Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Một số giải pháp và chính sách đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắc Lắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.22 MB, 117 trang )



1





Luận văn
Một số giải pháp và chính sách đối
với vấn đề tôn giáo trong vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh
Đắc Lắc


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo Tin lành du nhập vào nước ta khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, vào Tây Nguyên từ năm 1929 và vào tỉnh Đác Lắc từ năm 1932.
Từ đó cho đến suốt quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ của dân tộc ta, đạo Tin lành ở Tây Nguyên tồn tại và phát triển
ở mức độ bình thường. Nhưng, từ sau năm 1975, tôn giáo này phát triển
rất mạnh. Đặc biệt, trong những năm gần đây, số người theo đạo Tin lành
ở Tây Nguyên tăng lên gấp nhiều lần so với trước năm 1975.
Sự phát triển của đạo Tin lành ở Tây Nguyên nói chung và ở tỉnh
Đác Lắc nói riêng vừa đem lại những yếu tố tích cực, vừa có những yếu
tố tiêu cực, đã và đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức phức tạp cần được giải
quyết cả trước mắt và lâu dài.
Việc một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) từ bỏ hệ tín
ngưỡng cổ truyền để tiếp nhận hệ tín ngưỡng của một tôn giáo độc thần


như Công giáo hoặc Tin lành là điều bình thường. Việc tiếp nhận một số
giáo lý mới như sống đời sống một vợ một chồng, ăn ở vệ sinh, ốm đau
dùng thuốc, không uống rượu say, đơn giản hóa các thủ tục ma chay, lễ
hội, không tin vào tà ma, bói toán… đã làm thay đổi một số tập tục lạc
hậu trong đời sống của đồng bào. Tuy nhiên, so với những ảnh hưởng tích
cực mà đạo Tin lành mang lại, ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với vùng
đồng bào DTTS lớn hơn rất nhiều. Những năm qua, hoạt động truyền đạo
của Tin lành trong vùng đồng bào DTTS là một trong những vấn đề phức
tạp nhất về chính trị - xã hội của các tỉnh trong vùng, gây ra nhiều tác
động, hậu quả xấu trên nhiều mặt của đời sống xã hội.
Về mặt xã hội, việc phát triển tràn lan, bất chấp những quy định của
Nhà nước của đạo Tin lành ở nhiều nơi đã vi phạm pháp luật, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
trong vùng đồng bào DTTS. Trên thực tế, quá trình phát triển đạo Tin


3
lành ở Đác Lắc đã gây nên sự chia rẽ sâu sắc trong cộng đồng, làm phai
nhạt một phần ý thức công dân trong đồng bào (chủ trương không liên
quan đến chính trị, tín đồ không tham gia các phong trào quần chúng,
ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, đẩy một bộ phận tín đồ đến chỗ
bất hợp tác với chính quyền…)
Về chính trị, các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với các phần tử
phản động trong nước tìm cách lợi dụng đạo Tin lành như một lực lượng
tinh thần để lôi kéo, lừa bịp, kích động một bộ phận quần chúng chống lại
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây nên những hậu quả
đáng lo ngại. Sau ngày miền Nam được giải phóng, hoạt động của tổ chức
phản động FULRO thường gắn với hoạt động của đạo Tin lành trong
vùng đồng bào DTTS, nhiều giáo sĩ Tin lành là những lãnh đạo chủ chốt
của FULRO; nhiều tín đồ là cơ sở tin cậy, là lực lượng của FULRO. Việc

thành lập cái gọi là “Tin lành Đê-ga” gần đây đã kích động sự kỳ thị, chia
rẽ tôn giáo giữa đồng bào DTTS với người Kinh và đã lừa phỉnh, lôi kéo
được một số người tham gia. Trong hai vụ bạo loạn chính trị trong vùng
DTTS ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004 có nhiều tín đồ tự xưng là
“Tin lành Đê-ga” tham gia. Toàn Tây Nguyên hiện vẫn còn gần 7.000
người DTTS tự xưng là tín đồ của “Tin lành Đê-ga”. Nguy hiểm hơn,
chúng coi “Tin lành Đê-ga” như là cơ sở tinh thần của cái gọi là “Nhà
nước Đê-ga độc lâp”. Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng Tin lành,
dựa vào lực lượng quần chúng là người DTTS Tây Nguyên, kích động số
đông tín đồ làm lực lượng đối trọng với ta. Trong bối cảnh giao lưu rộng
mở, các tổ chức và cá nhân của Hội thánh Tin lành vẫn tiếp tục bị lợi
dụng vì âm mưu thù địch, chống phá cách mạng Việt Nam.
Về đối ngoại, các thế lực thù địch đang ra sức vu cáo ta vi phạm
nhân quyền, đàn áp tôn giáo, trong đó có vấn đề đạo Tin lành ở Tây
Nguyên. Từ đó, trong hoạt động đối ngoại họ đưa nhiều yêu sách để gây
sức ép với ta.


4
Trước tình hình Tin lành phát triển phức tạp, việc thực hiện chính
sách tôn giáo như thừa nhận hoạt động Tin lành bình thường, cho đăng ký
và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành đạo đã đem lại những mặt tích
cực, tạo ra tâm lý phấn khởi, tin tưởng trong đại đa số đồng bào có đạo.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi công tác đối với Tin lành vẫn còn nhiều hạn chế,
nên hiện tại một bộ phận đồng bào có tâm lý hoang mang, lo lắng, giảm
nhiệt tình và thái độ hợp tác tích cực. Mặt khác, do đạo Tin lành đang tồn
tại trong trạng thái nửa hợp pháp, nửa không hợp pháp, có hệ phái chính
thức, có hệ phái không chính thức, nơi đã được công nhận, nơi chưa được
công nhận, nên tình hình của đạo Tin lành trong vùng DTTS ở các tỉnh
Tây Nguyên vẫn còn là vấn đề hết sức phức tạp, không những gây khó

