory in
progress (2000) và Perspective Transformation (2012) của Jack
Mezirow; Organizational Transformation: Approaches, Strategies,
Theories, Amir Levy, Uri Merry, Havard, New York, 1998;
Understanding religious conversion, Lewis Rambo, Yale University,
1993; Thought on the problem of religious conversion in history,
Propper Karl, London, Oxford University, 1986; Rambo’s stages of
conversion, Judy Harrow, Sociology and social Research (UNESCO),
vol 36, No 3; Religion and the transformation of society, Wilson

Monica, Cambridge, Cambridge University, 1971…
Về vấn đề Nho giáo nói chung, Nho giáo ở Việt Nam
nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều
nhà nghiên cứu với ba khuynh hướng chủ yếu sau:
Một là, về điều kiện du nhập, đặc điểm và
tiến trình lòch sử của Nho giáo ở Việt Nam, có các
công trình tiêu biểu như: Đại Việt sử ký toàn thư, 3 tập,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Lòch sử tư tưởng Việt
Nam, tập 1, Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1993 và tập 2, Lê Sỹ Thắng (chủ biên),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Lòch sử tư tưởng Việt
Nam, Nguyễn Đăng Thục (6 tập), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1998;
Đại cương lòch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Nguyễn
Hùng Hậu (chủ biên), tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Hà
Nội, 2002; Đại cương lòch sử văn hóa Việt Nam (tập 3)
của Nguyễn Khắc Thuần, Nxb. Giáo dục, 1997; Sự phát
triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ XIX đến Cách
mạng Tháng Tám của Trần Văn Giàu, Nxb. Thành phố
Hồ Chí Minh, 1993 (tập 1, tập 2); Nho giáo ở Gia Đònh của
Cao Tự Thanh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1996... cùng
nhiều bài viết trên các tạp chí Triết học và tạp chí Hán
Nôm đề cập đến vấn đề này;
Hai là, về nội dung tư tưởng, vai trò và ảnh
hưởng của Nho giáo ở Việt Nam, có các công trình
như: Tập sách Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào
Duy Anh, Nxb. Quan Hải tùng thư, Huế, 1939, Nho giáo, Trần
Trọng Kim, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992; Nho giáo xưa
và nay, Vũ Khiêu (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1991; Nho giáo tại Việt Nam, Lê Sỹ Thắng (chủ
biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, Đến hiện tại



3

từ truyền thống của Trần Đình Hượu, Nxb. Văn hóa, 1995;
Nho học và Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Nxb.
Hà Nội, 1997; Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam,
Phan Đại Doãn (chủ biên), Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội,
1998; Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng
Duy, Nxb. Hà Nội, 1998; Tìm hiểu tư tưởng chính trò Nho
giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh của
Nguyễn Hoài Văn, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, 2002;
Học thuyết chính trò - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam của Nguyễn Thanh Bình, Nxb. Chính trò
quốc gia, Hà Nội, 2007… Ngoài ra, còn có các bài viết
trên các tạp chí Triết học của các tác giả của Lê Ngọc
Anh, Vũ Khiêu, Nguyễn Tài Thư… về vấn đề này;
Ba là, về việc kế thừa các giá trò của Nho
giáo trong sự nghiệp đổi mới, được đề cập trong tác
phẩm Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Vũ Khiêu,
Nxb. Khoa học xã hội, 1997, các công trình của Lê Sỹ
Thắng, Trần Đình Hượu... và các bài viết trên tạp chí
Triết học của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn
Tài Thư…
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của đề tài luận án là làm rõ được bản
chất, đặc điểm và ý nghóa lòch sử của quá trình Nho
giáo du nhập Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế
kỷ XIX. Để đạt được mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
Khái quát về học thuyết Nho giáo và những điều kiện

cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam; Trình bày,
phân tích các giai đoạn và những nội dung tư tưởng trong
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam; Nhận diện
những đặc điểm cơ bản của quá trình du nhập Nho giáo
vào Việt Nam, trên cơ sở đó rút ra một số ý nghóa lòch
sử từ quá trình ấy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
án
Về đối tượng nghiên cứu, luận án tập trung tìm hiểu
quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam ở góc độ
triết học, trong đó cố gắng phân tích, làm rõ những
chuyển biến của Nho giáo trong quá trình truyền bá và
tiếp nhận ở Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá
trình đó. Phạm vi nghiên cứu của luận án là từ đầu
Công nguyên cho đến cuối thế kỷ XIX.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
của luận án


4

Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ
nghóa duy vật lòch sử, đồng thời tham khảo các lý
thuyết chung về tiếp biến văn hóa, chuyển đổi tư tưởng
để làm rõ quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt
Nam. Bên cạnh phương pháp liên ngành, luận án cũng
sử dụng các phương pháp như phân tích - tổng hợp, đối
chiếu - so sánh, logic - lòch sử, diễn dòch - quy nạp.
6. Ý nghóa khoa học và ý nghóa thực tiễn của

luận án
Về ý nghóa khoa học, luận án muốn góp phần làm
rõ thêm quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX ở góc độ triết
học. Về ý nghóa thực tiễn, đề tài giúp người đọc nhận
thức rõ hơn về vấn đề tiếp thu và biến đổi Nho giáo
của người Việt trong lòch sử, làm cơ sở cho những nghiên
cứu về Nho giáo ở Việt Nam nói riêng, về tư tưởng,
văn hóa Việt Nam nói chung. Luận án có thể dùng làm
tài liệu tham khảo cho những sinh viên, học viên, những
người quan tâm đến lónh vực lòch sử tư tưởng Việt Nam
nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
7. Cái mới của luận án
Thứ nhất, luận án làm rõ nội hàm khái niệm về
sự du nhập, bản chất của sự du nhập văn hóa, tư tưởng
ở góc độ triết học. Thứ hai, luận án phân tích đặc
điểm của quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam. Thứ
ba, luận án đề xuất một số ý nghóa rút ra từ việc
nghiên cứu quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam trong lòch
sử tư tưởng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành ba chương,
sáu tiết, mười sáu tiểu tiết.
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN
CHO SỰ DU NHẬP
CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT NHO GIÁO


1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của
Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết chính trò - đạo đức nổi
tiếng của Trung Quốc thời cổ đại, do Khổng Tử (551-479
TCN) hệ thống hóa những tư tưởng và tri thức trước đây


5

mà thành, sau này Mạnh Tử (372-289 TCN) kế thừa và
phát triển theo chiều hướng duy tâm, gọi là Nho nguyên
thuỷ hay Nho Khổng - Mạnh. Thời Hán, Đổng Trọng Thư
(179 -104 TCN) đã phát triển Nho Khổng - Mạnh theo hướng
duy tâm, thần bí và tăng thêm tính đẳng cấp nhiệt ngã
gọi là Hán Nho. Đến thời Tống, Nho giáo pha trộn với
nhiều bộ phận của tư tưởng Phật, Lão - Trang, Âm Dương
thành một hệ thống hoàn chỉnh, dựa vào Kinh Dòch làm
xương sống triết học, với các cặp phạm trù cơ bản, cả
về bản thể luận, nhận thức luận và luân lý - đạo đức,
chính trò - xã hội, như là lý - khí, tâm - vật, số, tính, tình,
mệnh, tam cương ngũ thường, tri và hành, thiên lý và
nhân dục… Vào thời Minh, Vương Thủ Nhân (1472 - 1527)
phát triển thêm theo hướng duy tâm và xây dựng nên
học thuyết Tâm học. Đến đời Thanh, Vương Phu Chi, Hoàng
Tông Hi, Cố Viêm Võ.. đã đề xướng trào lưu Thực học,
cố gắng đổi mới Nho học theo hướng hiệu quả, thiết
thực hơn. Cuộc cách mạng tư sản đầu thế kỷ XX đã làm
sụp đổ triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc,
đồng thời chấm dứt vò trí chính thống của Nho giáo trong
đời sống xã hội.

