Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

ĐỀ TÀI Công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ việc làm cho lao động nữ người dân tộc thiểu số tại xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.48 KB, 77 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi; các số liệu, kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của
đơn vị tôi nghiên cứu./.
Tác giả khóa luận
Bàn Thị Đông

1


LỜI CẢM ƠN
Để khóa luận đạt kết quả như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo trong khoa Công tác xã hội, các thầy cô giáo bộ môn đã giảng
dạy suốt 4 năm học trên giảng đường. Đặc biệt, trong thời gian làm khóa luận
này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo, T.s Nguyễn Thị
Hương đã dành nhiều thời gian, tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho em từ khi
bắt đầu cho đến khi hoàn thành bài khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cấp chính quyền, đoàn
thể và nhân dân xã An Thịnh – huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã nhiệt tình giúp
đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận.
Dù đã nỗ lực cố gắng và say mê tìm hiểu nghiên cứu nhưng do thời
gian cũng như kiến thức, kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp và sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Yên Bái, tháng 6 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Bàn Thị Đông

2



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
1

CTXH

Công tác xã hội

2

DTTS

Dân tộc thiểu số

3

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế

4

IFSW

Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội quốc tế

5


KT – VHXH

Kinh tế - Văn hóa xã hội

6

LĐ – TB &XH

Lao động – Thương binh & Xã hội

7

NASW

Hiệp hội Quốc gia Nhân viên công tác xã hội

8

NN & PTNT

Nông nghiệp & Phát triển nông thôn

9

UBMTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

10


UBND – HĐND

Ủy ban nhân dân – Hội đồng nhân dân

Từ viết tắt

Ý nghĩa

3


DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Bảng

Trang

1

Bảng 1. Mẫu nghiên cứu

13

2

Bảng 2. Cơ cấu lao động nữ dân tộc thiểu số phân theo độ tuổi

34


3

Bảng 3. Mức thu nhập và tình trạng thu nhập của lao động nữ
dân tộc thiểu số trên địa bàn xã An Thịnh
Bảng 4. Tình trạng việc làm của lao động nữ dân tộc thiểu số
trên địa bàn xã An Thịnh
Bảng 5. Bảng mẫu nghiên cứu chính quyền địa phương

38

Bảng 6. Khảo sát về sự quản lý tình hình đời sống, KT - VHXH
của cán bộ, lãnh đạo chính quyền xã với bộ phận dân cư là
người DTTS
Bảng 7. Đánh giá chung về đời sống KT - VHXH của cán bộ,
lãnh đạo với bộ phận dân cư là người dân tộc thiểu số trên địa
bàn xã
Bảng 8. Hình thức tổ chức hoạt động hỗ trợ việc làm phổ biến
cho lao động nữ dân tộc thiểu số của xã An Thịnh
Bảng 9. Mức độ hiểu biết về những chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với bản thân lao động nữ dân tộc thiểu số

41

4
5
6
7
8
9


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ

4

39
40

42
43
46


STT

Hình, biểu đồ

Trang

1

Hình 1. Bản đồ địa lý xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên
Bái
Biểu đồ 1. Các ngành nghề hoạt động chủ yếu của lao động nữ
DTTS trên địa bàn xã An Thịnh

29

3


Biểu đồ 2. Trình độ văn hóa lao động nữ người dân tộc thiểu số
trên địa bàn xã An Thịnh

36

4

Biểu đồ 3. Trình độ học vấn của cán bộ, lãnh đạo chính quyền
xã An Thịnh

40

5

Biểu đồ 4. Nguyên nhân phổ biến dẫn đến hoạt động công tác
hỗ trợ việc làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số gặp khó khăn
và chưa đạt yêu cầu

45

6

Biểu đồ 5. Tỷ lệ đánh giá của lao động nữ dân tộc thiểu số với
các hoạt động hỗ trợ việc làm của chính quyền xã trong những
năm qua

49

7


Biểu đồ 6: Nguồn cung cấp thông tin về chính sách hỗ trợ việc
làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số

50

8

Biểu đồ 7. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thu nhập thấp của
lao động nữ DTTS trên địa bàn xã An Thịnh

54

9

Biểu 8. Nhu cầu trong hoạt động hỗ trợ việc làm của lao động
nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn xã An Thịnh

55

10

Biểu 9. Đánh giá mức độ vai trò của công tác xã hội trong các
lĩnh vực trong cuộc sống của cán bộ, lãnh đạo xã An Thịnh

