BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ Y TẾ
PHẠM THỊ TỐ UYÊN
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC Y TẾ
VÀ HOẠT ĐỘNG KHÁM CHỮA BỆNH
CỦA MỘT SỐ BỆNH VIỆN HUYỆN THUỘC
TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
HÀ NỘI - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ Y TẾ
PHẠM THỊ TỐ UYÊN
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC Y TẾ
VÀ HOẠT ĐỘNG KHÁM CHỮA BỆNH
CỦA MỘT SỐ BỆNH VIỆN HUYỆN THUỘC
TỈNH HÒA BÌNH NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Chuyên ngành: Quản lý Bệnh viện
Mã số: 60720701
Thầy hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Duy Luật
HÀ NỘI - 2015
3
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội, Ban Lãnh
đạo Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Phòng quản lý đào tạo Sau
đại học Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo, Nghiên cứu khoa học Viện
Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận
văn này.
Với tất cả sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc nhất tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
tới PGS.TS. Nguyễn Duy Luật là người thầy kính mến đã dạy dỗ và trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy/cô trong Viện Đào tạo Y học dự phòng và
Y tế công cộng đặc biệt là các thầy/cô trong Bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế đã
tạo điều kiện thuận lợi, động viên giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp.
Tôi xin cảm ơn Sở Y tế, các cán bộ y tế, lãnh đạo tại các bệnh viện huyện Lương
Sơn, Đà Bắc, Kim Bôi, Lạc Sơn, Lạc Thủy và Cao Phong tỉnh Hòa Bình đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập số liệu và thực hiện luận
văn này.
Nhân dịp này tôi kính trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cha mẹ và những
người thân trong gia đình, bạn bè đã dành cho tôi mọi sự động viên chia sẻ về
tinh thần, thời gian và công sức giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Phạm Thị Tố Uyên
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Phạm Thị Tố Uyên, học viên lớp cao học khóa 22, chuyên ngành
Quản lý Bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội xin cam đoan:
1. Đây là Luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Nguyễn Duy Luật.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung
thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2015
Người viết cam đoan
Phạm Thị Tố Uyên
5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BN
BNNT
BS
BV
BN
BVH
CBYT
CSSK
CSVC
CSSDGB
DS
ĐD
ĐH
ĐT
GB
NHS
NLYT
TB
ĐTNT
KCB
KTV
SL
TTB
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Bệnh nhân
Bệnh nhân nội trú
Bác sỹ
Bệnh viện
Bệnh nhân
Bệnh viện huyện
Cán Bộ Y tế
Chăm sóc sức khỏe
Cơ sở vật chất
Công suất sử dụng giường bệnh
Dược sỹ
Điều dưỡng
Đại học
Điều trị
Giường bệnh
Nữ hộ sinh
Nhân lực y tế
Trung bình
Điều trị nội trú
Khám chữa bệnh
Kỹ thuật viên
Số lượng
Trang thiết bị
6
MỤC LỤC
7
DANH MỤC BẢNG
8
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Con người là thành tố quan trọng của mọi tổ chức, cơ quan nhằm đảm bảo
đạt được mục tiêu đã đề ra. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) nguồn nhân lực là
yếu tố cơ bản cho mọi thành tựu y tế [1].
Ở quy mô toàn cầu nguồn nhân lực y tế đang có một sự thiếu hụt nghiêm
trọng. Theo ước tính của WHO có 57/192 quốc gia thiếu hụt NVYT. Việt Nam
không chỉ thiếu hụt nguồn nhân lực y tế mà còn có sự phân bố nhân lực không đều
giữa các vùng miền và ở nhiều bệnh viện trong cả nước [2].
Hiện nay các bệnh viện huyện, các Trung tâm y tế quận, huyện, thị xã và
Trạm y tế xã, phường, thị trấn đội ngũ cán bộ còn thiếu cả về số lượng và chất
lượng. Đội ngũ cán Bộ Y tế giỏi có trình độ chuyên môn chủ yếu tập trung ở các
bệnh viện lớn và trung tâm của đất nước.