1.1.2. Nội dung cơ bản trong học thuyết Nho giáo
Trong quan điểm về thế giới, nhìn chung, Nho giáo
là một học thuyết duy tâm. Tuy trong quan niệm của
người sáng lập Nho giáo là Khổng Tử cũng đã chứa
đựng một số yếu tố tiến bộ nhưng do những biến đổi
của thời cuộc, do những hạn chế bởi lợi ích giai cấp và
nhận thức khiến cho tư tưởng của ông không tránh khỏi
có những yếu tố duy tâm, thần bí. Mạnh Tử đã kế thừa
tư tưởng “Thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy nó tới
đỉnh cao của chủ nghóa duy tâm khi khẳng đònh ý chí và
quyền uy của trời trong việc sáng tạo và chi phối vạn
vật: “Chẳng có việc gì xảy ra mà không do mệnh trời.
Mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng
ấy” (Mạnh Tử, Tận tâm thượng, 1, 2). Tư tưởng này của
Khổng Tử và Mạnh Tử đến đời Hán được Đổng Trọng Thư
kết hợp với thần học, “sấm vó”, quan điểm Âm dương ngũ hành đã hình thành nên một hệ thống triết học
mang tính chất duy tâm thần bí rõ rệt với các luận đề
“thiên nhân hợp nhất”, “thiên nhân cảm ứng”, “vương
quyền thần thụ”, “thiên bất biến đạo diệc bất biến” cho
tất cả đều là do trời đònh. Từ thời Tống trở đi, với sự
kết hợp tư tưởng của Phật giáo và Đạo gia, đồng thời


6

lấy Kinh Dòch làm cơ sở chủ đạo, quan điểm của Nho gia
về thế giới trở nên khái quát và trừu tượng hơn, mang
tính triết học nhiều hơn với các nguyên lý và các phạm
trù như đạo và khí, lý và khí, trong đó lý là cái tuyệt
đối vónh viễn không biến đổi, là bản thể của thế giới

vạn vật, chi phối khí; còn khí là cái cụ thể, hữu hình,
biểu hiện của lý và chòu sự chi phối của lý.
Về tư tưởng chính trò - xã hội, Nho giáo, đặc biệt
là Nho Khổng - Mạnh đã nêu lên một xã hội lý tưởng
như thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, xem đó như là mục
tiêu phấn đấu của mình. Để đạt tới xã hội đó, Nho
giáo chủ trương “nhân trò”, “đức trò” nghóa là lấy đạo
đức để giáo hóa con người Bởi lẽ, nếu người cầm
quyền “dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng
lễ nghóa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những
dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà
còn can tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận
từ gốc từ mặt tư tưởng” (Luận ngữ, Vi chính, 3) và “dựa
vào đức hạnh khiến người khác phục thì người ta chòu
tâm phục, tức là phục mà trong lòng thật tâm thật ý”
(Mạnh Tử, Công Tôn Sửu Thượng, 2, 1). Không những thế,
nhà cầm quyền còn phải chăm lo cho dân, không để
dân phải đói khổ, phải được lòng dân, bởi: “Muốn được
thiên hạ có đạo lý nên theo là: có được dân là có
được thiên hạ” (Mạnh Tử, Ly lâu thượng, 9).
Về mặt đạo đức - luân lí, Nho giáo chủ trương con
người luôn phải có năm đức tính cơ bản (ngũ thường):
nhân, nghóa, lễ, trí, tín để có thể xử lý tốt quan hệ vua tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bạn bè. Trong đó,
Nho giáo đặt lên hàng đầu đức nhân, tất cả các đức
khác cũng nhằm thực hiện đức nhân. Trong quan niệm
của Nho giáo Khổng Mạnh, những mối quan hệ giữa vua tôi, cha - con, chồng - vợ và các hành vi ứng xử của con
người trong xã hội là có tính hai chiều, chứ không mang
tính khắt khe một chiều của bề dưới đối với bề trên.
Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư đã hệ thống hóa các
phạm trù đạo đức thể hiện những mối quan hệ cơ bản

giữa người với người trong xã hội, trở thành nội dung,
tiêu chuẩn cho sự giáo hóa đạo đức phong kiến. Ông
đặc biệt nhấn mạnh ba mối quan hệ cơ bản nhất trong
xã hội: “Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê
cương” (tam cương) và tuyệt đối hóa một chiều những
chuẩn mực đạo đức và các mối quan hệ này. Vào thời


7

Tống, khi chế độ phong kiến trung ương tập quyền được
củng cố thêm, cái được gọi là lý lại được họ vận dụng
vào xã hội để chỉ cái lý trong quan hệ vua tôi, cha con,
vợ chồng, cũng chính là những quy phạm đạo đức phong
kiến, tạo ra những chuẩn mực vô cùng khắc nghiệt đối
với con người.
1.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ DU NHẬP CỦA NHO
GIÁO VÀO VIỆT NAM

1.2.1. Khái luận về sự du nhập
Du nhập là khái niệm được Việt hóa từ tiếng Trung
Quốc dùng để chỉ sự đưa vào của một yếu tố từ một
quốc gia, một nền văn hóa bên ngoài vào khu vực bản
đòa bằng một hành vi của con người. Về mặt văn hóa,
bản chất của sự du nhập chính là mối liên hệ giữa yếu
tố truyền bá văn hóa và yếu tố tiếp nhận văn hóa,
mối liên hệ này được hiểu trong khái niệm về sự tiếp
biến văn hóa (Accultuaration). Đó là “sự tiếp xúc giữa
các cộng đồng văn hóa khác nhau và kết quả là
những thay đổi về văn hóa trong mỗi nhóm”1. Trong quá

trình tiếp xúc giữa mô hình văn hóa bản đòa và văn
hóa bên ngoài, diễn ra sự chuyển hóa hay kết hợp giữa
các giá trò văn hóa nội sinh với các giá trò văn hóa
ngoại sinh, trong đó có những giá trò bò khước từ, có
những giá trò được vay mượn, có những giá trò được cải
biến và cũng có những giá trò được sáng tạo. Bên cạnh
những giải thích quan trọng từ lý luận tiếp biến văn
hóa, sự biến đổi của một yếu tố văn hóa, tôn giáo, tư
tưởng từ bên ngoài trở thành yếu tố bản đòa hoặc từ
nguyên gốc chuyển thành tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau còn được giải thích thông qua lý luận về sự
chuyển đổi (Conversion theories). Theo đó, sự chuyển đổi
là một quá trình chứ không phải một sự kiện, quá trình
đó phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, được xem xét
trong những mối tương quan về văn hóa, xã hội. Sự
chuyển đổi này không chỉ là sự di chuyển từ nền văn
hóa này sang nền văn hóa khác, từ cộng đồng này
sang cộng đồng khác mà nó bao hàm nhiều sự thay đổi
vi diệu trong sự thâm nhập, hòa quyện tư tưởng, văn
hóa, niềm tin giữa các chủ thể, các nhóm người. Sự du
nhập Nho giáo vào Việt Nam được xem xét trong một quá
trình lâu dài với nhiều giai đoạn chuyển đổi khác nhau.
Phạm Xuân Nam (2013), Sự đa dạng và đối thoại giữa các nền văn hóa một góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.83.
1