60

2

MỤC LỤC
5


35


A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam có 54 thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó dân tộc Việt
(Kinh) chiếm 80% tổng số dân cả nước, hơn 10% còn lại là dân số của 53 dân
tộc. Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau,
mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói chung, chữ viết và bản sắc văn hóa riêng.
Bản sắc văn hóa của các dân tộc thể hiện rõ nét trong các sinh hoạt cộng
đồng và trong các hoạt động kinh tế. Từ việc ăn, mặc, ở, quan hệ xã hội, các
phong tục tập quán trong cưới xin, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ, vui chơi
của mỗi dân tộc đều mang những nét riêng biệt. Song bên cạnh đó, cuộc sống
của đại bộ phận người dân tộc thiểu số nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Do trình độ văn hóa, hiểu biết về những tiến bộ khoa học, kinh tế xã hội còn
hạn chế.
Hơn nữa, từ xưa đến nay, vẫn luôn xảy ra tình trạng bất bình đẳng giới
trong xã hội. Người phụ nữ luôn phải chịu thiệt thòi trong việc phân biệt và
đối xử. Nhất là phụ nữ người dân tộc thiểu số, do phong tục tập quán còn lạc
6


hậu, quan niệm cổ hủ nên vốn dĩ họ đã phải chịu nhiều thiệt thòi, không được
đi học, trình độ văn hóa không có, thậm chí còn mù chữ.
Trong những năm gần đây, công tác đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm nói
chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng được Đảng và Nhà
nước rất quan tâm. Nhiều chính sách về đào tạo nghề và giải quyết việc làm
được ban hành và triển khai thực hiện như: Chính sách dạy nghề cho thanh
niên dân tộc thiểu số, chính sách dạy nghề cho người nghèo, dạy nghề cho phụ

nữ, cho người tàn tật, dạy nghề cho lao động thuộc các hộ bị thu hồi đất canh
tác từ 50% trở lên, chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để giải quyết
việc làm,…Song công tác đảm bảo thực hiện những chính sách đó còn tồn tại
nhiều yếu kém ở một số địa phương trong nước, vẫn có một bộ phận không
nhỏ đồng bào thiểu số không hề biết có một chính sách hỗ trợ dạy nghề cho
mình.
Bản thân sinh viên cũng là người dân tộc thiểu số, dân tộc Dao trắng,
sinh ra và lớn lên trên vùng miền núi cao, được theo học ngành Công tác xã
hội hệ đại học chính quy là một niềm vinh hạnh lớn lao, một phần sinh viên
cũng trực tiếp cảm nhận thấy cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn
của bộ phận người dân tộc thiểu số tại quê hương:
Thứ nhất, xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái là một xã có nhiều
thành phần dân tộc cùng chung sống như Kinh, Tày, Dao, Cao Lan. Dân số
đông đứng thứ 2 trên địa bàn toàn huyện, đời sống kinh tế xã hội của nhân dân
khá cao. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn đại bộ phận dân cư là người dân tộc
thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội.
Vẫn còn lạc hậu và cổ hủ với những phong tục tập quán. Việc làm chưa ổn
định, hoạt động 98% trong ngành nông nghiệp. Phụ nữ dân tộc thiểu số trong
độ tuổi lao động trên địa bàn xã hầu như đều nghỉ học sớm, kết hôn sớm, họ
không được tiếp xúc với những tiến bộ văn hóa, xã hội, khoa học.
Thứ hai, tổ chức đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho lao động nông thôn
nói chung và lao động phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng theo Đề án 1956 của
7


xã An Thịnh đã được triển khai thực hiện trong những năm qua, cũng đã đạt
được một số kết quả tích cực. Nhưng đó là lực lượng lao động nông thôn nói
chung, còn số lao động phụ nữ dân tộc thiểu số nói riêng vẫn hoàn toàn chưa
được biết và tiếp xúc với những chính sách dạy nghề và hỗ trợ việc làm.
Trên đây chỉ là một số trong rất nhiều lý do thôi thúc sinh viên nghiên

cứu lựa chọn đề tài “Công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ việc làm cho lao
động nữ người dân tộc thiểu số tại xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên
Bái” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Qua bài viết, người nghiên cứu
ngoài mong muốn nâng cao năng lực trong nghiên cứu khoa học, người viết
còn đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao vai trò công tác xã hội trong hoạt
động hỗ trợ việc làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số, góp phần cải thiện đời
sống người dân tộc thiểu số, bình đẳng giới, xóa đói giảm nghèo, vì một mục
tiêu phấn đấu xây dựng toàn diện về nền kinh tế - văn hóa – xã hội trên địa
bàn xã trong những năm tới, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
2. Tổng quan đề tài khóa luận
Hòa cùng xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, với tư cách là thành
viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC và với chính sách
mở rộng quan hệ song phương với các nước trên thế giới, Việt Nam đang dần
được khẳng định và biết đến trên trường quốc tế, đang tạo ra sự hấp dẫn và lôi
cuốn mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Đó là những điều kiện thuận lợi tạo
nhiều cơ hội mới cho người lao động nói chung và lao động dân tộc thiểu số
(DTTS) nói riêng, đặc biệt là lao động nữ DTTS. Việc làm có vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn
bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có
mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động
của cá nhân và xã hội. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã
hội, đòi hỏi nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được
nhu cầu này. Theo Tổng Cục thống kê, năm 2016 cả nước có 51,4 triệu người
từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chiếm 58,5% tổng dân số, bao
8