khăn, lúng túng cho công tác quản lý nhà nước, mà còn nhiều mặt kẻ địch
có thể lợi dụng chuyển hướng hoạt động theo hướng chính trị hóa, đưa đạo
Tin lành thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền.
Vấn đề Tin lành ở Tây Nguyên nói chung, ở Đác Lắc nói riêng,
trong quá khứ cũng như hiện tại luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Cho
nên, việc đẩy mạnh công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào
DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc được coi như là một trong những
giải pháp tích cực để vừa thực hiện tốt chính sách dân tộc, vừa thực hiện
tốt chính sách tôn giáo của Đảng, góp phần ổn định tình hình tư tưởng,
sản xuất và nâng cao đời sống cho đồng bào, giữ vững ổn định an ninh
chính trị trên địa bàn tỉnh hiện nay.
Trong nhiều năm qua, các tổ chức đảng trong tỉnh Đác Lắc đã chú
trọng lãnh đạo công tác quần chúng, đặc biệt là công tác quần chúng
trong vùng DTTS, và đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần làm
ổn định tình hình. Song, sự lãnh đạo của các tổ chức đảng ở tỉnh Đác Lắc
đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành còn nhiều
lúng túng, hạn chế. Để nâng cao hơn nữa chất lượng lãnh đạo của các tổ
chức đảng đối với công tác quần chúng trong vùng DTTS theo đạo Tin


5
lành đòi hỏi phải có sự nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một cách hệ
thống và tìm ra được những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể, có
tính khả thi. Luận văn này cố gắng đóng góp một phần vào yêu cầu thực
tiễn cấp bách đó.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đác Lắc là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng và là địa
bàn có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì thế,
việc đầu tư nghiên cứu toàn diện về Tây Nguyên nói chung và Đác Lắc
nói riêng từ lâu đã được quan tâm với những quy mô, mức độ và các lĩnh

vực khác nhau. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách
chỉ đạo, lãnh đạo rất quan trọng đối với vấn đề dân tộc, tôn giáo có liên
quan trực tiếp đến vùng Tây Nguyên, tiêu biểu là Nghị quyết 10-NQ/TW
của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc
phòng - an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010; Quyết định
168/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc định hướng dài hạn
kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế
- xã hội vùng Tây Nguyên; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII
về tăng cường công tác quần chúng của Đảng; Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 khóa IX về công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Thông báo
160-TB/TW của Bộ Chính trị về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành
trong tình hình mới; Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về một số công tác đối với đạo Tin lành
Bên cạnh đó, ý thức rõ tầm quan trọng của vấn đề đẩy mạnh công
tác quần chúng nói chung và công tác quần chúng ở vùng đồng bào
DTTS theo đạo Tin lành nói riêng, nhiều công trình khoa học xã hội cũng
đã được triển khai nghiên cứu, tiêu biểu như: Chương trình Tây Nguyên
I, Chương trình Tây Nguyên II, trong đó một phần nghiên cứu đánh giá,
đề xuất giải pháp về công tác quần chúng. Đáng chú ý là một số công
trình nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo như: “Một số tôn giáo ở Việt


6
Nam” năm 2005, “Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt
Nam” năm 2002 của TS Nguyễn Thanh Xuân - Phó Trưởng Ban Tôn giáo
Chính phủ; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân
tộc ở Tây Nguyên” năm 2005 của PGS, TS Trương Minh Dục; Đề tài
nghiên cứu của Ban Tôn giáo Chính phủ “Một số giải pháp và chính sách
đối với vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh
Đắc Lắc” năm 2002; các công trình nghiên cứu về Tin lành Tây Nguyên

của Nguyễn Xuân Hùng Ngoài ra còn có những ý kiến chỉ đạo, những
công trình nghiên cứu của một số nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu về Tin
lành và công tác đối với đạo Tin lành được đăng tải trên các tạp chí, các
báo trong nước như: “Chính sách đối với tôn giáo nói chung và Tin lành
nói riêng trong tình hình mới” của Lê Quang Vịnh - Nguyên Trưởng ban
Tôn giáo Chính phủ; Kỷ yếu hội thảo “Tin lành Mỹ, Tin lành Việt Nam -
Dự báo tình hình và giải pháp điều chỉnh”, Vụ Nghiên cứu chiến lược Bộ
Công an; “Thực trạng phát triển đạo Tin lành vùng đồng bào DTTS -
những kiến nghị về chủ trương và giải pháp” của TS Trịnh Xuân Giới,
Nguyên Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương; “Quá trình thực hiện
chính sách dân tộc - tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua tổng kết thực
tiễn ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ” của GS, TS Lê Hữu Nghĩa
Những công trình nghiên cứu đó đã cung cấp những cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách về công tác quần
chúng nói chung và trong vùng đồng bào DTTS có đạo ở Tây Nguyên nói
riêng. Đây cũng là cơ sở để tác giả kế thừa và đi sâu vào những vấn đề
mới liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu, riêng biệt về sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương đối với
công tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin
lành ở Đác Lắc. Luận văn này hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào sự tìm tòi, đề
ra những giải pháp hữu ích cho vấn đề đang cần sự đầu tư, nghiên cứu


7
nhiều hơn này trong quá trình xây dựng Tây Nguyên ngày càng ổn định
và phát triển.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các tổ chức

đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh
Đác Lắc, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao
chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận
động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin lành của tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ những vấn đề thực tiễn của việc truyền bá đạo
Tin lành ở Đác Lắc, việc kẻ địch lợi dụng đạo Tin lành trong thời gian
qua, đánh giá đúng sự tác động của đạo Tin lành đến tình hình chính trị,
xã hội của tỉnh và tư tưởng, đời sống của đồng bào DTTS theo Tin lành.
- Đánh giá đúng thực trạng, rút ra nguyên nhân và kinh nghiệm về
sự lãnh đạo của các tổ chức đảng tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động
đồng bào DTTS theo đạo Tin lành.
- Xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu, cụ
thể để nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công
tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành của tỉnh Đác Lắc trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình đạo
Tin lành và vấn đề nâng cao chất lượng lãnh đạo công tác vận động quần
chúng đối với đồng bào DTTS theo đạo Tin lành của các tổ chức đảng địa
phương từ tỉnh đến cơ sở của tỉnh Đác Lắc.
Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu tư liệu và tình hình thực tế
chủ yếu từ năm 2001 (sau vụ biểu tình, bạo loạn chính trị tháng 02-2001)
đến nay.