8

Quá trình này thể hiện mối liên hệ giữa chủ thể
truyền bá và chủ thể tiếp nhận Nho giáo, tạo thành hai

quá trình - truyền bá và tiếp nhận - diễn ra song song
nhưng không đồng nhất, hai quá trình đó khác nhau về
mục đích, cách thức, nội dung, kết quả... ở từng giai
đoạn nhất đònh.
1.2.2. Khái quát những điều kiện cho sự du
nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Điều kiện đòa lý, lòch sử:
Về vò trí đòa lý, Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam
Á, về hướng Bắc, cả trên đất liền và biển, Việt Nam
đều tiếp giáp Trung Quốc, giữ vai trò là cửa ngõ, thuận
lợi nhất cho Trung Quốc nếu muốn xuống phía Nam. Từ xa
xưa Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra sự giao lưu kinh tếvăn hoá. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ ảnh hưởng
lớn đối với lòch sử Việt Nam mà còn đối với nhiều
quốc gia Đông Á khác bằng sự lớn mạnh áp đảo, âm
mưu xâm lược, chiếm lónh và khống chế các quốc gia
khác xung quanh nó. Là sản phẩm của Trung Quốc cổ
đại, Nho giáo được truyền vào Việt Nam không phải
thông qua con đường giao lưu văn hóa bình thường mà
thông qua con đường xâm lược của chính quyền phong
kiến nhà Hán (110 TCN - 39 SCN). Bằng nhiều thủ đoạn
khác nhau, qua các thời điểm khác nhau dưới thời Bắc
thuộc, giai cấp phong kiến thống trò phương Bắc đã
truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, xem đó là công cụ
tinh thần để thống trò và đồng hóa người Việt. Đầu thế
kỷ XV, sự xâm lăng của nhà Minh trên đất nước ta với
những chính sách cai trò tàn bạo, xét ở một phương diện
nào đó, đã củng cố cho sự phát triển sâu rộng của
Nho giáo ở Việt Nam. Bên cạnh con đường của sự xâm
lược, các yếu tố văn hóa Trung Hoa trong đó có tư tưởng
Nho giáo cũng tràn vào đất phương Nam theo dấu chân

của các đoàn thương gia. Đồng thời, hoạt động đối ngoại
của các sứ giả triều đình trong mối quan hệ bang giao
giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lòch sử đã tạo cơ hội
để người Việt hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho
giáo Trung Quốc, tiếp nhận kinh điển Nho giáo.
Điều kiện chính trò:
Các triều đại phong kiến Việt Nam khi đã thiết lập bộ
máy chính quyền của mình với sự tập trung cao độ quyền
lực vào một dòng họ thống trò, đứng đầu là một ông
vua thì việc tìm được một hệ tư tưởng có khả năng phản


9

ánh lợi ích, đòa vò thống trò của triều đại mình, đồng thời
giúp đỡ cho hoạt động quản lý xã hội, cai trò đất nước
của vương triều là một điều hết sức thiết yếu. Cùng
với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng sớm du nhập
Việt Nam và tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống
xã hội. Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo trong bản chất
không phải là một đạo trò nước mà chỉ có Nho giáo ở
góc độ một học thuyết chính trò - đạo đức, chủ trương
quyền hành phải tập trung vào thiên tử, bảo vệ quyền
lợi của dòng họ thống trò và các đòa vò tôn quý của
nó, đồng thời đưa ra cái gọi là “tam cương”, “ngũ thường”
như là những chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con
người đã tỏ ra là một công cụ hữu hiệu giúp các triều
đại củng cố sự thống trò giai cấp, ổn đònh trật tự xã hội
nói chung, đáp ứng được yêu cầu của giai cấp phong
kiến thống trò. Do đó, các triều đại phong kiến Việt Nam

đã từng bước tạo điều kiện cho Nho giáo phát triển,
biến nó thành ý thức hệ vững chắc để bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trò.Sự du nhập và phát triển của
Nho giáo ở Việt Nam gắn với xu thế đi lên tập quyền
và thống nhất của chế độ phong kiến dân tộc.
Điều kiện kinh tế - xã hội:
Nền kinh tế nước ta trong xã hội Việt Nam trước đây
về thực chất, là một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước
mang tính lạc hậu, khép kín, ổn đònh. Chính cơ sở kinh tế
ấy khiến cho con người ta có sự cố kết cộng đồng hơn,
hoà nhập vào thiên nhiên, chòu ảnh hưởng của thiên
nhiên và sùng bái thiên nhiên (trời, đất), khiến con
người trong các xã hội ấy tôn trọng tuổi tác, tôn trọng
những người có kinh nghiệm, tôn trọng trật tự trong gia
đình và xã hội, chú trọng sự hài hoà, hoà hợp… Trong
nền sản xuất tiểu nông ấy, người nông dân tiến hành
canh tác với kỹ thuật thô sơ và lối làm ăn riêng lẻ,
đồng thời mỗi gia đình trở thành một đơn vò sản xuất
hoàn chỉnh và vai trò của người chủ gia đình hết sức
được đề cao. Nền sản xuất ấy trong xã hội phong kiến
đã tồn tại trên một chế độ ruộng công, tạo ra các
làng xã tự trò có tính chất như một công xã nông thôn.
Cùng với quan hệ đẳng cấp của xã hội phong kiến,
quan hệ gia trưởng phụ quyền, thò tộc góp phần làm
tăng thêm tôn ti trật tự của gia đình, làng xã. Đó chính
là mảnh đất thuận lợi nhất để Nho giáo tồn tại và
phát triển ở Việt Nam.


10


Điều kiện văn hóa - giáo dục:
Sau thời Bắc thuộc, Nho giáo du nhập Việt Nam gắn
với nhu cầu phát triển văn hóa - giáo dục của các
triều đại phong kiến nước nhà. Để nắm quyền quản lý
đất nước, các triều đại Lý - Trần đã quan tâm đến việc
nâng cao tri thức. Đồng thời, do yêu cầu củng cố và
phát triển của nhà nước phong kiến, nên việc bổ
nhiệm quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm
tướng” và “thủ só” không đáp ứng được, mà cần phải
có một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới
để bổ sung vào đó. Điều này chỉ thực hiện được bằng
việc phát triển một nền giáo dục mới, với chế độ thi
cử để tuyển lựa nhân tài mà lúc này, chỉ có Nho
giáo, với hệ thống lý thuyết đầy đủ về giáo dục và
khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm vụ lòch sử
đó. Do vậy, từ cuối thời Trần, số người tiến thân bằng
con đường cử nghiệp ngày càng nhiều, giới Nho só đông
đảo hơn trước. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, cho dù thời
cuộc biến động, chủ trương chung của nhà nước phong
kiến vẫn là mở mang, phát triển giáo dục Nho học,
tuyển lựa nhân tài cho đất nước. Cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến
và việc bãi bỏ giáo dục, khoa cử Nho học, Nho giáo
cũng mất đi vò trí và vai trò của mình. Sự tồn tại của Nho
giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam gắn bó không
thể tách rời với việc giáo dục, khoa cử của nhà nước
phong kiến.
Kết luận chương 1
Nho giáo là học thuyết do Khổng Tử sáng lập vào

cuối thời Xuân Thu, được bổ sung và phát triển qua
nhiều giai đoạn, trở thành một hệ thống triết lý chính
trò - đạo đức có ảnh hưởng lớn ở Trung Hoa. Nho giáo
ngay từ đầu đã hướng đến xây dựng một xã hội thònh
trò và chủ trương lấy đạo đức, lễ nghóa để giáo hóa con
người, chủ trương chăm lo cho đời sống của nhân dân,
coi dân là nền tảng để có được thiên hạ. Về sau, nó
được bổ sung những luận điểm mới để khẳng đònh
quyền uy tối cao của nhà vua, bảo vệ quyền lợi, đòa vò
của vương triều thống trò, dần dần tuyệt đối hóa thân
phận và sự phục tùng của bề dưới đối với bề trên,
trở thành những quy phạm khắc nghiệt, ràng buộc con
người trong xã hội. Nho giáo du nhập Việt Nam trước hết
bắt nguồn từ mưu đồ bành trướng lãnh thổ, đồng hóa


11

nhân dân ta của các thế lực phong kiến phương Bắc
xâm lược. Bên cạnh đó, sự gần gũi về đòa lý, sự tương
đồng về sản xuất nông nghiệp, quan hệ thương mại,
bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa đã tạo ra những
thuận lợi trong việc tiếp thu về cách thức xây dựng,
quản lý nhà nước cũng như về văn hóa, tư tưởng đối
với các triều đại phong kiến Việt Nam.
Chương 2

CÁC GIAI ĐOẠN VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CƠ
BẢN CỦA NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH DU NHẬP VIỆT
NAM