gồm 50,35 triệu người có việc làm và 1,05 triệu người thất nghiệp, trong đó
khu vực thành thị chiếm 49,8% và số nữ chiếm 57,7% tổng số thất nghiệp . Ở

nước ta, đồng bào DTTS là nữ với gần 8,3 triệu người chiếm khoảng 10,17%
dân số cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, duyên hải miền
Trung, Tây Nguyên và đồng bào Sông Cửu Long, đại đa số sống ở nông thôn,
nơi mà điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng yếu kém, chất lượng
giáo dục và nguồn nhân lực vùng thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn,... Trong
bối cảnh hiện nay, lao động nữ người dân tộc thiểu số tiếp tục được Đảng, Nhà
nước dành nhiều sự quan tâm với nhiều chủ trương, đường lối, chính sách
quan trọng về giáo dục, việc làm và bình đẳng giới. Đáng chú ý là Chương
trình 135, Nghị định 41/2010/NĐ-CP, Quyết định 1956/QĐ-TTg, Nghị quyết
30a... Tuy nhiên, việc đào tạo nghề, hỗ trợ lao động nữ DTTs khó khăn, xuất
phát từ nhiều lý do như lao động nữ DTTS có trình độ văn hóa thấp, tập quán
lạc hậu, khó làm quen với tác phong công nghiệp, khó khăn trong tiếp cận,
tiếp thu những kiến thức mới, thườn không mặn mà với việc học nghề, dẫn
đến vẫn còn một bộ phận lớn đồng bào DTTS khu vực miền núi phải sống
cuộc sống khó khăn, thiếu thốn ngay cả những nhu cầu thiết yếu nhất. Thực
trạng này đang là một rào cản lớn đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, nâng
cao dân trí, phát triển giáo dục tại các khu vực có đông đồng bào DTTS sinh
sống.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về thực trạng hỗ trợ việc làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số
tại xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
Phân tích đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong hỗ trợ việc làm
cho lao động phụ nữ dân tộc thiểu số tại xã An Thịnh, từ đó đưa ra những kiến
nghị về đẩy mạnh vai trò của công tác xã hội trong việc thúc đẩy hoạt động hỗ
trợ việc làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn xã An Thịnh, huyện
Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
4. Đối tượng nghiên cứu
9



Công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ việc làm cho lao động nữ người
dân tộc thiểu số tại xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
5. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài này bao gồm:
- Phụ nữ dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động: 110 người
- Đại diện chính quyền địa phương (bao gồm: Hội phụ nữ; Trưởng thôn;
Đoàn thanh niên, Cán bộ Lao động – Thương binh & Xã hội;…) 25 người
- Thành phần người dân khác (dân tộc Kinh) 05 người
6. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng hoạt động hỗ trợ việc làm
cho lao động nữ người dân tộc thiểu số.
- Thời gian khảo sát nghiên cứu: Từ tháng 1 – tháng 5 năm 2017
- Địa bàn nghiên cứu: Xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được thực hiện ngay sau khi xây
dựng đề cương chi tiết cho đề tài nghiên cứu và được duy trì trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu nhằm bổ sung và làm rõ các thông tin thu thập
được.
Trong đó, các tài liệu nghiên cứu được tiến hành như sau:
+ Tình hình kinh tế - văn hóa xã hội tại xã An Thịnh, huyện Văn
Yên, tỉnh Yên Bái.
+ Các tài liệu liên quan đến lĩnh vực dân tộc thiểu số, lĩnh vực đào
tạo nghề cho lao động, phụ nữ và cuộc sống.
10


+ Các văn bản quy phạm pháp luật về dân tộc thiểu số, quyền của
phụ nữ, giáo dục đào tạo nghề.
+ Các báo cáo về tình hình thực hiện công tác đào tạo nghề cho
lao động hằng năm trên địa bàn xã, huyện.