Bệnh viện huyện là một mắt xích trọng yếu trong mạng lưới khám chữa bệnh,
là cấp trung chuyển giữa y tế trung ương với y tế cơ sở. Bệnh viện huyện chính là
nơi đầu tiên tiếp nhận điều trị nội trú với các kỹ thuật cơ bản và các bệnh thông
thường. Bệnh viện huyện là cơ sở khám chữa bệnh gần dân nhất, cung cấp các dịch
vụ khám chữa bệnh cơ bản nhất, thuận tiện nhất. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ người
dân đến khám chữa bệnh tại bệnh viện huyện chưa cao trong khi đó tỷ lệ bệnh nhân
phải chuyển tuyến trong quá trình điều trị nội trú tại bệnh viện huyện là khá cao. Có
nhiều lý do dẫn đến tình trạng này, trong đó có lý do về sự lựa chọn dịch vụ khám
chữa bệnh của người dân, có lý do về cơ sở hạ tầng, có lý do về trang thiết bị y tế,
nguồn lực đầu tư cho các hoạt động khám chữa bệnh, có lý do về trình độ chuyên
môn, khả năng xử trí của cán Bộ Y tế trong chẩn đoán và điều trị [3].
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, cách thủ đô Hà Nội 73 km, có địa hình núi
trung bình, chia cắt phức tạp. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.608,7 km², chiếm
1,41% tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam với dân số là 817.400 người. Hòa Bình
là một trong bốn tỉnh của Việt Nam mà trong đó có người Việt (Kinh) không chiếm
đa số, đồng thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn
người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây. Những năm qua, kinh tế-xã hội
10
của tỉnh Hòa Bình có sự chuyển biến mạnh mẽ với tăng trưởng bình quân giai đoạn
2009-2014 đạt 10,5%; thu nhập bình quân đầu người tăng từ 11,4 triệu đồng năm
2009 lên 28,3 triệu đồng năm 2014[4], [5], [6].
Hòa Bình là tỉnh miền núi, đa dân tộc, kinh tế chưa phát triển. Những năm
trước, chính sách tuyển dụng, thu hút nhân tài chưa hấp dẫn được các bác sĩ, dược sĩ
đại học về công tác tại tỉnh. Theo Sở Y tế tỉnh Hòa Bình, hiện nay tổng số cán bộ,
công chức, viên chức thuộc ngành là 3.035 người, trong đó biên chế tuyến huyện là
1.028 người. Những năm qua, số bác sĩ, dược sĩ về tỉnh công tác rất ít. Công tác xã
hội hóa y tế còn nhiều hạn chế trong khi nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe cho nhân dân ngày càng cao. Mặc dù tuyến y tế cơ sở thời gian qua đã được bổ
sung một số bác sĩ, dược sĩ (tốt nghiệp đại học chính quy hay nguồn cử tuyển) nhưng
với số lượng ít, cho nên chưa đáp ứng được yêu cầu nhân lực của các đơn vị y tế
tuyến cơ sở. Bên cạnh đó, các cơ sở y tế, nhất là tuyến y tế cơ sở công lập luôn trong
tình trạng thiếu nhân lực có trình độ đại học trở lên.
Để có một cái nhìn chi tiết về thực trạng nguồn nhân lực y tế và hoạt động
khám chữa bệnh của các bệnh viện huyện, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu:
“Thực trạng nhân lực y tế và hoạt động khám chữa bệnh của một số bệnh viện
huyện thuộc tỉnh Hòa Bình năm 2014” thông qua số liệu thống kê y tế hàng năm
của các bệnh viện huyện thuộc tỉnh Hòa Bình với các mục tiêu nghiên cứu cụ thể
như sau:
1.
Mô tả thực trạng nhân lực y tế của 6 bệnh viện huyện thuộc tỉnh Hòa
Bình năm 2014.
2.