8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn được thực hiện trên cơ sở những quan điểm và
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

công tác vận động quần chúng, dựa trên các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
Cộng sản Việt Nam và thực tiễn tình hình công tác quần chúng ở tỉnh Đác
Lắc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn kết hợp chặt chẽ
giữa lô-gích với lịch sử; sử dụng các phương pháp điều tra, khảo sát thực
tế, thu thập số liệu, đối chiếu, thống kê, phân tích, tổng hợp, coi trọng
phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của các tổ chức
đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở tỉnh
Đác Lắc.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của yêu cầu nâng cao chất lượng
lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động đồng bào DTTS
theo đạo Tin lành ở Đác Lắc hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cụ thể có tính khả thi để góp phần nâng
cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với công tác vận động
đồng bào DTTS theo đạo Tin lành trong giai đoạn mới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
vận dụng vào thực tiễn công tác quần chúng hiện nay, góp phần vào sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác quần chúng ở các địa
phương; làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy về công tác quần
chúng ở các trường chính trị khu vực Tây Nguyên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


9







10

Chương 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐÁC LẮC ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ THEO ĐẠO TIN
LÀNH - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TRONG
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐẢNG Ở TỈNH ĐÁC
LẮC
1.1.1. Vị trí, vai trò và những nét đặc thù của công tác vận động
đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở tỉnh Đác Lắc
1.1.1.1. Một số đặc điểm tình hình các dân tộc thiểu số tỉnh Đác
Lắc
Đác Lắc là quê hương của đồng bào thuộc nhiều dân tộc, như: Ê-đê,
M’nông, Gia-rai, Xê-đăng, Kinh Sau ngày miền Nam giải phóng, thực
hiện chủ trương phân bổ lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước,
tỉnh đã tiếp nhận hàng chục vạn đồng bào từ khắp mọi miền đất nước đến
xây dựng kinh tế mới. Cùng với người bản địa, nhiều dân tộc khác cũng
đến đây làm ăn sinh sống và tạo nên một đại gia đình với 43 dân tộc anh
em.
Theo số liệu thống kê, đến ngày 31-12-2006, dân số Đác Lắc là
1.701.496 người, mật độ 130,8 người/km
2
; trong đó dân tộc Kinh chiếm
70,5%; các DTTS 486.313 người, riêng đồng bào DTTS tại chỗ là

313.021 người. Các dân tộc thiểu số tại chỗ gồm dân tộc Ê-đê 271.117
người, chiếm 15,8%; dân tộc M'nông 39.171 người, chiếm 2,3%; dân tộc
Gia-rai 15.389 người, chiếm 0,9% Một số DTTS từ nơi khác đến có số
dân khá lớn như dân tộc Tày 50.533 người, chiếm 2,95%, dân tộc Nùng
62.584 người, chiếm 3,64%, còn lại là các dân tộc khác [68, tr.15].
Qua rất nhiều lần tách nhập trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp,
kháng chiến chống Mỹ, cũng như sau ngày đất nước hòa bình thống nhất,


11

hiện nay tỉnh Đác Lắc gồm 12 huyện và thành phố Buôn Ma Thuột, 175 đơn
vị hành chính cấp xã, 2.218 thôn, buôn, tổ dân phố (sau đây gọi tắt là
buôn, làng).
Xét về mặt địa lý, đồng bào các DTTS của tỉnh phân bố trên một địa
bàn rộng lớn và chủ yếu thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hiểm
yếu, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng -
an ninh. Trong chiến tranh, các vùng đồng bào DTTS sinh sống là căn cứ
địa cách mạng hoặc là nơi nuôi dưỡng, phát triển thực lực của cuộc
kháng chiến. Chính vì thế, trước đây cũng như hiện nay, các thế lực thù
địch hết sức chú ý đến những vùng này để thực hiện ý đồ chính trị, chống
phá cách mạng nước ta.
Trước đây cũng như hiện nay, nét nổi bật của hai dân tộc Ê-đê,
M'nông là đời sống xã hội mang đậm tính huyết thống (dòng họ) và tính
cộng đồng hết sức bền chặt. Trong từng đơn vị buôn, làng có sự tồn tại
bền vững những mối quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành
qua các thời kỳ lịch sử lâu dài, nổi bật là quan hệ giữa dân làng với già
làng, chủ buôn; giữa các thành viên trong cùng một buôn, làng; giữa các
gia đình trong một dòng tộc; giữa cha mẹ với con cái
Đồng bào Ê-đê và M'nông sống rất hiền hòa, hiếu khách, có lòng

nhân ái, yêu thiên nhiên, yêu hòa bình, nhưng đồng thời cũng rất kiên
cường, có tinh thần thượng võ, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Đồng bào DTTS trong tỉnh có đặc điểm là dễ nghe theo, dễ tin và đã
tin ai thì đặt hết niềm tin vào người đó, không từ nan thử thách, hy sinh.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tuyệt đại bộ
phận đồng bào DTTS của tỉnh đã tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh dũng đứng lên theo Đảng làm cách
mạng, bất chấp mọi hy sinh, gian khổ để giành thắng lợi cuối cùng.
Về phương diện văn hóa, là một địa phương đa dân tộc, Đác Lắc
hiện nay là một vùng đất đa dạng về sắc thái văn hóa: Có sắc thái văn