- Phương pháp điều tra bảng hỏi: Nhằm tìm hiểu về thực trạng hỗ trợ
việc làm cho lao động nữ dân tộc thiểu số thông qua hệ thống câu hỏi liên
quan tới vấn đề nghiên cứu. Trong đó cụ thể là:
+ Phát 100 phiếu hỏi cho lao động nữ dân tộc thiểu số đang ở độ tuổi lao
động của 3 thôn trong xã.
+ Phát 20 phiếu hỏi cho cán bộ, lãnh đạo địa phương.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu với các cán bộ có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu, phỏng vấn cộng đồng dân cư trên địa bàn xã. Từ
đó, tìm hiểu rõ hơn về thực trạng việc làm, những khó khăn gặp phải, những
mong muốn, nguyện vọng của phụ nữ dân tộc thiểu số trong khi tìm kiếm việc
làm, làm việc. Cụ thể là:
+ 10 người phụ nữ dân tộc thiểu số trong độ tuổi lao động.
+ 05 người là cán bộ chính sách, lãnh đạo địa phương.
+ 05 người là thành phần dân cư khác.
- Phương pháp sử dụng phần mềm SPSS: Sau khi thu thập thông tin
bằng phiếu hỏi, người điều tra, khảo sát sẽ tiến hành tổng kết phiếu hỏi và xử
lý các số liệu bằng phần mềm phân tích dữ liệu SPSS để phục vụ cho bài viết.
Bảng 1. Mẫu nghiên cứu (ĐV: Người)
Khách thể nghiên cứu
Lao động nữ DTTS
Cán bộ, chính quyền xã
Thành phần người dân
khác
Tổng

Khảo sát bảng hỏi
Nam
Nữ
Tổng
0

80
80
6
10
16
0
0
0

Phỏng vấn sâu
Nam
Nữ
0
8
2
3
2
3

96

18

8. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm có 3 phần:
- Phần mở đầu
11


- Phần nội dung: Bao gồm 2 chương:

+ Chương 1: Cơ sở lý luận.
+ Chương 2: Thực trạng hoạt động hỗ trợ việc làm cho lao động nữ dân
tộc thiểu số tại xã An Thịnh, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Đánh giá những
thuận lợi và khó khăn.
- Phần kết luận – kiến nghị

B – PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc
cộng đồng tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của
họ và tạo những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. CTXH
tồn tại và hoạt động khi xuất hiện những vấn đề cần giải quyết như tình trạng
nghèo đói, bất bình đẳng giới, và giúp đỡ những thành phần dễ bị tổn thương
như trẻ mồ côi, người tàn tật, trẻ đường phố, trẻ bị lạm dụng…
Dưới đây là một số khái niệm giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về
ngành CTXH ở trên thế giới và Việt Nam:
- Khái niệm 1: Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác
xã hội là hoạt động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để
nhằm nâng cao hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức
12


năng xã hội và tạo ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ
(Zastrow, 1996).
- Khái niệm 2: Theo cố Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh (trích từ tài liệu hội
thảo 2004): Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp cá nhân và cộng đồng tự
giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ thiện mà nhằm phát huy

sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và cộng đồng) để họ tự giải
quyết vấn đề của mình.
- Khái niệm 3: Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội quốc tế (IFSW)
tại Hội nghị Quốc tế Montreal, Canada, vào tháng 7/2000: CTXH chuyên
nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan
hệ con người, sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho
cuộc sống của họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về
hành vi con người và các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở những điểm
tương tác giữa con người và môi trường của họ.
- Khái niệm 4: Theo Đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ: CTXH góp
phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế
phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã
hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc cho người dân và
xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.
Tóm lại, Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp
nhằm trợ giúp các cá nhân,gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng
nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã
hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân,gia đình và cộng
đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh
xã hội.
1.1.2. Vai trò của ngành công tác trên các lĩnh vực xã hội

13


“Với nghề Công tác xã hội, Việt Nam có thể giải quyết hiệu quả vấn đề nghèo
đói, các vấn đề xã hội, công bằng và bất bình đẳng xã hội và những vấn đề
ngày càng phức tạp khác mà Việt Nam đang phải đối mặt”. Đó là lời mà Bộ
trưởng Bộ LĐ-TB&XH Phạm Thị Hải Chuyền phát biểu tại Lễ mít tinh kỷ
niệm Ngày Công tác Xã hội thế giới lần thứ 17 tổ chức sáng 11/11/2016 tại

Hà Nội.

Công tác xã hội có vai trò to lớn trong việc trợ giúp cá nhân, gia đình,
nhóm người cộng đồng và các hệ thống xã hội nhằm đạt được sự thay đổi về
mặt xã hội, giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ với con người và nâng
cao an sinh xã hội.
Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc: Làm việc trực tiếp
với cá nhân; là cầu nối liên kết các hệ thống trong xã hội; làm việc với nhóm
và động đồng; nghiên cứu và phát triển chính sách.
1.1.3. Chức năng của Công tác xã hội
Nghề công tác xã hội thực hiện 4 chức năng:
Chức năng phòng ngừa: Với quan điểm tiếp cận phòng hơn chữa, chức
năng đầu tiên của CTXH là phòng ngừa, ngăn chặn cá nhân, gia đình và cộng
đồng rơi vào tình huống khó khăn chứ không phải để đối tượng rơi vào hoàn
cảnh khó khăn rồi mới giúp đỡ. Chức năng phòng ngừa của CTXH thể thiện
qua các hoạt động giáo dục, phổ biến tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cá
nhân, gia đình và cộng đồng về luật pháp, chính sách xã hội và những vấn đề
xã hội. Đơn cử như hoạt động giáo dục cộng đồng về kiến thức Luật phòng,
chống bạo lực gia đình hay tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội v.v. Thông
qua các hoạt động giáo dục như vậy, CTXH đã giúp ngăn ngừa các vấn đề xã
hội có thể xảy ra với cá nhân, gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó chức năng
phòng ngừa còn thể hiện thông qua các hoạt động xây dựng văn bản, chính