Phân tích hoạt động khám chữa bệnh trong mối tương quan với nhân
lực y tế của một số bệnh viện huyện thuộc tỉnh Hòa Bình năm 2014.
11
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hệ thống bệnh viện Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về bệnh viện
Trước đây, BV được coi là nhà tế bần cứu giúp những người
nghèo khổ. Chúng được thành lập giống như những trung tâm từ thiện
nuôi dưỡng người ốm yếu và người nghèo. Ngày nay, BV được coi là nơi
chẩn đoán và điều trị bệnh tật, nơi đào tạo và tiến hành các nghiên cứu y
học, nơi xúc tiến các hoạt động chăm sóc sức khỏe, và ở một mức độ nào đó
là nơi trợ giúp cho các nghiên cứu y sinh học.
Các tài liệu của tổ chức y tế thế giới (WHO) cũng đề cập nhiều đến
khái niệm này. Theo WHO, “BV là một bộ phận của tổ chức mang tính
chất y học và xã hội, có chức năng đảm bảo cho nhân dân được săn sóc
toàn diện về y tế cả chữa bệnh và phòng bệnh. Công tác ngoại trú của BV
tỏa tới tận hộ gia đình đặt trong môi trường của nó. BV còn là trung tâm
giảng dạy y học và nghiên cứu sinh vật xã hội” [7], [8], [9]. Theo các tài
liệu của WHO thì bệnh viện còn là một tổ chức rất phức tạp. Bởi lẽ những
tiến bộ trên nhiều mặt trong xã hội đã khiến người dân ý thức được rõ hơn
về quyền lợi của mình. Họ ngày càng đòi hỏi cao hơn với hệ thống BV. Họ
muốn được cung cấp các dịch vụ y tế không chỉ trong khuôn khổ BV mà
còn ở ngay tại gia đình. Ngày càng có nhiều loại bệnh lây lan do ô nhiễm
môi trường và vì thế trách nhiệm chức năng của bệnh viện ngày càng nhiều
hơn, tính phức tạp cũng tăng lên.
Trong thời gian gần đây, BV được coi là một loại tổ chức xã hội
chủ chốt trong cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và đem lại nhiều
lợi ích cho người bệnh và toàn xã hội. Đó là chẩn đoán, chữa trị bệnh tật
cũng như là nơi người ốm dưỡng bệnh và hồi phục sức khỏe.
Những thực tế trên cho thấy BV là một tổ chức phức tạp, có nhiệm vụ
12
phục vụ lợi ích của toàn xã hội qua việc cung cấp các dịch vụ phòng và
chữa bệnh bên cạnh chức năng là trung tâm đào tạo các nhân viên y tế.
Những bước tiến của xã hội trong thời gian qua đã làm thay đổi cơ bản
khái niệm và quan niệm của mọi người về BV. Vì thế, việc tổ chức và quản
lý BV cũng phải có thay đổi tương ứng. Quản lý BV cần thiết phải có sự
hỗ trợ của các nhân viên giỏi, sao cho công tác quản lý ấy thực sự hiệu quả
để người bệnh có thể tiếp cận các dịch vụ y tế kịp thời. Muốn nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế tại các BV phải dựa vào đội ngũ quản lý giỏi.
1.1.2. Tổ chức hệ thống bệnh viện Việt Nam
Dựa theo tổ chức hành chính nhà nước: Bệnh viện được chia ra thành
3 tuyến như sau: tuyến Trung ương; tuyến tỉnh, thành phố và tuyến
huyện/quận. Ngoài ra còn có các bệnh viện thuộc các bộ ngành khác [7],
[8].
Thực hiện nghị quyết 90 của Chính phủ về xã hội hóa công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân, nhà nước ta đã khuyến khích đa dạng các loại hình dịch vụ
để CSSK nhân dân. Do đó các mô hình BV rất đa dạng gồm: BV nhà nước (BV
đa khoa và BV chuyên khoa), BV tư nhân, BV bán công, BV dân lập, BV có
vốn đầu tư nước ngoài, BV liên doanh với nước ngoài [8].