12

hóa của người Kinh, sắc thái văn hóa của các DTTS bản địa và sắc thái
văn hóa của các DTTS từ nơi khác đến. Nhưng, trước hết và quan trọng
nhất phải nói đến văn hóa, phong tục, tập quán, tâm lý, lối sống của hai
dân tộc bản địa là các dân tộc Ê-đê và M'nông. Đồng bào các DTTS ở
Đác Lắc là chủ nhân của một nền văn hóa bản địa vô cùng phong phú và
đặc sắc. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc ở đây đã tạo dựng nên những
di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá mà ngày nay các nhà nghiên
cứu đều đánh giá cao, như: nhà dài, nhà mồ, đàn đá, cồng chiêng, các lễ
hội và sinh hoạt cộng đồng độc đáo. Đồng bào còn có một kho tàng văn
học dân gian với những những bản trường ca (khan), truyện cổ, truyện
ngụ ngôn, lời nói vần; những làn điệu dân ca như Airay, Kuứt, Kmũn,
Tâm pớt, Yuôn Yơh đậm đà bản sắc dân tộc lưu truyền qua bao thế hệ.
Đặc biệt, luật tục (tập quán pháp) của hai dân tộc Ê-đê, M'nông có thể coi
là một di sản văn hóa tộc người rất đặc sắc, bao gồm hàng trăm điều,
phản ánh những lề luật, tục lệ nghiêm ngặt của cộng đồng thị tộc cổ đại.
Ngoài ra, các dân tộc Ê-đê, M’nông còn có cả chữ viết mà sau này được

phiên âm sử dụng phổ biến từ thời kháng chiến cho đến nay.
Trong đời sống hàng ngày, đồng bào có rất nhiều lễ hội và sinh hoạt
truyền thống diễn ra xoay quanh vòng đời của con người và vòng xoay
của mùa màng, như lễ thổi tai, lễ mừng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ
mã, lễ cúng voi, lễ đâm trâu, lễ mừng lúa mới, lễ rước K'pan, tục uống
rượu cần, tục kể khan Các sinh hoạt truyền thống này mang tính cộng
đồng cao, thu hút mọi người cùng tham gia và trở thành một nét đẹp đáng
quý trong đời sống của đồng bào. Chúng có tác động rất lớn đến tư
tưởng, tình cảm của con người và mỗi thành viên trong cộng đồng luôn
luôn gửi gắm vào đây những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
1.1.1.2. Vai trò của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân. Điều này bao hàm cả ý nghĩa là quần


13

chúng phải được tập hợp, tổ chức lại và bản thân quần chúng phải tự
mình tham gia vào cuộc cách mạng ấy. Nhưng “muốn cho quần chúng
hiểu rõ phải làm gì thì cần phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên
nhẫn” [39, tr.164]. Phát triển quan điểm của C. Mác, V.I. Lê-nin cho rằng:
“Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với
đội ngũ tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản thì cách mạng
vô sản không thể thực hiện được” [36, tr.251]. Những quan điểm đó cho
chúng ta thấy, công tác vận động quần chúng hết sức quan trọng và cần
thiết. Đó là một công tác lâu dài, là cuộc đấu tranh giai cấp để giành lấy
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân.
Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Cách mệnh trước hết là phải làm cho dân giác ngộ”
[37, tr.266]. Muốn làm cho dân giác ngộ “trước hết phải có Đảng cách

mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” [38, tr.267]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng khẳng định: Đảng Cộng sản phải vận động và tổ chức
nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “dân vận là vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng
toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính
phủ và Đoàn thể đã giao cho” [39, tr.698-699].
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lê-nin nhấn mạnh việc động viên
và phát huy mọi lực lượng của quần chúng nhân dân. Người cảnh cáo:
“những ai chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng
xã hội cộng sản là những kẻ có tư tưởng hết sức ngây thơ” [35, tr.347].
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ vai trò quan trọng của công tác vận động, tập hợp các tầng lớp
nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình cách mạng do Đảng lãnh đạo, mỗi
thời kỳ, mỗi đối tượng có những nội dung và hình thức vận động khác
nhau. Trong thời kỳ mới của cách mạng, Đảng ta xác định nội dung công


14

tác vận động quần chúng là xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các
tầng lớp xã hội, xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước…
Đồng bào DTTS nói chung và đồng bào DTTS theo đạo Tin lành nói
riêng ở tỉnh Đác Lắc là một đối tượng vận động đặc biệt, do đó công tác
vận động của Đảng ở đây có vai trò hết sức quan trọng.
Do đặc điểm lịch sử, đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, trình
độ dân trí thấp, sự am hiểu của đồng bào về các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước còn đơn giản. Địa bàn cư trú của đồng bào hầu hết
là những vùng trọng yếu về quốc phòng - an ninh. Chính vì thế, các thế
lực thù địch hết sức chú ý đến những vùng này để lôi kéo quần chúng
thực hiện ý đồ chính trị chống phá cách mạng nước ta. Hiện nay, vấn đề
dân tộc, tôn giáo là vấn đề hết sức nhạy cảm trong cuộc đấu tranh chống
chiến lược “diễn biến hòa bình”. Nếu chúng ta không chú ý làm tốt công
tác vận động quần chúng trong vùng đồng bào DTTS thì các thế lực thù
địch sẽ có cơ hội lợi dụng, lôi kéo đồng bào thành lực lượng đối trọng với
ta.
Công tác vận động đồng bào các DTTS ở Đác Lắc hiện nay, đặc
biệt là những người theo đạo Tin lành, còn xuất phát từ mấy đặc điểm
sau:
- Đồng bào các DTTS nói chung sinh sống ở nhiều buôn, làng trong
toàn tỉnh, không hình thành những lãnh thổ tộc người riêng biệt, mà sinh
sống xen kẽ, đan xen nhau và có sự giao lưu sâu sắc về văn hóa.
- Về phương diện văn hóa, đồng bào DTTS Đác Lắc có một nền văn
hóa bản địa vô cùng phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên, trong những năm
qua, trước sự tác động của nền kinh tế thị trường và một phần của những
yếu tố cực đoan trong việc truyền bá đạo Tin lành, nhiều giá trị văn hóa