14


sách xã hội góp phần cải thiện và nâng cao đời sống, ngăn chặn gia tăng đối
tượng rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
- Chức năng can thiệp: Chức năng can thiệp (còn được gọi là chức
năng chữa trị hay trị liệu) nhằm trợ giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải

quyết vấn đề khó khăn họ đang phải đối mặt. Với từng vấn đề và với mỗi đối
tượng khác nhau, nhân viên công tác xã hội sẽ có phương pháp can thiệp hỗ
trợ riêng biệt. Ví dụ với những đối tượng có khó khăn về tâm lý, nhân viên
công tác xã hội sẽ cung cấp dịch vụ tham vấn để đối tượng vượt qua khó khăn
về tâm lý. Với những vấn đề cần phức tạp, cần nhiều nguồn lực, nhân viên
công tác xã hội cần tìm kiếm, điều phối và kết nối các dịch vụ, nguồn lực đến
với đối tượng. Quy trình can thiệp của nhân viên công tác xã hội thường bắt
đầu từ việc tiếp cận, đánh giá nhu cầu, xác định vấn đề, khai thác tiềm năng
của đối tượng cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch giải quyết vấn đề, hỗ
trợ đối tượng thực hiện kế hoạch và cuối cùng là đánh giá và kết thúc quá trình
giúp đỡ. Phương pháp chủ đạo của CTXH là giúp cho đối tượng được tăng
năng lực và tự giải quyết vấn đề của họ.
- Chức năng phục hồi: Chức năng phục hồi của CTXH thể hiện ở việc
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng khôi phục lại chức năng tâm lý, xã hội đã
bị suy giảm lấy lại trạng thái cân bằng trong cuộc sống. Thông qua các hoạt
động phục hồi, nhân viên công tác xã hội giúp cho đối tượng trở lại cuộc sống
bình thường, hoà nhập cộng đồng. Ví dụ như giúp người khuyết tật hòa nhập
với cộng đồng hay giúp trẻ lang thang trở về đoàn tụ với gia đình; giúp người
nghiện, người hành nghề mại dâm trở lại cuộc sống bình thường, tái hoà nhập
cộng đồng...
- Chức năng phát triển: CTXH thực hiện chức năng phát triển thông
qua các hoạt động xây dựng luật pháp, các chính sách, chương trình dịch vụ
giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng phát triển khả năng của mình đóng góp
cho sự phát triển của xã hội. Chức năng phát triển còn giúp đối tượng tăng
năng lực và tăng khả năng ứng phó với các tình huống và có nguy cơ cao dẫn
15


đến những vấn đề khó khăn cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. Ví dụ như
xây dựng các luật cho các đối tượng yếu thế hay giải quyết các vấn đề xã hội,

các chương trình quốc gia về giảm nghèo, chăm sóc bảo vệ trẻ em, các dịch vụ
trực tiếp cung cấp kiến thức giúp phát triển cá nhân như kỹ năng sống, kỹ
năng làm cha, mẹ...

1.1.4. Khái niệm liên quan đến việc làm
Nói đến việc làm là nói đến vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội. Để đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống, người lao động
phải thông qua hoạt động sản xuất, chính là người lao động có việc làm
a) Khái niệm việc làm:

Việc làm là hoạt động tạo ra giá trị, của cải vật chất, chỉ thông qua
hoạt động sản xuất, con người mới có điều kiện đảm bảo và nâng cao
chất lượng cuộc sống
Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất
nhiều định nghĩa nhằm làm sáng tỏ: “Việc làm là gì? ”. Và ở các quốc gia khác
nhau, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị, luật
pháp... người ta quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế, không
có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
• Theo bộ luật lao động_ Điều 13: “ Mọi hoạt động tạo ra thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Trên thực tế việc
làm nêu trên được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Một là, làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật
cho công việc đó.

16


+ Hai là, làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có
quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để
tiến hành công việc đó.