Hiện nay theo thông tư 03/2004/TT - BYT, 3/3/2004, Bộ Y tế thì các
BV được phân thành 3 hạng I, II, III dựa theo 5 nhóm tiêu chuẩn: vị trí,
chức năng, nhiệm vụ; quy mô và nội dung hoạt động; trình độ chuyên môn
kỹ thuật, cơ cấu lao động; cơ sở hạ tầng; thiết bị y tế, kỹ thuật chẩn đoán và
điều trị. Mục đích của việc phân hạng BV là để hoàn chỉnh về tổ chức, nâng
cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, chất lượng phục vụ người bệnh, phân
tuyến kĩ thuật điều trị, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ [9].
1.1.3. Tổ chức của bệnh viện huyện
Có 2 hình thức tổ chức bệnh viện huyện là: Bệnh viện huyện và Bệnh
viện khu vực [7]. Tổ chức bệnh viện theo sơ đồ 1.1.
13
Với 2 hình thức trên trong 10 năm qua hoạt động của BV huyện tỏ ra
hết sức hiệu quả trong công tác CSSK cuả nhân dân trong khu vực mà mình
phụ trách.
- Các phòng chức năng: gồm 4 phòng: phòng kế hoạch tổng hợp và
vật tư thiết bị y tế; phòng điều dưỡng; phòng Hành chính quản trị và tổ
chức cán bộ; phòng Tài chính kế toán.
- Các khoa gồm 14 khoa: khoa Khám bệnh; khoa Hồi sức cấp cứu; khoa
Nội tổng hợp; khoa Truyền nhiễm; khoa Nhi; khoa Ngoại tổng hợp; khoa Phụ
Sản; liên chuyên khoa Tai - Mũi - Họng, Răng - Hàm - Mặt, Mắt; khoa xét
nghiệm (Huyết học, vi sinh, hóa sinh); khoa Chẩn đoán hình ảnh; khoa Giải
phẫu bệnh; khoa Chống nhiễm khuẩn; khoa Dược và khoa Dinh dưỡng.
1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của bệnh viện huyện [10]
- Cấp cứu - Khám bệnh - Chữa bệnh: BV tiếp nhận tất cả các trường
hợp người bệnh từ ngoài vào hoặc từ các cơ sở y tế chuyển đến để cấp cứu,
khám bệnh, chữa bệnh nội trú hoặc ngoại trú; tổ chức khám sức khỏe và chứng
nhận sức khỏe theo quy định của Nhà nước; có trách nhiệm giải quyết toàn bộ
bệnh thông thường về nội khoa và các trường hợp cấp cứu về ngoại khoa; tổ
chức giám định sức khỏe, khám giám định pháp y khi hội đồng giám định y
khoa tỉnh hoặc cơ quan bảo vệ pháp luật trưng cầu; tổ chức chuyển người bệnh
lên tuyến trên khi vượt quá khả năng của BV.
- Đào tạo cán bộ Y tế: BV là cơ sở thực hành cho các trường, lớp
trung học y tế; tổ chức đào tạo liên tục cho các thành viên trong BV và cơ
sở y tế tuyến dưới để nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng quản lý chăm
sóc sức khỏe ban đầu.
- Nghiên cứu khoa học về y học: Tổ chức tổng kết, đánh giá các đề
tài và chương trình về chăm sóc sức khỏe ban đầu; tham gia các công trình
nghiên cứu về y tế cộng đồng và dịch tễ học trong công tác chăm sóc sức
khỏe ban đầu cấp Bộ và cấp cơ sở; nghiên cứu áp dụng y học cổ truyền
14
và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc.
- Chỉ đạo tuyến dưới về chuyên môn, kĩ thuật: Lập kế hoạch và chỉ
đạo tuyến dưới (phòng khám đa khoa, y tế cơ sở) thực hiện các phác đồ chẩn
đoán và điều trị; tổ chức và chỉ đạo các xã, phường thực hiện công tác chăm
sóc sức khỏe ban đầu và thực hiện các chương trình y tế địa phương.