2.1. CÁC GIAI ĐOẠN TRONG QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU
NHẬP VIỆT NAM

2.1.1. Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá
vào Việt Nam
Giai đoạn đầu tiên Nho giáo được truyền bá vào Việt
Nam tương ứng với thời kỳ Bắc thuộc trong lòch sử dân
tộc. Nho giáo được truyền vào Việt Nam với mục đích
thống trò và đồng hóa người Việt của các triều đại
Trung Quốc. Lực lượng truyền bá Nho giáo lúc này chủ
yếu là chính quyền đô hộ, các viên quan cai trò như Tích
Quang, Nhâm Diên, Só Nhiếp... Bên cạnh đó, các nho só di
cư từ Trung Quốc sang Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau
cũng tham gia vào quá trình truyền bá Nho giáo và văn
hóa Hán ở Giao Châu bấy giờ. Sau khi xâm lược nước ta,
cùng với việc chia lại khu vực hành chính và tổ chức bộ
máy cai trò trên vùng đất mới chiếm được theo chế độ
quận huyện của Trung Quốc, lực lượng đô hộ thực hiện
một loạt các chính sách, biện pháp nhằm đồng hóa
nhân dân ta mà theo đó Nho giáo được truyền bá vào:
Thứ nhất, bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán
theo người Trung Quốc; Thứ hai, phổ biến tiếng Hán và
chữ Hán trong nhân dân nhằm thay đổi ngôn ngữ, chữ
viết của người Việt; Thứ ba, mở trường dạy học để
truyền bá Nho giáo nhằm đồng hóa dân tộc ta về tư
tưởng tinh thần.
2.1.2. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận chủ
động ở Việt Nam
Xuất phát từ nhu cầu củng cố nhà nước quân chủ
tập quyền và trật tự của xã hội phong kiến, nhu cầu

phát triển văn hóa giáo dục, từ thời Lý - Trần, nhà
nước phong kiến đã chủ động tiếp nhận và sử dụng
Nho giáo trong quản lý đất nước. Nho giáo trong giai đoạn


12

này được truyền bá vào Việt Nam chủ yếu thông qua
các hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách, nhân
bản sách; Những luồng người nhập cư. Về cách thức
Nho giáo được tiếp nhận ở Việt Nam: Thứ nhất, các vò
vua thời Lý - Trần đã cho mở mang giáo dục Nho giáo,
xem trọng khoa cử Nho học và từng bước đưa nó trở
thành công cụ chính để tăng cường sự thống trò của giai
cấp phong kiến, tạo nên sức mạnh cho bộ máy nhà
nước; Thứ hai, Nho giáo được phổ biến và gây ảnh
hưởng trong xã hội cùng với sự mở rộng và vò thế
ngày càng tăng của tầng lớp nho só; Thứ ba, sự du nhập
và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn này
còn thông qua đóng góp của của các tăng só - những
người có ảnh hưởng lớn trong triều đình và xã hội bấy
giờ. Sự ảnh hưởng của Nho giáo trong lónh vực giáo dục
đã tác động trực tiếp vào sự hình thành đội ngũ trí
thức dân tộc, tạo nên những bậc danh nho, danh tướng
lẫy lừng, những người có đóng góp lớn trong lòch sử
dân tộc Việt Nam như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trung Ngạn,
Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh,
Đoàn Nhữ Hài, Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Trần
Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh
Dư...

2.1.3. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận làm hệ
tư tưởng chính thống của nhà nước phong kiến
Việt Nam
Nhằm củng cố và tăng cường chế độ tập quyền
phong kiến trung ương, chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình
và trật tự xã hội, từ thời Lê sơ trở đi, giai cấp cầm
quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó là cơ sở lý
luận để xây dựng đất nước, làm bệ đỡ tư tưởng bảo
vệ lợi ích của vương triều. Nho giáo trong giai đoạn này
được truyền bá vào nước ta thông qua nhiều hoạt
động: hoạt động chính trò, ngoại giao hai nước, trao đổi
ấn phẩm, dòch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc
với những người di cư. Từ thời Lê đến thời Nguyễn,
nhà nước phong kiến đã tiến hành rất nhiều biện pháp
nhằm phổ biến Nho giáo trong nhân dân, làm cho nó
trở thành tư tưởng chi phối sâu sắc toàn diện xã hội:
Thứ nhất, giai cấp thống trò thời kỳ này hết sức chú
trọng mở mang giáo dục và khoa cử Nho học; Thứ hai,
thời kỳ này, nhà nước phong kiến còn ban hành các
văn bản chính trò - xã hội dựa trên hệ thống quan điểm


13

Nho giáo; Thứ ba, nhằm đề cao Nho giáo, triều đình còn
thi hành những biện pháp hạn chế Phật giáo, Đạo giáo.
Thông qua các chính sách, biện pháp đó, Nho giáo đã
từng bước thâm nhập vào các lónh vực xã hội, đi sâu
vào các thiết chế làng xã, tác động lớn đến thế giới
quan, nhân sinh quan của những người theo học đạo nho.

Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của những nhà nho
xuất sắc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng
Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Lê Thánh Tông
và Minh Mệnh... những người với tài năng, trí tuệ và
bản lónh của mình đã có những đóng góp to lớn, để lại
những dấu ấn sâu sắc trong lòch sử nước nhà.
2.2. NHỮNG NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO
GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH DU NHẬP VIỆT NAM

2.2.1. Về thế giới quan
Trong quan niệm về trời, mệnh trời, mối quan
hệ giữa trời đất và con người, những người cầm
quyền đều cho rằng, mình là người nhận mệnh trời,
thừa hành ý chí của trời để cai quản muôn dân, đồng
thời tin rằng trời có thể thấu hiểu, giúp đỡ hoặc hóa
giải nạn tai cho con người nếu con người thật sự có thành
ý và bằng hành động chân thành của mình khấn xin
làm cho trời cảm động. Các nhà nho cũng tin tưởng vào
trời, mệnh trời và sự tương cảm giữa trời đất với con
người. Chu Văn An cho rằng: “Nhà tranh hay nhà ngọc, đều
có số mệnh”1. Theo Nguyễn Trãi: “Nước thònh hay suy
quan hệ ở trời, quân mạnh hay yếu không cứ ở nhiều”2.
Ngô Só Liên quan niệm: “Phàm người làm vua thận trọng
trước sự răn bảo của trời, lo lắng làm hết phận sự của
người thì đó là đạo vãn hồi tai biến của trời” 3. Theo
ông: “Lòng tin thành thực cảm thông đến cả vàng đá,
huống nữa là trời? Việc gì trời đã giúp sức là thuận”4.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cục diện nội chiến,
chia cắt của đất nước đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư
tưởng của các nhà nho. Sự thay thế của các vương triều

và sự biến đổi nhanh chóng của số phận con người làm
cho các nhà nho thời kỳ này càng tin tưởng vào vào ý
trời, mệnh trời và sự phụ thuộc, mối liên hệ chặt chẽ
giữa con người và trời đất. Các vua quan nhà Nguyễn
quan niệm, sự tồn tại của vương triều mình là “vâng chòu
Viện văn học (1978), Thơ văn Lý - Trần, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.60.
2
Nguyễn Đăng Duy (1998), Sđd, tr.324.
3
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.45.
4
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.200.
1


14

mệnh trời”, rằng trời vì dân mà đặt ra vua để thống trò,
họ xem “mệnh trời” là một vũ khí vạn năng để biện
minh tính chính thống của triều đại mình và củng cố
quyền lực cho vương triều. Có thể nói, một mặt, những
tư tưởng về trời đã được nhà nước phong kiến sử dụng
để đề cao ngôi vua và thần thánh hóa vương quyền,
mặt khác, nó cũng tác động và làm sâu sắc thêm
ý thức về trời của con người Việt Nam, đáp ứng nhu
cầu về mặt nhận thức của con người bấy giờ về
những biến đổi của tự nhiên, xã hội và cuộc sống
con người.
Trong quan niệm về âm dương, lý khí, các nhà nho