+ Ba là, làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được
trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm
sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một
thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. Khái
niệm trên nói chung là khá bao quát nhưng chúng ta cũng thấy rõ hai hạn chế
cơ bản: Hạn chế thứ nhất: hoạt động nội trợ không được coi là việc làm
trong khi đó hoạt động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo
ra lợi ích vật chất không hề nhỏ. Hạn chế thứ hai: khó có thể so sánh tỉ lệ
người có việc làm giữa các quốc gia với nhau vì quan niệm về việc làm giữa
các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào luật pháp, phong tục tập quán,
Có những nghề ở quốc gia này thì được cho phép và được coi đó là việc làm
nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm. Ví dụ: đánh bạc ở Việt Nam bị cấm nhưng
ở Thái Lan, Mỹ đó lại đựơc coi là một nghề thậm chí là rất phát triển vì nó
thu hút khá đông tầng lớp thượng lưu.

b) Khái niệm người lao động:
Người lao động là lực lượng về con người và được nghiên cứu dưới nhiều
khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội,
bao gồm toàn bộ dân số có thể phát triển bình thường cả về thể lực lẫn trí lực
(không bị khiếm khuyết, dị tật bẩm sinh). Bô luật Lao động của nước Việt
Nam ban hành năm 1994 quy định về độ tuổi lao động như sau: Nam từ đủ 15
tuổi đến 60 tuổi; nữ từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi. Tuy nhiên, không phải mọi
người trong độ tuổi lao động đều tham gia hoạt động kinh tế. Việc quy đổi
người trên và dưới độ tuổi lao động thành người lao động như sau: cứ hai
người trên độ tuổi lao động được tính bằng một người lao động, ba người dưới
độ tuổi lao động được tính bằng một người trong độ tuổi lao động.
17


(Nguồn: Điều 3, chương 1, Bộ luật Lao động Việt Nam)

c) Khái niệm hỗ trợ việc làm: Là việc xây dựng, tạo ra những chương
trình liên quan đến lao động nhằm hỗ trợ những công việc phù hợp, đáp ứng
đúng và đủ điều kiện, hoàn cảnh cho những đối tượng yếu thế, những đối
tượng gặp khó khăn cần được hỗ trợ trong cuộc sống, nhằm giúp họ vượt qua
khó khăn, vươn trải và có được sự ổn định trong cuộc sống cả về mặt vật chất
lẫn tinh thần.
d) Khái niệm hỗ trợ vay vốn:
Nhắc đến hỗ trợ vay vốn, chúng ta thường nhắc tới cụm từ Ngân sách
nhà nước.
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế
và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ
"Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở
mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất,
người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các
trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân
sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn
nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã
được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách
Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất
hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản
xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời
của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
18


Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa

phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa
phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân
dân và Ủy ban Nhân dân (Nguồn: Chương 2, Giáo trình lý thuyết tài chính
tiền tệ - GSTS.Dương Thị Bình Minh & TS.Sử Đình Thành chủ biên, nhà xuất
bản Thống kê)
Vậy, hỗ trợ vay vốn trong việc làm là việc sử dụng ngân sách từ trung
ương hoặc ngân sách từ địa phương hỗ trợ trong công tác đào tạo dạy nghề và
tổ chức và tìm kiếm hỗ trợ việc làm cho những đối tượng có đủ điều kiện được
quy định về các đối tượng được vay vốn trong ngân sách nhà nước. Nhằm
giúp tại ra nguồn lực thực hiện các chương trình cũng như góp phần vào việc
sử dụng đúng ý nghĩa của ngân sách Nhà nước, đảm bảo nền an sinh xã hội
vững chắc.
1.1.5. Khái niệm dân tộc thiểu số, phụ nữ và lao động nữ dân tộc
thiểu số
a) Khái niệm dân tộc thiểu số
- Dân tộc: Dân tộc chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân
dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ
chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong
suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước (Nguồn: Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ Giáo dục – Đào tạo, NXB Chính trị
Quốc gia)
Nhà xã hội học Mỹ Louis Wirth năm 1945 đã đưa ra một định nghĩa khá
thông dụng về nhóm người thiểu số như sau: “Có thể gọi là thiểu số mọi nhóm
người, do một số nét đặc thù về ngoại hình hay văn hoá, bị đối xử khác biệt và
không bằng những thành viên khác của xã hội mà họ sinh sống và do đó tự coi
mình là đối tượng của một sự phân biệt tập thể”
19