- Phòng bệnh: BV phối hợp với các cơ sở y tế dự phòng thường xuyên
thực hiện nhiệm vụ phòng bệnh và phòng dịch; tuyên truyền giáo dục sức
khỏe cho cộng đồng. Dự phòng lây chéo, lây ra ngoài BV, xử lý chất thải
BV...
- Hợp tác quốc tế: tham gia các chương trình hợp tác với các tổ chức
và cá nhân ngoài nước theo quy định của nhà nước.
- Quản lý kinh tế y tế: BV có kế hoạch sử dụng hiệu quả cao ngân
sách Nhà nước cấp và các nguồn kinh phí; tạo thêm nguồn kinh phí từ các
dịch vụ y tế: Viện phí, bảo hiểm y tế, đầu tư của nước ngoài và các tổ
chức kinh tế; thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về thu,
chi ngân sách của bệnh viện; từng bước thực hiện hạch toán chi phí
15
Sở y tế
Ban giám đốc
Đảng ủy, UBND huyện
PHÒNG CHỨC NĂNG
Phòng HCQT – TCCB
KHOA LÂM SÀNG
- Khoa khám bệnh
- Khoa HSCC
- Khoa Nội tổng hợp
- Khoa Truyền nhiễm
Phòng KHTH – TTB Y Tế
- Khoa Nhi
- Khoa Ngoại
KHOA CẬN LÂM SÀNG
- Khoa xét nghiệm
- Chẩn đoán hình ảnh
- Giải phẫu bệnh
- Dược
- .........
- Khoa Phụ sản
- Khoa Mắt- Tai mũi họng
- Răng –Hàm- Mặt
Phòng
Kế toán – Tài chính
- Khoa Dinh dưỡng
- Khoa chống nhiễm khuẩn
- .........
Phòng
Y tá – Điều dưỡng
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ tổ chức bệnh viện huyện
1.2. Khái niệm về nguồn nhân lực y tế
1.2.1. Khái niệm
16
Có nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực”.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô,
loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá
trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia, khu vực, thế giới [1]. Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ
quan niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh
thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của
các tổ chức [11], [12].
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi
cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành
công, đạt được mục tiêu của tổ chức [13].
Năm 2006, WHO đã đưa ra định nghĩa: “Nhân lực y tế bao gồm tất
cả những người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức
khoẻ”. Theo đó, nhân lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế,
người làm công tác quản lý và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp
cung cấp các dịch vụ y tế. Nó bao gồm CBYT chính thức và cán bộ không
chính thức (như tình nguyện viên xã hội, những người CSSK gia đình, lang
y...); kể cả những người làm việc trong ngành y tế và trong những ngành
khác (như quân đội, trường học hay các doanh nghiệp).
Theo định nghĩa nhân lực y tế của WHO, ở Việt Nam các nhóm
đối tượng được coi là “Nhân lực y tế” sẽ bao gồm các cán bộ, nhân viên y tế
thuộc biên chế và hợp đồng đang làm trong hệ thống y tế công lập (bao gồm
cả quân y), các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học y/dược và tất cả
những người khác đang tham gia vào các hoạt động quản lý và cung ứng
dịch vụ CSSK nhân dân (nhân lực y tế tư nhân, các cộng tác viên y tế, lang
y và bà đỡ/mụ vườn) [14].
Có hai khái niệm thường được sử dụng khi bàn luận về nguồn nhân lực
y tế:
17
- Khái niệm Phát triển nguồn nhân lực liên quan đến cơ chế nhằm phát triển
c ả v ề s ố l ư ợ n g v à kỹ năng, kiến thức, năng lực chuyên môn của cá nhân
và về mặt tổ chức công việc.