quan niệm âm dương như hai sự vật khác nhau hoặc hai
mặt khác nhau của cùng một sự vật, chúng vừa thống
nhất lại vừa đối lập nhau, làm cơ sở cho sự sinh thành,
biến hóa vạn vật. Về vấn đề lý, khí, các nhà tư tưởng
xem lý là quy luật biến đổi của trời đất, vạn vật, còn
khí là bản thể của vũ trụ như quan niệm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm cho rằng: “Thái cực xưa đã phân, Tam tài chia
ba vò. Nhẹ trong bay thành trời, Nặng đục dưới là đất. Ở
giữa là con người, Tuy ba chung một khí” (Cảm hứng).
Quan niệm về khí sau này được lý giải rõ hơn ở Lê Quý
Đôn, khí không chỉ là nguồn gốc, bản chất của vạn
vật mà khí còn quy đònh cả tính chất, hình trạng, đặc
điểm của sự vật, hiện tượng trong thế giới. “Khí rất thần
diệu, tinh vi: Khí mà thònh tất nhiên thư thái; khí mà suy thì
phải co rút; xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong
trong thì thông, khí đục thì tắc; xem ở lòng người sáng hay
mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn...”1. Theo
ông, quan hệ giữa lý và khí là quan hệ giữa quy tắc, quy
luật với tồn tại vật chất, không thể tách rời, lý “nương
theo khí mà hiện lộ ra”2. Ngô Thì Nhậm cũng quan niệm,
khí chính là cái gốc của vạn vật, nhờ có lý thì khí mới
chuyển hóa thành sự vật đa dạng khác nhau, “khí và hình
vật đã chia rời nhau ra, thì khí trời xuống dưới, khí đất bay
lên, có cái biến hóa vô cùng”3.
2.1.2. Tư tưởng chính trò - xã hội
Chòu ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về mục
tiêu xây dựng một xã hội bình trò, thống nhất ổn đònh
1

Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội,

tr.59.
2
Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội,
tr.37.
3
Mai Quốc Liên (Chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm,
tập 3, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, tr.156.


15

như xã hội Đường Nghiêu, Ngu Thuấn xa xưa, các vò vua
quan, nhà nho người Việt thường lấy vua Vũ, Thang, Văn
để làm khuôn mẫu cho các bậc đế vương, lấy xã hội
các ông trò vì làm kỳ vọng để phấn đấu. Để có thể
xây dựng được một xã hội thái bình, thònh trò như xã
hội Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Nho giáo chủ trương lấy
“nhân”, “nghóa”, “lễ”, “trí”, “dũng”, “hiếu”, “kính”, “đễ”…
để giáo hóa, cải biến con người. Chủ trương “đức trò”,
“nhân trò” này cũng chính là đường lối trò nước cơ bản
của của hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam,
chủ yếu xoay quanh hai nội dung chính:
Một là, sự tu thân sửa đức của nhà vua là cơ sở để
xác lập những chuẩn mực đạo đức cho toàn xã hội.
Các nhà nho cho rằng, vò trí quan trọng nhất trong xã hội
là một ông vua, do đó, việc tu thân, sửa đức của nhà
vua được nhấn mạnh như là điều kiện tiên quyết để xây
dựng một xã hội thái hòa, thònh trò bền vững. Nhà vua
có đức và thường xuyên sửa đức sẽ thu phục được
lòng người, ân trạch thấm thía đến muôn dân để mọi

người được sống yên vui trong cảnh thái bình, thònh trò.
Theo Lê Văn Hưu, “người giỏi trò nước không cứ đất
rộng hay hẹp, chỉ xem ở đức mà thôi”1. Nguyễn Trãi
cũng nhấn mạnh “nhân nghóa” của người cầm quyền
trong việc trò nước an dân, coi đó như là nguồn gốc sức
mạnh giữ nước và dựng nước, ổn đònh xã hội. Theo ông:
“Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghóa làm gốc, nên
công to phải lấy nghóa làm đầu” (Lại thư trả lời Phương
Chính). Ngô Só Liên cũng cho “nhân nghóa càng sâu thì
ảnh hưởng càng xa”2. Bởi vì: “Gốc của thiên hạ là ở
nước, gốc của nước là ở nhà, gốc của nhà là ở mình.
Có dạy được người nhà mình thì sau mới có thể dạy được
người trong nước. Đời Đường Ngu thònh trò chẳng qua cũng
là như vậy”3. Nguyễn Dữ viết: “Kẻ làm vua chúa nên
lấy sự chính lòng mình để làm gốc chính triều đình, chính
trăm quan, chính muôn dân” (Câu chuyện đối đáp với
người tiều phu ở núi Na). Nguyễn Đức Đạt đưa ra các
tiêu chuẩn của một minh quân: “Đạo đức phải cao. Ân
tứ phải sâu, thu dùng hiền tài phải rộng, Ban phát
bổng lộc phải hậu, phải quý mưu lược, phải tôn Nho
giáo, phải cần việc nông tang, phải kíp việc xử án”4.
Các vò vua trong quá trình cai trò đất nước cũng luôn chú
1
2
3

Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.146.
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.290.
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.106.



16

trọng đến việc tu thân, sửa đức phát huy đức độ của
mình trong việc trò nước yên dân như Minh Mệnh đã nói:
“Người làm vua không nên cầu an nhàn, dù tinh thần
mệt mỏi cũng phải cố gắng”1.
Hai là, sự quan tâm của nhà vua đến đời sống nhân
dân, những chính sách, biện pháp nhằm giáo hóa dân,
đem lại lợi ích và ấm no cho dân. Theo Nguyễn Trãi, người
cầm quyền muốn mưu nghiệp lớn phải được lòng dân,
phải dùng nhân nghóa để yên dân, làm cho nhân dân
được no đủ để “chốn xóm thôn không còn tiếng oán
hận buồn than”2. Kế thừa tư tưởng Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông giương cao đường lối “lễ trò”, nhấn mạnh
nhân nghóa trong việc trò nước, yên dân, coi thương “thân
yêu dân là trách nhiệm”, coi: “Lễ nghóa để sửa tốt
lòng dân, nông tang để có đủ cơm áo. Hai điều đó là
việc cần kíp của chính sự, là chức trách của các quan
nuôi giữ dân”3. Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm: “Xưa nay
nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ
được nước, cốt phải được lòng dân”. Ngô Thì Nhậm cho
rằng: “Lòng dân yên đònh thì ý trời cũng xoay chuyển”
(Kim mã hành dư). Minh Mệnh nhấn mạnh: “Dân là gốc
của nước. Dân không yêu mến thì ngươi có thể hưởng
giàu sang được mãi không?”4. Trên cơ sở ý thức được
sức mạnh của dân, các nhà nho chủ trương người cầm
quyền phải chăm lo cho đời sống nhân dân, làm sao cho
nhân dân được ấm no, sung túc, được sống thái bình, yên
vui.

2.1.3. Vấn đề đạo đức - luân lý
Ở các triều đại đầu tiên của nhà nước phong kiến
dân tộc độc lập, vấn đề luân lý - đạo đức trong các
mối quan hệ xã hội chưa thực sự được quan tâm, các
mối quan hệ xã hội cũng chưa bò ràng buộc nhiều bởi
khuôn mẫu cứng nhắc của đạo Nho. Nhà Lý và nhà
Trần có học theo đạo Nho nhưng không phải giáo điều,
rập khuôn tư tưởng Nho giáo mà vận dụng nó trên tinh
thần thực tiễn của cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước bấy giờ. Trong quan hệ vua Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1994), Lòch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.136.
1
Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1994), Lòch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.81.
2
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.336.
3
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.497.
4
Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1994), Lòch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.98.
4