15

tinh thần bị mai một, nhiều tập tục, lễ hội, nhiều hình thức sinh hoạt cộng
đồng bị mất dần. Điều này đã hủy hoại sự đề kháng văn hóa và tạo điều
kiện cho tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin lành phát triển.
- Số dân các dân tộc rất chênh lệch nhau (có dân tộc như Ê-đê gần
25 vạn dân, có nhiều dân tộc hiện chỉ có dưới vài chục người như Khơ-
mú, Hà nhì, Chu-ru, Pu-péo ), nên dễ sinh tư tưởng định kiến, phân biệt
dân tộc lớn, dân tộc nhỏ.

Những đặc điểm đó cho thấy, công tác quần chúng có mục tiêu to
lớn là tạo lập sự nhất trí, sự đồng thuận của tất cả các tầng lớp xã hội, các
thành phần dân tộc vì sự nghiệp chung, tạo sự tương đồng, hài hòa trong
tính thống nhất của toàn dân tộc.
Đồng bào DTTS tuy không nhiều về số lượng, nhưng là một đối
tượng quan trọng trong công tác dân vận của Đảng. Nếu như trước đây sự
ổn định chính trị thường được quan niệm gắn liền với sức mạnh kinh tế,
quân sự (tuy nhiên trên thực tế không phải bao giờ cũng như vậy), thì
ngày nay, sự ổn định chính trị phải là tổng hợp của sức mạnh kinh tế,
chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…; trạng thái ổn định
chính trị chỉ vững chắc khi tất cả các lĩnh vực dân tộc, tư tưởng, tôn
giáo… cùng đạt được sự ổn định tương ứng. Chính vì thế, công tác vận
động đồng bào DTTS của Đảng là một trong những nhân tố góp phần ổn
định tình hình an ninh chính trị của tỉnh, chống lại âm mưu phá hoại của
các thế lực thù địch và góp phần vào sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
1.1.1.3. Đặc thù của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số
ở Đác Lắc
- Về đối tượng vận động
Nét nổi bật của hai dân tộc Ê-đê, M'nông là đời sống xã hội mang
đậm tính huyết thống (dòng họ) và tính cộng đồng hết sức bền chặt.
Buôn của đồng bào Ê-đê hay bon của đồng bào M'nông là các đơn vị cơ


16

sở của xã hội, có nơi cư trú và nơi canh tác riêng, có bến nước và nghĩa
địa riêng mặc nhiên được các buôn (bon) khác thừa nhận. Mỗi buôn có
một già làng. Mặc dù, trong xã hội hiện đại có sự tác động của nhiều nếp
sống mới, nhưng vai trò của già làng trong xã hội người DTTS ở Đác Lắc

vẫn còn rất lớn. Già làng là người điều hành toàn bộ các hoạt động truyền
thống trong xã hội của đồng bào. Tiếng nói của già làng thường đóng vai
trò quyết định trong mọi sự việc. Hầu như mọi việc trong làng được giải
quyết thông qua vai trò già làng.
Trong từng đơn vị buôn, làng có sự tồn tại bền vững của những mối
quan hệ xã hội cổ truyền tốt đẹp được hình thành qua quá trình lịch sử
lâu dài đáng kể nhất là quan hệ giữa dân làng với già làng, chủ buôn;
giữa các thành viên trong cùng một buôn; giữa các gia đình trong một
dòng tộc; giữa cha mẹ với con cái Trong các mối quan hệ đó, tinh thần
cộng đồng, dân chủ, bình đẳng, tương thân tương ái là đặc điểm nổi bật
chi phối đời sống của đồng bào.
Thành viên của buôn (bon) là các đại gia đình mẫu hệ, có nhiều thế
hệ cùng chung sống trong một nhà dài, do một người phụ nữ cao tuổi
nhất hoặc có uy tín nhất đứng ra trông nom tài sản, hướng dẫn sản xuất,
do vậy sự chi phối của họ đối với gia đình, xã hội thường rất quan trọng.
- Đặc điểm tâm lý, xã hội.
Cả đồng bào Ê-đê và đồng bào M'nông đều rất hiền hòa, hiếu khách,
có lòng nhân ái, sống thật thà, đôn hậu. Yêu thiên nhiên, yêu con người,
yêu hòa bình, nhưng đồng thời cũng rất ngoan cường, dũng cảm, có tinh
thần thượng võ, trong đó nổi bật hơn cả là ý chí đấu tranh bất khuất
chống chọi với thiên nhiên và đấu tranh bảo vệ buôn làng, bảo vệ quê
hương, đất nước.
Đồng bào DTTS luôn nói đi đôi với làm, dễ tin và đã tin thì tin tuyệt
đối; nếu đã hứa thì khó khăn mấy cũng thực hiện, ai không thực hiện thì
mất niềm tin. Cho nên, đối với đồng bào, không có gì nguy hại hơn là để họ


17

mất niềm tin. Đồng bào đã mất niềm tin với ai thì dứt khoát không bao giờ

nghe theo.
Cũng như các dân tộc khác, đồng bào các DTTS ở Đác Lắc sống
gắn bó với cộng đồng, hết lòng vì cộng đồng, nhưng đồng bào cũng có
lợi ích thiết thân của mình. Do đó, trong công tác vận động đồng bào
phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của đồng bào. Chủ nghĩa Mác đã chỉ
ra rằng: muốn vận động quần chúng phải quan tâm đến lợi ích thiết thân
của họ; lợi ích là một động lực thúc đẩy con người hành động. Nhưng,
cần chú ý rằng, lợi ích phải được hiểu là những gì thiết thực, cụ thể, gắn
với cuộc sống hàng ngày của đồng bào, chứ không phải là những thứ họ
chỉ thấy trong các báo cáo hoặc là những sự hứa hẹn suông.
1.1.2. Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác
Lắc đối với công tác vận động quần chúng nói chung và công tác vận
động đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành nói riêng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [39,
tr.35]. Những lời căn dặn ấy cho thấy, công tác dân vận là nhiệm vụ hàng
đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ những năm
đầu thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ vững
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc đổi mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng” [18,
tr.65]. Từ đó, Đảng ta luôn luôn coi công tác vận động, tổ chức quần
chúng tham gia công việc cách mạng là vấn đề chiến lược xuyên suốt mọi
thời kỳ cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, công tác dân vận
tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi giai cấp, tầng lớp, các
giới đồng bào… Nó góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc để thực hiện mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, xây dựng đất nước
giàu mạnh, công bằng, văn minh, hạnh phúc.