- Khái niệm quản lý nguồn nhân lực: Theo WHO, “quản lý nguồn nhân lực là
một quá trình tạo ra môi trường tổ chức thuận lợi và đảm bảo rằng nhân lực
hoàn thành tốt công việc của mình bằng việc sử dụng các chiến lược nhằm xác
định và đạt được sự tối ưu về số lượng, cơ cấu và sự phân bố nguồn nhân lực
với chi phí hiệu quả nhất. Mục đích chung là để có số nhân lực cần thiết, làm
việc tại từng vị trí phù hợp, đúng thời điểm, thực hiện đúng công việc, và được
hỗ trợ chuyên môn phù hợp với mức chi phí hợp lý”.
1.2.2. Mối liên quan giữa nguồn nhân lực và các thành phần khác
của hệ thống y tế [15]
Theo WHO, hệ thống y tế có 6 thành phần cơ bản:
- Nguồn nhân lực y tế được coi là một trong những thành phần cơ bản và quan
trọng nhất của hệ thống. Nguồn nhân lực có mối liên hệ rất chặt chẽ và
không thể thiếu đối với các thành phần khác của hệ thống y tế.
- Phát triển nguồn nhân lực không chỉ thông qua đào tạo, mà còn phải sử
dụng, quản lý một cách phù hợp để cung cấp hiệu quả các dịch vụ y tế đến
người dân.
- Cần có một mô hình tổ chức và chức năng của các thành phần của hệ thống
cung ứng dịch vụ để biết được nhu cầu về quy mô và cơ cấu nhân lực y tế
như thế nào, ngược lại, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế phụ thuộc mật thiết
vào mô hình tổ chức và cơ cấu nhân lực y tế.
- Hệ thống thông tin y tế cũng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, tin
cậy cho việc lập kế hoạch và sử dụng nhân lực đáp ứng nhu cầu CSSK
của nhân dân, đồng thời giúp phát hiện những vấn đề của nguồn nhân lực
như phân bổ không hợp lý, năng lực không phù hợp để đáp ứng yêu cầu
CSSK từ phía người dân và cộng đồng, hoặc phát hiện và phân tích tần suất
18
sai sót chuyên môn để khắc phục.
- Cấp tài chính cho nhân lực y tế cũng phải đảm bảo cho công tác đào tạo mới và
đào tạo liên tục CBYT, đủ để trả lương và chính sách khuyến khích ở mức đảm
bảo được cuộc sống cho CBYT, tạo ra động lực khuyến khích CBYT làm việc
có chất lượng và sẵn sàng làm việc ở các miền núi, vùng sâu, vùng xa, hoặc
trong các môi trường, chuyên ngành độc hại, nguy hiểm.
- Các sản phẩm y tế, vaccin, dược phẩm.
1.3. Thực trạng nhân lực y tế Việt Nam
1.3.1. Thực trạng
Số lượng nhân lực y tế đang được cải thiện. Số y sĩ, bác sĩ trên 1 vạn dân
tiếp tục tăng lên và đạt 13,4 vào năm 2011, riêng số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng
từ 7,33 năm 2011 lên 7,46 năm 2012 (đạt mục tiêu đề ra cho năm 2012 trong
kế hoạch 5 năm). Số dược sĩ đại học trên 1 vạn dân năm 2011 đạt 1,92 (vượt
mục tiêu đề ra cho năm 2015 trong kế hoạch là 1,8/vạn dân); số lượng điều
dưỡng trên 1 vạn dân cũng tăng (đạt 10,02 năm 2011) [16]. Số lượng cán bộ y
tế ở tuyến cơ sở tăng lên là một kết quả đáng ghi nhận. So với năm 2010, số
lượng nhân lực y tế tuyến xã năm 2011 tăng thêm 3.549 cán bộ (trong đó có
346 bác sĩ) và tuyến huyện tăng thêm 6878 cán bộ (trong đó có 585 bác sĩ).