17

tôi, chữ trung được đề cao nhưng trung quân gắn liền
với ái quốc, chứ không chỉ trung với vua, với triều đại
của vua. Còn hiếu được xem là gốc của đức “trung”, nếu
không có hiếu trong gia đình dễ dẫn đến phản loạn, trái

nghòch với bề trên. Từ cuối thời Trần trở đi, đặc biệt
đến thời Lê sơ, khi Nho giáo phát triển mạnh mẽ và tạo
ra những ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, các nho só
bắt đầu đề cao những nguyên tắc đạo đức của Nho
giáo như là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phong
kiến trò bình, coi tam cương ngũ thường “là luân lý lớn
của loài người”1, “là đạo thường của muôn đời, không
thể ngày một rối loạn”2.
Thời Lê sơ, quan niệm về đạo trung của bề tôi được
khái quát ngắn gọn trong lời nói của Lê Thánh Tông:
“Đạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới
thì yêu dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải
hết lòng thành, thế thôi”3. Cùng với đạo trung, chữ
hiếu được đề cao. Nguyễn Trãi bày tỏ: “Bui có một lòng
trung lẫn hiếu, mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng thâm”4.
Còn về đạo vợ chồng, Ngô Só Liên cho rằng: “Đạo vợ
chồng là đầu của nhân luân, dây mối của vương hóa”5.
Trong bối cảnh loạn lạc của xã hội cuối thế kỷ XVI đến
thế kỷ XVIII, những giá trò đạo đức, kỷ cương trật tự của
xã hội rơi vào khủng hoảng trầm trọng, quan niệm đạo
đức - luân lý cũng không còn hoàn toàn theo chuẩn
mực của Nho giáo, và còn chòu ảnh hưởng một số tư
tưởng của Phật giáo, Lão giáo. Theo Nguyễn Bỉnh
Khiêm: “trung nghóa là đứng giữa, không chênh lệch,
giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được
điều thiện thì không phải là trung vậy;... Như trung với
vua, hiếu với cha mẹ, thuận với anh em, hòa giữa vợ
chồng, tín giữa bạn bè, đó là trung vậy. Trung ở chỗ
nào tức là điều chí thiện ở chỗ ấy” 6. Vào nửa thế kỷ
XVIII, cuộc khởi nghóa nông dân bùng lên, tiến hành

cuộc lật đổ tập đoàn Lê - Trònh khiến nhiều triều thần
Lê - Trònh hốt hoảng, khư khư giữ lấy quan niệm ngu trung
của Nho giáo. Tuy nhiên, nhiều nhà nho tiến bộ bấy
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.16.
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.221.
3
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 2, tr.310.
4
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn
tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.419.
5
Viện khoa học xã hội Việt Nam (1998), Sđd, tập 1, tr.222.
6
Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1979), Văn học Việt Nam thế
kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp,
Hà Nội, tr.140.
1
2


18

giờ mà tiêu biểu là Ngô Thì Nhậm, đã quan niệm
rằng, đạo đức Nho giáo mà đứng đầu là đạo trung
phải được thực hành một cách sáng suốt và hợp lý,
bởi lẽ: “nghóa làm bầy tôi, có trường hợp đáng chết,
có trường hợp không đáng chết, có cái chết phải
nghóa, có cái chết không phải nghóa” 1. Theo ông, chỉ
cần vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc thì đó chính
là trung và cũng chính là nghóa.

Thế kỷ XIX, sau khi thiết lập bộ máy trung ương tập
quyền thống nhất trên cả nước, các vua Nguyễn đã tìm
cách chấn chỉnh kỷ cương phép nước, coi đạo đức Nho
giáo là giường cột cho nền đạo đức chính thống và cho
chế độ cai trò của mình. Các nhà nho bấy giờ cũng đề
cao chữ trung và đưa ra những quan niệm về hiếu, nghóa,
trí, tín,... coi đó là những phẩm chất cao đẹp cần phải có
của con người. Nguyễn Đình Chiểu quan niệm: “Làm
người trung nghóa đáng bia soi. Đứng giữa càn khôn
tiếng chẳng mòn. Tinh thần hai chữ pha sương tuyết. Khí
phách ngàn thu rực rỡ núi non”2.
Kết luận chương 2
Với mục đích đồng hóa và nô dòch nhân dân ta, các
triều đại phương Bắc đã truyền bá Nho giáo vào Việt
Nam bằng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau. Tuy
nhiên, trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, người Việt tiếp
nhận hết sức thụ động và mang tính phản kháng, Nho
giáo chưa đi sâu vào đời sống tư tưởng, sinh hoạt của
quần chúng. Với những yêu cầu mới của thực tiễn, Nho
giáo từ sau thời Bắc thuộc, đặc biệt là từ thời Lý Trần đã được chủ động tiếp thu như một công cụ tư
tưởng bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, tổ chức
bộ máy chính quyền và quản lý đất nước. Bằng con
đường giáo dục khoa cử tuyển lựa nhân tài, Nho giáo đã
từng bước giành được vò trí quan trọng trong đời sống
chính trò - xã hội. Thông qua quan niệm về trời đất, con
người, về các vấn đề chính trò - xã hội, đạo đức nhân
sinh của những người chòu ảnh hưởng của Nho giáo có
thể thấy ở đó, sự tiếp thu Nho giáo mang đậm tinh thần
dân tộc, gắn với thực tiễn, lại vừa thể hiện được khí
phách, bản lónh của người Việt. Từ thế kỷ XV cho đến

thế kỷ XIX, Nho giáo được xem là hệ tư tưởng chính thống
Mai Quốc Liên (Chủ biên và khảo luận) (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm,
tập 4, Nxb. Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, tr.179.
2
Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội,
tr.363.
1


19

của nhà nước phong kiến. Hệ thống giáo dục thi cử
phát triển tạo ra nhiều nhà tư tưởng lớn với tài năng
xuất sắc trên nhiều lónh vực khác nhau. Trong thế giới
quan, nhân sinh quan và các quan điểm về chính trò - xã
hội, các nhà tư tưởng nhìn chung chòu ảnh hưởng mạnh
mẽ của Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Tống - Minh nhưng
bên cạnh đó họ cũng tiếp thu và chòu ảnh hưởng của
Phật giáo, Đạo giáo đồng thời gắn các quan điểm này
với tình hình thực tiễn của xã hội, đất nước, thể hiện
tinh thần độc lập dân tộc, tự chủ, tinh thần nhân đạo
yêu nước, thương dân.
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH
NHO GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM

3.1.1. Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du
nhập Việt Nam

Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập Việt
Nam thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, Nho giáo được truyền
bá và tiếp nhận ở Việt Nam không hoàn toàn đi theo
quy luật giao lưu văn hóa thông thường mà trước hết
là do sự áp đặt của các thế lực xâm lược phương Bắc
với âm mưu đồng hóa về văn hóa, tư tưởng đối với
nhân dân ta. Thứ hai, sự truyền bá và tiếp nhận Nho
giáo vào Việt Nam diễn ra liên tục, ở nhiều thời điểm,
với mục đích, nội dung và tính chất khác nhau.
Ở giai đoạn đầu tiên của quá trình du nhập, với âm
mưu bành trướng lãnh thổ, đồng hóa nhân dân Việt
Nam, Nho giáo truyền vào Việt Nam buổi đầu phải là
Hán Nho. Tuy nhiên, nếu sự truyền bá Nho giáo diễn ra
mạnh mẽ, chủ động và chủ yếu là áp đặt thì sự tiếp
nhận diễn ra chậm chạp, thụ động và bò ép buộc. Lúc
này, nhân dân ta chủ yếu học hỏi, tiếp thu kó thuật canh
tác nông nghiệp, văn hóa phong tục tập quán từ người
Trung Quốc như về phục trang, hôn thú, lễ nghi,.. chứ
không phải tiếp nhận những quan điểm hệ thống về
chính trò, đạo đức, bản thể của Nho giáo như ở các giai
đoạn sau. Đồng thời, người Việt lại lựa chọn tiếp nhận
Phật giáo và Đạo giáo như là cách thức để chống lại
sự áp đặt và đồng hóa văn hóa của thế lực xâm lược.
Sau thời Bắc thuộc, trước yêu cầu đặt ra về việc xây
dựng và phát triển nhà nước Đại Việt, giai cấp phong