Như vậy, khái niệm nhóm người thiểu số được dùng để chỉ các nhóm
người có những sự khác biệt về một phương diện nào đó với cộng đồng người
chung trong xã hội. Họ có thể khác biệt với nhóm người đa số về phương diện
ngôn ngữ và văn hoá. Khác biệt về nhận thức và tôn giáo, về hoàn cảnh kinh
tế, điều kiện sống và thu nhập v.v...và đi kèm theo đó là sự khác biệt về
phương thức ứng xử của cộng đồng đối với chính họ.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trải qua bao đời nay,
mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc sắc riêng, được lưu truyền từ đời
này sang đời khác mà không làm mất đi giá trị truyền thống.
Chính vì thế, ở nước ta, khi nói về dân tộc, chúng ta thường sử dụng 2
thuật ngữ đó là: Dân tộc đa số và dân tộc thiểu số
- Dân tộc đa số: Là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt), dùng thuật ngữ này là nói trên phạm
vi cả nước chứ không là nói trên địa bàn vùng hoặc địa phương nào đó.
- Dân tộc thiểu số: Thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc chậm
phát triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ những dân
tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số. Họ chung sống thành một cộng
đồng có ngôn ngữ và văn hóa riêng của mình song đều hướng về những giá trị
văn hóa truyền thống, lịch sử quý báu của Việt Nam.
Ở Việt Nam, chia thành 7 vùng kinh tế địa lý. Dân tộc thiểu số tập trung
chủ yếu ở các vùng Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Tây Nguyên. Từ mấy nghìn
năm nay, các dân tộc cùng chung sống trên dải đất Việt Nam có nhu cầu tự
nhiên là phải cố kết nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành
một cộng đồng bền chặt - đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng
nước và giữ nước. Đoàn kết là truyền thống từ ngàn xưa của dân tộc ta. Các
dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước,
giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất (Giáo trình Dân tộc
học – Lê Sĩ Giáo chủ biên).
20



b) Khái niệm phụ nữ và lao động nữ dân tộc thiểu số
- Phụ nữ (hay còn gọi là nữ giới): Nữ giới là một khái niệm chung để
chỉ một người, một nhóm người hay toàn bộ những người trong xã hội mà một
cách tự nhiên, mang những đặc điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả
năng mang thai và sinh nở khi cơ thể họ hoàn thiện và chức năng giới tính
hoạt động bình thường ( Giáo trình Giới và phát triển, Thái Thị Ngọc Dư, ĐH
Mở-Bán công TP. HCM, 2004)
Từ đó chúng ta có thể suy ra khái niệm:
- Lao động nữ dân tộc thiểu số: Là nữ giới thuộc người dân tộc thiểu số
có độ tuổi từ đủ 15 – 55 tuổi.
1.1.6. Khái niệm công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ việc làm cho
lao động nữ dân tộc thiểu số:
Công tác xã hội trong hoạt động hỗ trợ việc làm cho lao động nữ dân tộc
thiểu số là việc nêu cao rõ vai trò của ngành công tác xã hội trong việc kết nối
những nguồn lực trong xã hội, đặc biệt là nguồn chính sách xã hội để xây
dựng các chương trình hỗ trợ việc làm cho lao động nữ người DTTS có độ
tuổi từ 15 – 55 tuổi.
1.2. Các hình thức hỗ trợ việc làm phổ biến ở nước ta hiện nay
- Hình thức cho vay vốn sản xuất kinh doanh tại gia đình: Kinh tế gia
đình nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nông nghiệp ở nông thôn được thực
hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển dưới hình thức
hợp tác xã và các hình thức liên kết khác. Nhà nước có các chính sách khác
hướng tới việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho sản xuất chế biến;
cung cấp dịch vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Tín dụng ưu đãi cho người nghèo
21



là một trong những điểm sáng góp phần vào công cuộc giảm nghèo bền vững
của đất nước thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi tín dụng cho giảm
nghèo cần phải được tăng nguồn lực, nâng mức cho vay, thời hạn vay và việc
cho vay vốn cần gắn với mục tiêu và sản phẩm đầu ra…
- Hình thức mở các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đối tượng
trợ bảo trợ xã hội: Thường xuyên tuyên truyền rộng rãi đến mọi người dân về
các chủ trương, chính sách của Đảng , Nhà nước về công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn, nêu cao vai trò, tầm quan trọng, sự tham gia của đào tạo
nghề vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc
làm, phát triển kinh tế-xã hội theo QĐ 1956 của Thủ tướng Chính phủ. Ví dụ
như: Xây dựng và triển khai dự án (hay chương trình) về đào tạo nghề cho
những người thuộc diện thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đô thị; Đào
tạo nghề theo các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; Kết
hợp “truyền nghề” với đào tạo chính quy; Liên kết nhà nông, doanh nghiệp và
nhà trường để đào tạo nghề; Hỗ trợ đào tạo nghề theo chiến lược xuất khẩu, kể
cả hỗ trợ đào tạo nghề để tham gia xuất khẩu lao động…
- Hình thức giới thiệu trực tiếp việc làm qua các trung tâm việc làm của
ngành Lao động – Thương binh & Xã hội: Đây là hình thức hỗ trợ việc làm
khá phổ biến và trực tiếp nhất đến người lao động không có việc làm. Hoạt
động chủ yếu của hình thức này là việc đưa lao động Việt Nam xuất khẩu lao
động sang các nước khác có nên kinh khá phát triển, cần nhiều nhân lực.
Những người lao động khi xuất khẩu sang nước khác làm việc được đào tạo
cơ bản những điều kiện, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu lao động theo quy định
tại điều 59, 60 của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng. Mặt khác, hỗ trợ giới thiệu việc làm giúp cho người lao động
tìm kiếm được việc làm phù hợp với kinh nghiệm và trình độ tay nghề. Ngoài
ra, hình thức giới thiệu việc làm trực tiếp còn được phổ biến trong hoạt động
giới thiệu nguồn nhân lực cho các, khu công nghiệp, xí nghiệp, công ty trong
nước.