18

Đối với Đác Lắc, công tác vận động quần chúng cũng nhằm tăng
cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, xây dựng mối quan
hệ đoàn kết các thành phần dân tộc trong tỉnh, thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính
trị trong tỉnh.
Tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc đối với
công tác vận động đồng bào các DTTS theo đạo Tin lành thể hiện ở
những nội dung sau:
Một là, để đảm bảo cho công tác này thực hiện đúng định hướng và
đạt được đầy đủ các mục tiêu, yêu cầu:
- Củng cố mối quan hệ đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân
tộc. Đồng bào các DTTS ở Đác Lắc từ bao đời nay sống và làm việc
trong mối quan hệ cộng đồng tốt đẹp. Trong đấu tranh cách mạng trước
đây, cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới hiện nay, đồng bào
luôn có những đóng góp tích cực và hiệu quả. Việc một bộ phận đồng bào
DTTS theo Tin lành là do những lý do khác nhau, một bộ phận do nhu
cầu chính đáng và tôn giáo thuần túy, nhưng có một bộ phận bị lôi kéo,
lừa bịp, khống chế buộc đi theo. Do đó, Đảng bộ tỉnh phải chỉ đạo hệ
thống chính trị các cấp trong tỉnh nhận rõ những vấn đề này, từ đó có
những nội dung và phương pháp vận động thích hợp, hiệu quả. Đối với
quần chúng phải tuyên truyền, vận động, giáo dục đồng bào nhận rõ và ý
thức được đầy đủ trách nhiệm công dân đối với xã hội, thực hiện tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, giúp họ nhận ra được âm mưu và tham gia tích cực vào
cuộc đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để
kích động chia rẽ của các thế lực thù địch.
- Phát huy sức mạnh của cộng đồng các dân tộc trong công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhân dân là lực lượng
đông đảo tiến hành mọi nhiệm vụ, thực hiện các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước. Đồng bào DTTS theo đạo Tin lành ở Đác Lắc là


19

một đối tượng đặc biệt trong công tác dân vận của tỉnh, nhưng họ cũng
chính là một bộ phận dân cư cấu thành các thành phần dân tộc trong tỉnh.
Cho nên, phải xem đây là một bộ phận nhân dân cấu thành, lực lượng lao
động, sức mạnh chung của tỉnh. Bộ phận theo Tin lành vì bị lợi dụng, lừa
mị nhằm phục vụ cho mục đích chính trị xấu xa của chúng chỉ là thiểu số,
và ngay cả khi họ lầm đường, lạc lối, họ vẫn là những quần chúng của
Đảng. Họ phải được giáo dục, tập hợp thành một khối đoàn kết thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh của tỉnh.
Hai là, sự lãnh đạo công tác vận động quần chúng của Đảng bộ tỉnh
xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị trên địa
bàn trong điều kiện các thế lực thù địch tập trung chống phá ta về nhiều
mặt, đặc biệt là việc lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để lôi kéo một
bộ phận đồng bào DTTS biểu tình bạo loạn, gây rối, vượt biên trái phép
Hiện nay, ở tỉnh Đác Lắc cũng như ở toàn vùng Tây Nguyên nói
chung, yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch trên các vấn đề dân tộc,
tôn giáo được đặt ra một cách trực tiếp và cấp bách. Các sự kiện biểu
tình, bạo loạn của một bộ phận đồng bào DTTS ở Tây Nguyên vào các
năm 2001 và 2004 thực chất sâu xa là do một bộ phận quần chúng bị lừa
bịp, lôi kéo dưới chiêu bài đòi thành lập “Nhà nước Đê-ga độc lập”, đòi
trả đất cho người DTTS, đòi đuổi người Kinh ra khỏi Tây Nguyên…
trong âm mưu lớn là gây mất ổn định chính trị ở Tây Nguyên, đẩy nhân
dân đến chỗ chống đối chính quyền, chia rẽ dân tộc, kích động chủ nghĩa
ly khai, tạo cớ để quốc tế hóa vấn đề và nước ngoài can thiệp. Trên thực

tế, một bộ phận không nhỏ những người tham gia biểu tình là những tín
đồ Tin lành. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác vận
động quần chúng nói chung và vận động đồng bào DTTS theo Tin lành
nói riêng là yêu cầu hết sức cần thiết. Đảng bộ chẳng những định hướng,