20

kiến bản đòa với sứ mệnh xây dựng một quốc gia phong

kiến độc lập tự chủ giàu mạnh đã chủ động tiếp thu
Nho giáo thông qua giao lưu kinh tế, văn hóa, ngoại giao
với Trung Hoa. Sự tiếp nhận Nho giáo lúc này đạt được
những kết quả nhất đònh về phát triển văn hóa, giáo
dục và sự hình thành đội ngũ nho học. Những quan niệm
về vũ trụ vạn vật, trời đất, con người, về những vấn
đề chính trò - xã hội, đạo đức, nhân sinh của Hán Nho và
Tống Nho đã có những tác động nhất đònh vào đội ngũ
những người học Nho. Tuy nhiên, do bối cảnh đất nước ở
giai đoạn mới giành tự chủ còn chưa ổn đònh, yếu tố
truyền bá diễn ra chưa thật mạnh mẽ, sâu sắc và sự
tiếp nhận Nho giáo cũng chưa diễn ra trên bình diện
rộng. Từ thế kỷ XV, quá trình du nhập Nho giáo mới diễn
ra thật sự mạnh mẽ, Nho giáo đã thay thế vò trí của Phật
giáo để đóng vai trò là trung tâm của tam giáo, trở
thành nền tảng của mọi thiết chế chính trò, xã hội, ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi hoạt động văn hóa của nước
nhà. Nho giáo được tiếp thu lúc này đã mang tính hệ
thống hơn, về mặt học thuật và lý luận cũng được chú
ý nhiều hơn. Các nhà nho Việt Nam từ thời Lê - Nguyễn
cho đến đầu thế kỷ XX chỉ lấy các sách của Khổng,
Mạnh, Trình, Chu làm kinh điển. Họ mong muốn tìm thấy ở
Nho giáo những quan điểm, tư tưởng hữu ích cho việc xây
dựng một quốc gia thái bình, một vương triều thống nhất,
một xã hội ổn đònh. Mặc dù cuối thế kỷ XVII đầu thế
kỷ XVIII, phong trào Thực học của nhà Thanh đã có ảnh
hưởng đến tầng lớp học Nho Việt Nam, tuy vậy, Tống Nho
vẫn là học thuyết được truyền bá và có ảnh hưởng
sâu sắc nhất ở Việt Nam, hơn nữa càng về sau với sự
độc tôn Nho giáo ngày một cực đoan đã khiến cho sự

tiếp thu Tống Nho ngày càng phiến diện, khuôn sáo,
cộng với chế độ khoa cử hư danh khiến cho phong trào
học thuật suy thoái.
3.1.2. Tính dung hợp trong quá trình Nho giáo du
nhập Việt Nam
Thuật ngữ “dung hợp” bắt nguồn từ chữ Synkretimos
trong tiếng Hy Lạp cổ, nghóa là sự liên kết, kết hợp, pha
trộn, vay mượn các bộ phận, yếu tố trong các hệ
thống khác nhau1. Theo Hoàng Phê, trong Từ điển tiếng
Việt, dung hợp là trạng thái hòa vào nhau để tạo thành
Trương Văn Chung - Doãn Chính (Đồng chủ biên) (2008), Tư tưởng Việt Nam
thời Lý - Trần, Nxb. Chính trò quốc gia, Hà Nội, tr.277.
1


21

một thể thống nhất2. Trong quá trình Nho giáo du nhập
Việt Nam, tính chất đó được thể hiện rõ ràng nhất ở
sự dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo
trên cơ sở văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam.
Tam giáo du nhập và tồn tại đồng hành ở Việt Nam
không phải với tư cách từng học thuyết, từng yếu tố
văn hóa, tôn giáo đơn lập, tách biệt mà giữa chúng
có nhiều mặt thâm nhập vào nhau, hòa quyện vào
nhau, chi phối như một tổng lực đối với tâm thức người
Việt. Sự dung hợp này xuất phát chủ yếu từ tính hài
hòa và dung hợp của văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở
một nền văn hóa bản đòa vững chắc mà ý thức hệ
cốt lõi trước hết là tinh thần yêu nước, ý chí độc

lập, tự chủ, người Việt đã tiếp nhận, dung hợp và
biến đổi các học thuyết Nho, Phật, Đạo một cách linh
hoạt. Tính dung hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo
giáo trong quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam biểu
hiện cụ thể ở các phương diện: chính trò - xã hội; tư
tưởng, đạo đức; văn hóa dân gian.
Trước hết, trong lónh vực chính trò - xã hội, sự dung
hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo được
biểu hiện ở sự phân công hợp tác và bổ trợ cho nhau
giữa Nho, Phật, Đạo nhằm phục vụ cho mục đích cai trò
đất nước, quản lý xã hội của nhà nước phong kiến
Việt Nam. Dưới chế độ phong kiến Việt Nam, Nho, Phật,
Đạo đều có vò trí, vai trò nhất đònh trong đời sống chính
trò - xã hội. Với tư tưởng tôn quân quyền, đường lối tu
tề, trò, bình, nguyên tắc chính danh đònh phận, tư tưởng
thiên mệnh trung hiếu... Nho giáo đã dần dần trở
thành hệ tư tưởng cần thiết, hữu ích và thiết thực đối
với giai cấp phong kiến trong việc đònh hướng triển khai
đường lối cai trò, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội và lợi
ích cũng như đòa vò thống trò của họ. Còn đối với Đạo
giáo và Phật giáo, giai cấp phong kiến Việt Nam khai
thác các yếu tố “tôn giáo”, “an thần”, để ổn đònh
nhân tâm, dẫn dắt và thu phục lòng người, giải tỏa
những nhu cầu về mặt nhận thức. tâm linh tinh thần
nói chung của con người. Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo
được tiếp nhận và sử dụng nhằm hỗ trợ, bổ sung cho
nhau cùng đáp ứng những nhiệm vụ của thực tiễn đất
nước, của đời sống xã hội trong lòch sử.
2


Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr.266.


22

Thứ hai, trong lónh vực tư tưởng, đạo đức, sự dung hợp
Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo được biểu hiện rõ
nét ở sự xâm nhập, hòa quyện vào nhau trong quan
niệm về vũ trụ, vạn vật, con người, về chính trò - xã
hội đặc biệt là trong triết lý đạo đức nhân sinh của
người Việt Nam. Theo Trần Thái Tông, các vò sáng lập
ra Nho, Phật, Lão vốn là những ngøi bạn đồng hành:
“Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo, Giác ngộ rồi
thấu hiểu một chữ tâm”1. Chính vì vậy, các nhà nho
một mặt đề cao lý tưởng Nho giáo, phấn đấu theo tiêu
chuẩn đạo đức Nho gia, nhưng mặt khác, họ cũng am
hiểu và tin theo Phật, Đạo, nhất là khi đứng trước
những thay đổi của cuộc đời, những biến động xã
hội. Sự tồn tại của Phật giáo, Đạo giáo ở Việt Nam
bên cạnh Nho giáo được xem như một “duyên nợ”, nó
giúp cho các nhà nho “vừa hóa giải được cách nhìn
cứng nhắc của hệ tư tưởng Nho giáo trong họ, vừa có
tác dụng nâng đỡ tâm hồn họ, giúp cho tình cảm của
họ trở nên thanh thản và cũng thêm uyển chuyển
mềm mại, qua một thoáng trầm mặc siêu hình. Và sau
những giờ phút phải đặt mình vào cái khuôn “nhất
nguyên” Nho giáo, lý trí nặng như đá đeo vì những
chuẩn mực trung, hiếu, tiết, nghóa khô cứng, bao giờ
nhà Nho cũng bằng cách này hay cách khác tìm sự
thăng bằng trở lại cho tâm hồn họ trong các biện

pháp “phóng niệm”, “buông xả” của Phật giáo và
Đạo; nó là một phương thức tiếp nhận “đa nguyên”
đầy ý nghóa, một chuyển động ngầm nhưng hầu như
khó cưỡng”2.
Thứ ba, trong lónh vực văn hóa dân gian, sự dung hợp
Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo biểu hiện ở sự thâm
nhập của tam giáo trong văn học dân gian hay trong tín
ngưỡng của người Việt. Trong bộ phận văn học dân
gian Việt Nam, chúng ta thường xuyên bắt gặp những
câu dân ca, ca dao, tục ngữ đề cập đến các tiêu
chuẩn đạo đức của Nho giáo, Phật giáo, hay Đạo giáo.
Các câu chuyện cổ tích, thần thoại Việt Nam, các vò
thánh thần, tiên, Phật luôn luôn có mặt để nhắc
nhở con người tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ,
đồng thời các câu chuyện cũng giáo dục con người về
1

Viện văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.65.
2
Nguyễn Huệ Chi (1998), “Về hiện tượng dung hợp trong văn hóa Việt nam”,
Xưa và Nay, số 57B, tháng 11-1998.