22


1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số
a) Chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn, lao động người dân tộc thiểu số
Theo tính toán của Bộ NN &PTNT, hiện nay cả nước có khoảng hơn 25
triệu lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 55,7% tổng lao
động của cả nước, và mỗi năm có thêm khoảng 1 triệu người đến tuổi lao
động. Như vậy, theo mục tiêu, mỗi năm sẽ có khoảng 2 triệu lao động nông
thôn cần được đào tạo nghề để chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông
nghiệp. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta
chưa được coi trọng đúng mức. Nhiều bộ, ngành, địa phương, cán bộ và xã hội
nhận thức chưa đầy đủ về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, coi đào tạo
nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, không phải là vấn đề quan tâm thường
xuyên, liên tục và có hệ thống. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn
còn cầm chừng, chưa có sự vào cuộc quyết liệt của lãnh đạo các cấp, công tác
điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn còn gặp
nhiều khó khăn. Ngoài ra, nhiều nông dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan
trọng của việc đào tạo nghề nên không mặn mà với các trung tâm dạy nghề.
Nhiều gia đình chỉ tính đến việc cho con em mình theo học nghề khi không đủ
chỉ tiêu để theo học bất kỳ hệ đào tạo nào khác.
Chính vì thế, một số chính sách đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
lao động nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số đã được Đảng và Nhà
nước đề ra như sau:
- Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 về chính sách dạy
nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú theo hướng mở rộng đối tượng
được thụ hưởng, học sinh được quyền lựa chọn cơ sở dạy nghề phù hợp để
học nghề, nâng mức hỗ trợ cho người học để phù hợp với biến động giá cả thị

trường. Ngân sách trung ương sẽ hỗ trợ kinh phí cho các địa phương chưa tự
cân đối ngân sách để thực hiện chính sách dạy nghề nội trú cho hoc sinh, sinh
viên người dân tộc thiểu số.
23


- Quyết định số 603/QĐ-TTg về việc Phê duyệt chiến lược phát triển
dạy nghề thời kì 2011 – 2020. Với mục tiêu: Đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng
được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề
và trình độ đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước
phát triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động
lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; phổ cập nghề cho
người lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu
nhập, giảm nghèo vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội.
- Tổ chức triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ đào tạo nghề để
chuyển đổi nghề đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 755/QĐTTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ và chính sách đào tạo nghề cho
người dân tộc thiểu số rất ít người theo Quyết định số 2123/QĐ-TTg ngày
22/11/2010 của Thủ tướng Chính phủ.
- Đặc biệt là Quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động thôn đến năm 2020” (gọi tắt
là Đề án 1956) Trong Quyết định này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao
động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội
học nghề đối với mọi lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn”.
Đề án đã đề ra đồng bộ các chính sách đối với người học nghề (Lao
động nông thôn trong độ tuổi lao động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù

hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên dạy nghề cho các đối tượng là người
thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ
nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc
thiểu số, người tàn tật, người thị thu hồi đất canh tác). Chính sách đối với
người dạy nghề (bao gồm giáo viên, giảng viên trong các cơ sở dạy nghề; cán
24


bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh và các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản
xuất giỏi tham gia dạy nghề) và chính sách đối với các cơ sở dạy nghề cho lao
động nông thôn.
Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn
theo Đề án 1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho
nông dân, là yêu cầu cao về “đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, từ nay
đến năm 2020, 70% số lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề có việc
làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này đạt được là 80% vào những
năm sau đó.
b) Kết quả bước đầu đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn, lao động người dân tộc thiểu số
Hiện nay, tổng số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân là trên 47 triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong
nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%.
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
cần phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông thôn (mục tiêu đến
năm 2020 chỉ còn 30% lao động trong nông nghiệp) và đào tạo nghề có sứ
mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc chuyển dịch này. Trong Nghị
quyết số 26-NQ-TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành Trung ương (khóa X)
về nông nghiệp, nông dân và nông thôn có đề ra: “Giải quyết việc làm cho
nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển

kinh tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể
về đào tạo nghề và chính sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các
vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông
thôn…. Hình thành Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát
triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động
nông thôn; phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao
động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”(1).
25


×