20

mà còn đề ra những yêu cầu cụ thể đối với toàn hệ thống chính trị trong
việc đặt công tác quần chúng đúng với yêu cầu và vị trí của nó, làm cho
công tác quần chúng góp phần tích cực vào việc giữ vững sự ổn định về
an ninh, chính trị, trên cơ sở đó phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu
quả.
Ba là, lãnh đạo công tác vận động quần chúng là thước đo và còn là
một trong những nội dung để nâng cao toàn diện năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng các cấp.
Năng lực lãnh đạo của các tổ chức và cấp ủy đảng thể hiện trên
nhiều lĩnh vực và ở kết quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo bằng định hướng chính trị, bằng công tác tổ chức - cán bộ,
bằng công tác kiểm tra và bằng sự gương mẫu của đảng viên. Chính
quyền làm công tác dân vận bằng việc ra quyết định, chủ trương đúng
đắn, hợp lòng dân, tổ chức điều hành có hiệu quả việc thực hiện các quyết
định, chủ trương đó. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân làm công tác
quần chúng bằng việc tuyên truyền, vận động tập hợp họ xây dựng và
thực hiện các phong trào hành động cách mạng. Thông qua công tác quần
chúng ở cơ sở, Đảng bộ kiểm nghiệm tính đúng đắn những chủ trương,
chính sách của mình, để xác định tính hiệu quả trong việc thực hiện các
chủ trương, kế hoạch công tác và đánh giá, rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
Lãnh đạo công tác quần chúng bằng những nội dung, hình thức và

phương pháp tốt là cơ sở để tạo nên sự ổn định xã hội, đồng thời cũng là
cơ sở để đánh giá năng lực lãnh đạo toàn diện của các cấp ủy đảng địa
phương.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc đối với công tác
vận động quần chúng nói chung và công tác vận động đồng bào DTTS
theo đạo Tin lành nói riêng chính là thể hiện ở sự lãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị trong tỉnh thông qua công tác quần chúng để đoàn kết và


21

phát huy sức mạnh của toàn thể nhân dân, tạo nên một môi trường xã hội
ổn định để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, góp phần vào
sự ổn định chính trị ở tỉnh Đác Lắc nói riêng và Tây Nguyên nói chung.
1.2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC ĐẢNG BỘ ĐỊA PHƯƠNG TỈNH
ĐÁC LẮC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
THIỂU SỐ THEO ĐẠO TIN LÀNH – QUAN NIỆM VÀ TIÊU CHÍ
ĐÁNH GIÁ
1.2.1. Nội dung và phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng
tỉnh Đác Lắc đối với công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số
theo đạo Tin lành
Xác định được đường lối chính trị đúng đắn là yêu cầu hàng đầu,
nhưng để đường lối đó đi vào cuộc sống, Đảng phải vận động, tổ chức
nhân dân thực hiện đường lối đó một cách hiệu quả.
Có thể nói rằng, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đác Lắc với công tác
vận động đồng bào DTTS theo đạo Tin lành là hoạt động của các tổ chức
và cấp ủy đảng trong tỉnh nhằm làm cho các tổ chức trong hệ thống chính
trị các cấp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục để nâng cao ý
thức giác ngộ, sự hiểu biết của đồng bào về các chủ trương, chính sách
đối với vùng đồng bào DTTS, về chính sách dân tộc và chính sách tôn

giáo của Đảng và Nhà nước; vận động đồng bào thực hiện đúng những
chủ trương và chính sách đó để ổn định đời sống, phát triển sản xuất tiến
tới xóa dần những chêch lệch giữa các dân tộc trong vùng. Đồng thời,
công tác dân vận cũng góp phần đấu tranh vạch rõ âm mưu và chống lại
những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch hòng phá hoại mối
quan hệ đoàn kết dân tộc, phá hoại chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta. Theo đó, nội dung và phương thức lãnh đạo công tác vận động
đồng bào DTTS theo đạo Tin lành của Đảng bộ phải được xác định rõ:
1.2.1.1. Về nội dung lãnh đạo


22

Một là, lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân thường xuyên đi sâu tìm hiểu, nắm rõ được tâm trạng, nguyện
vọng của nhân dân, nắm chắc được tình hình quần chúng theo đạo Tin
lành ở vùng đồng bào DTTS, giải quyết kịp thời những vấn đề do tình
hình thực tế đặt ra.
Công tác vận động quần chúng đối với đồng bào DTTS theo đạo Tin
lành trước hết là ở cơ sở, nhất là nơi có đông đồng bào theo đạo sinh
sống. Vì vậy, các cấp uỷ đảng lãnh đạo chính quyền, Mặt trận và các tổ
chức quần chúng, thông qua phản ảnh của đảng viên, qua dư luận xã hội,
thường xuyên nắm bắt tình hình quần chúng ở cơ sở để phát hiện những
vấn đề mới phát sinh; phân tích, đánh giá tâm trạng, nguyện vọng của
đồng bào, kịp thời có chủ trương cụ thể giải quyết đúng đắn những nhu
cầu chính đáng của quần chúng phù hợp với quy định của pháp luật. Nắm
bắt được tư tưởng quần chúng cũng là cơ sở để các cấp ủy đảng tiếp cận
với quần chúng, hiểu họ và đồng thời để quần chúng hiểu về Đảng.
Những vấn đề nảy sinh trong vùng đồng bào DTTS theo đạo Tin
lành ở Đác Lắc hiện nay chủ yếu liên quan đến nhu cầu tôn giáo, đến vấn

đề tranh chấp đất đai giữa người Kinh với đồng bào DTTS. Trong những
vấn đề đó, do bị lợi dụng, nhiều vụ việc thường đi tới những yêu sách
không thỏa đáng, không phù hợp với quy định của pháp luật, như: đòi
tách tôn giáo đồng bào DTTS ra khỏi tôn giáo người Kinh; đòi người
Kinh trả đất cho đồng bào DTTS… Nội dung công tác dân vận ở đây là
phải biết bóc tách những yêu cầu chính đáng của quần chúng với những
đòi hỏi vô căn cứ, vì mục đích chính trị đen tối để có phương pháp vận
động, thuyết phục hiệu quả.
Để hiểu sâu tình hình quần chúng, các cấp ủy đảng cần yêu cầu
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có sự điều tra, phân tích
cụ thể tình hình các mặt như: dân cư; tâm trạng, nguyện vọng, thu nhập,
đời sống vật chất và tinh thần, những nhu cầu thiết yếu, chính đáng của