23

đạo hiếu, sự trung trinh, tình nghóa vợ chồng, tình cảm anh
em, bè bạn... Bên cạnh đó, sự dung hợp Nho giáo với
Phật giáo, Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống
được thể hiện trong các tín ngưỡng dân gian của người

Việt như tín ngưỡng thờ trời, tín ngưỡng thờ cúng âm
hồn, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên....
Tóm lại, xuất phát từ nhờ truyền thống cởi mở,
khoan dung của người Việt, Nho giáo trong quá trình du
nhập Việt Nam từ đầu Công nguyên đến thế kỷ XIX
đã đồng hành và kết hợp với Phật giáo, Đạo giáo tạo
thành hiện tượng dung hợp tam giáo ở nước ta. Trên
nền tảng đó, các dòng tư tưởng, tôn giáo này khi vào
nước ta đã có nhiều biến đổi để thích ứng với thực
tiễn xã hội và đời sống tư tưởng của dân tộc ta.
Đồng thời, tồn tại bên cạnh nhau, chúng không chỉ
ảnh hưởng lẫn nhau mà hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, vừa
phục vụ cho nhu cầu của giai cấp thống trò, đồng thời
đáp ứng được những nhu cầu của đời sống tinh thần
của con người.
3.1.3. Tính Việt hóa trong quá trình Nho giáo Việt
Nam
Nho giáo được truyền vào nước ta đã trải qua một
quá trình bản đòa hóa, được tiếp thu, hấp thụ, được cải
tạo trên cơ sở truyền thống và hệ giá trò của người
Việt trong đó, tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự
chủ, tính gắn kết cộng đồng, lối sống trọng tình
nghóa,... là những yếu tố cơ bản.Quá trình du nhập của
Nho giáo vào Việt Nam đã cho thấy quy luật về sự tác
động qua lại giữa yếu tố yếu tố nội sinh và yếu tố
ngoại sinh. Trong đó, những yếu tố ngoại sinh phải trải
qua quá trình: lúc đầu bò phản ứng quyết liệt, sau đó
là cộng sinh và cuối cùng là hòa nhập; người Việt
cũng tiếp nhận yếu tố ngoại sinh đó và biến đổi nó
theo trật tự: lúc đầu là tiếp thu, tiếp đó là hệ thống

hóa và cuối cùng là Việt hóa nó, tức là được người
Việt biến thành cái của mình. Trong mối quan hệ với
yếu tố ngoại sinh, những yếu tố nội sinh đã được biến
đổi theo ba bước là: tháo rời cấu trúc cũ, sau đó sắp
xếp lại (tái cấu trúc) và cuối cùng được hiện đại
hóa1. Tính chất Việt hóa của Nho giáo trong quá trình du
nhập Việt Nam được thể hiện ở ba điểm cơ bản:
Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội, tr.220.
1


24

Thứ nhất, người Việt đã thông diễn lại tư tưởng Nho
gia bằng tiếng Việt để làm rõ các vấn đề nghóa lý
trong kinh điển như là sự bản đòa hóa các yếu tố học
thuật Trung Quốc; Việc thông diễn lại kinh điển Nho gia
bằng việc phiên dòch, diễn dòch, chú giải, chú sớ... trong
tiếng Việt là con đường làm cho tư tưởng Nho gia phù hợp
với tư duy người Việt, nhu cầu tư duy tư tưởng, triết học
bằng tiếng Việt. Những hoạt động của các nhà nho như
truyện, chú, tiên sớ, luận, khảo, giải nghóa, diển nghóa,
huấn hỗ, khảo chứng, diễn ca, quốc âm ca, ước giải,
lược giải, giải âm,... đều nhằm mục tiêu đó.
Thứ hai, người Việt không tiếp nhận toàn bộ nội
dung Nho giáo Trung Quốc mà chỉ tiếp nhận những gì
gần gũi, phù hợp. Trong sự tiếp thu này, người Việt
“không bàn nhiều về lý luận phức tạp, mà chú trọng
vào củng cố nhân luân hiếu đễ, củng cố nền kinh tế

nông nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình - họ tộc
- xóm làng, củng cố việc học hành khoa cử” 1. Họ đã
“tinh giảm Nho giáo thành một loại hình ý thức hệ đặc
thù, tách khỏi các dòng chủ lưu của Nho học Trung
Quốc bằng cách chỉ lấy một vài phần có giá trò thực
dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại xâm hoặc
gắn kết cho quyền lực của kẻ thống trò. Người Việt
chỉ nhặt nhạnh những gì hữu ích nhất cho các mục đích
thực dụng và không đụng đến phần còn lại” 2.
Thứ ba, khi tiếp nhận các khái niệm của Nho giáo,
người Việt đã biến đổi nó, tái cấu trúc và sắp xếp
lại thang bậc các giá trò. Khi vào Việt Nam, “các khái
niệm phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo đã được
tái cấu trúc thành hệ thống mới chứ không còn là
những yếu tố của hệ thống cũ”3. Do đó, nếu như ở
Trung Quốc, các phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo
như trung, hiếu, nhân và các tiêu chuẩn khắt khe đối
với con người trong các mối quan hệ xã hội chủ yếu
hướng đến việc củng cố quyền uy tuyệt đối của quân
quyền, phụ quyền, nhấn mạnh sự phục tùng tuyệt đối
của kẻ dưới đối với bề trên thì khi du nhập Việt Nam,
chúng được thêm nội dung yêu nước và nội dung này
Phan Đại Doãn (1997), “Mấy vấn đề Nho học - Nho giáo ở miền Bắc Việt
Nam từ nửa sau thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX”, Triết học, số 2, tháng 4 1997, tr.10.
2
Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Một số đặc điểm của Nho Việt”, Nghiên cứu
tôn giáo, số 1, tr.36-37.
3
Doãn Chính - Nguyễn Sinh Kế, “Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam
(từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX)”, Triết học, số 9, tháng 9 - 2004, tr.38.

1


25

mới là nền tảng cho những quan niệm đó được thực
hiện. Những chuẩn mực đạo đức, tam cương ngũ thường
đã không dễ dàng thay đổi được lối sống của người
Việt mà còn hòa vào thiết chế cộng đồng làng xã,
chòu sự tái tạo của hệ giá trò người Việt Nam trong suốt
các thời kỳ lòch sử khác nhau. Trong quá trình người Việt
tiếp nhận và vận dụng Nho giáo như một học thuyết
chính trò để xây dựng và bảo vệ đất nước, Nho giáo
được biến đổi, bổ sung và dung hợp những yếu tố mới
của văn hóa, truyền thống bản đòa tạo thành Nho giáo
của người Việt mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là Việt
Nho.
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA QUÁ TRÌNH NHO
GIÁO DU NHẬP VIỆT NAM
3.2.1. Ý nghóa về phương diện văn hóa
Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam trong
lòch sử đã đóng góp nhất đònh vào tiến trình giao lưu,
tiếp nhận và tác động văn hóa giữa Việt Nam và
Trung Hoa. Trong quá trình đó, Nho giáo đã từng bước
hòa quyện vào truyền thống văn hóa vốn có của
dân tộc, bổ sung và làm cho diện mạo văn hóa Việt
Nam có thêm những sắc thái mới.
Về mặt văn hóa nói chung, một quốc gia chỉ có
thể phát triển nhờ kế thừa các nền văn hóa trước
đó và giao lưu với các nền văn hóa đồng đại. Trong

trường hợp tự nguyện tiếp thu văn hóa bên ngoài thì sự
vay mượn mang tính chủ động, có tổ chức, khi đó, tộc
người chủ thể chỉ chọn lọc lấy những giá trò thích hợp
cho tộc người mình hoặc là dường như tiếp nhận cả hệ
thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm giá trò
của chính họ, đồng thời mô phỏng và biến thể một số
thành tựu của văn hóa tộc người khác bởi tộc người
chủ thể1.
Trước khi Nho giáo du nhập Việt Nam, người Việt đã
có một lòch sử dựng nước sớm, một nền văn hóa
bản đòa lâu đời. Khi Nho giáo du nhập Việt Nam, trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau, nó đã có tác động và
làm thay đổi diện mạo văn hóa Việt Nam, từ chữ viết
cho đến phong tục tập quán, cũng như các sáng tác
văn học nghệ thuật người Việt. Sự du nhập này, một
mặt góp phần làm phong phú thêm đời sống văn
1

Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, tr.52.


×