23

người dân; tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội… Đây là những vấn
đề cần thiết cho việc xác định và đề ra các chủ trương sát đúng với tình
hình và phù hợp với nguyện vọng quần chúng, giải quyết kịp thời những
vấn đề mới phát sinh, không để xảy ra mâu thuẫn. Mối quan hệ giữa các
dân tộc ở Đác Lắc về cơ bản là tốt đẹp, nhưng thời gian gần đây do bị tác
động bởi những yếu tố bên ngoài và của bọn phản động, nên mối quan hệ
này có lúc trở nên căng thẳng ở một số vùng, một số vấn đề và đến nay
vẫn còn âm ỉ. Đây là vấn đề nhạy cảm, rất dễ bị kích động. Công tác dân
vận phải hết sức chú ý không để thổi bùng lên thành những “điểm nóng”
như những năm trước đây. Bên cạnh việc tìm hiểu tình hình quần chúng,
các cấp chính quyền địa phương cần có những chủ trương, chính sách đáp
ứng nhu cầu chính đáng của đồng bào như: tạo điều kiện thuận lợi cho
việc hành đạo của tín đồ, công nhận tư cách pháp nhân của các chi hội
Tin lành cơ sở, cho đăng ký các điểm nhóm Tin lành chưa đại hội, đồng ý

mở các lớp bồi linh và các hoạt động khác của đồng bào có đạo…
Cấp ủy đảng cần lãnh đạo chính quyền cùng cấp khi có những vấn
đề phức tạp nảy sinh phải hết sức thận trọng, xem xét kỹ việc tiếp cận của
đồng bào đối với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đến mức nào, đồng thời chú ý đến thái độ của họ đối với các sự kiện
chính trị nổi bật. Đây là những cách tiếp cận quần chúng có hiệu quả
trong các nội dung của công tác vận động quần chúng nói chung.
Hai là, tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền, giáo dục quần
chúng để chuyển tải được các chủ trương, chính sách, pháp luật đến với
người dân, vận động nhân dân thực hiện các chính sách, pháp luật và
nhiệm vụ cách mạng. Khi người dân đã nhận thức được đầy đủ các chủ
trương, chính sách và đồng lòng thực hiện thì việc gì cũng thành công.
Lê-nin đã từng nói: “Nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Là
khi quần chúng biết rõ mọi cái… và đi vào hành động một cách có ý
thức” [35, tr.23].


24

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho quần chúng thông qua việc tổ
chức phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật đến với họ bằng các
hình thức thích hợp. Thực tế vừa qua ở Đác Lắc nói riêng và ở Tây
Nguyên nói chung cho thấy, các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề
dân tộc và tôn giáo một cách triệt để tạo nên sự bất ổn xã hội. Vì vậy,
việc tuyên truyền cho quần chúng trong vùng DTTS theo đạo Tin lành
cần được các cấp ủy đảng tổ chức thường xuyên với nhiều hình thức để
nâng cao nhận thức cho người dân, để họ hiểu được chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, thấy đựơc âm mưu của kẻ thù, từ đó tạo ra sự
đồng thuận trong quần chúng cùng thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Ba là, lãnh đạo việc tập hợp quần chúng vào các hình thức tổ chức

thích hợp, đồng thời chú trọng xây dựng Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và các tổ chức quần chúng đủ sức làm công tác quần
chúng có hiệu quả. Ngay sau các vụ biểu tình, bạo loạn ở Tây Nguyên,
hầu hết các tổ chức quần chúng ở vùng đồng bào DTTS gần như không
hoạt động, hoặc chỉ hoạt động cầm chừng; một số cán bộ làm công tác ở
cơ sở bị khống chế, không dám hoạt động, phong trào quần chúng hầu
như tê liệt; một số quần chúng bị lôi kéo, kích động có thái độ chống đối,
cực đoan, số khác mất niềm tin hoặc hoang mang, dao động. Vì vậy, việc
các cấp ủy đảng thường xuyên lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân xây dựng, củng cố tổ chức, tập hợp quần chúng vào tổ chức
đoàn thể giữ vai trò hết sức quan trọng và là nhiệm vụ cấp thiết đối với
Đác Lắc và cả Tây Nguyên.
Bốn là, lãnh đạo triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,
làm cho nhân dân cảm nhận rõ không khí dân chủ ngay tại buôn, làng, từ
đó tích cực tham gia xây dựng các phong trào hành động cách mạng. Một
trong những yếu tố gây phản ứng tiêu cực trong một bộ phận quần chúng
là do những khuyết điểm chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên; hệ
thống chính trị các cấp chưa thật sự phát huy dân chủ rộng rãi; việc triển


25

khai thực hiện các quyết định của cấp trên chưa thực sự hiệu quả; chưa có
các chủ trương cụ thể giải quyết các vấn đề của địa phương. Chỉ có phát
huy dân chủ, xây dựng phong trào hành động cách mạng của quần chúng
mới tạo được cơ sở để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào tổ chức, từ đó phát
huy tính tích cực, sáng tạo của họ, đồng thời để họ tránh được sự lôi kéo của
kẻ địch và những phần tử xấu.
Năm là, chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển sản
xuất, cải thiện đời sống đồng bào, nhất là những nơi khó khăn, những

vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Công tác dân vận của
chính quyền các cấp là tổ chức điều hành, thực thi các nhiệm vụ này có
hiệu quả. Lợi ích là động lực của sự phát triển, do vậy nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội là nhiệm vụ quan trọng và có tính quyết định đến sự ổn
định chính trị, xã hội trong vùng đồng bào, đến hiệu quả của công tác vận
động quần chúng.
1.2.1.2. Về phương thức lãnh đạo
Phương thức lãnh đạo chính là cách thức, biện pháp để tổ chức và cấp
uỷ đảng thực hiện có hiệu quả cao các nội dung lãnh đạo. Trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII
của Đảng thông qua, Đảng ta đã xác định rõ phương thức lãnh đạo tổng quát
của Đảng:
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công
tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt
động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị [29, tr.135].

×