Năm 2012, tỷ lệ TYT xã có bác sĩ đạt 76%, tăng lên 6 điểm phần trăm so với
năm 2010; tỷ lệ TYT xã có y sĩ sản nhi, hộ sinh đạt 93,4% (giảm xuống nên
không đạt kế hoạch đề ra). Số thôn, bản, ấp thuộc xã, thị trấn có nhân viên y tế
hoạt động được duy trì ở mức trên 96% từ năm 2009 đến 2012, nhưng do sự
suy giảm tỷ lệ tổ dân phố khu vực thành thị có nhân viên y tế hoạt động nên tỷ
lệ thôn, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động chỉ đạt 81,2% [17].
Nhằm đa dạng hóa các hình thức đào tạo khác nhau để phát triển nguồn
nhân lực y tế cho tuyến y tế cơ sở, Bộ Y tế đã ban hành văn bản số 1915/BYTK2ĐT ngày 8/4/2013 hướng dẫn các cơ sở đào tạo nhân lực y tế triển khai
thực hiện Thông tư số 55/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 của Bộ Giáo dục
19
và Đào tạo quy định đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học. Đề án đào
tạo cử tuyển và đào tạo theo địa chỉ tiếp tục được triển khai. Cả nước có 7
trường đại học Y tham gia đào tạo cử tuyển với 1.488 bác sĩ và 24 điều dưỡng.
Với hình thức đào tạo theo địa chỉ, trên cả nước có 13 trường đại học tham gia.
Năm 2009 đã tuyển được 2000 học viên theo chính sách tuyển sinh theo địa
chỉ, đáp ứng 71% nhu cầu cử người đi học của các tỉnh [18]. Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Khuyến khích
đào tạo và phát triển nhân lực y tế các chuyên ngành lao, phong, tâm thần,
pháp y và giải phẫu bệnh giai đoạn 2013–2020", nhằm tăng cường thu hút
trong đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực thuộc các chuyên khoa
khó thu hút này. Các văn bản quy định chính sách ưu đãi nghề, phụ cấp đặc
thù (Quyết định số 73, Nghị định số 56) sẽ bước đầu giải quyết một phần thiếu
hụt nhân lực trong các lĩnh vực này. Đề án 1816 đã được điều chỉnh theo
hướng chuyển giao kỹ thuật tuyến trên cho tuyến dưới theo Quyết định số
5068/QĐ-BYT ngày 21/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Bộ Y tế vẫn tiếp tục
thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện chế độ
luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở tuyến dưới và những vùng khó
khăn. Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 585/QĐ-BYT về việc phê duyệt Dự
án "Thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn" với mục tiêu tiến tới cung cấp nguồn nhân lực y tế là bác sĩ đầy đủ về số
lượng, đáp ứng được chất lượng cung ứng dịch vụ y tế ngay tại tuyến cơ sở.
Để tăng cường nguồn nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe
(CSSK) cơ bản, toàn diện, liên tục, nâng cao chất lượng CSSKBĐ cho người
dân và góp phần giảm quá tải bệnh viện, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số
935/QĐ-BYT phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển mô hình phòng khám
20
bác sĩ gia đình. Đề án "Phát triển y tế biển đảo" đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt theo Quyết định số 317/QĐ-TTg ngày 7/2/2013, trong đó nêu rõ
mục tiêu phát triển nguồn nhân lực y tế đủ về số lượng và chất lượng, đáp ứng
nhu cầu bảo vệ, CSSK cho người dân vùng biển, đảo. Đặc biệt, ngày 9/8/2013,
Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2013/TT-BYT, Hướng dẫn đào tạo liên
tục trong lĩnh vực y tế, thay cho Thông tư số 07/2008/TT-BYT ngày 28 tháng
5 năm 2008.
1.3.2. Khó khăn, hạn chế
Mặc dù đã có những thay đổi tích cực trong việc tăng số lượng nguồn
nhân lực y tế nói chung và nguồn nhân lực cho y tế cơ sở nói riêng, nhưng trên
thực tế ngành y tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển nguồn nhân
lực. Tình trạng thiếu nhân lực y tế nói chung và nhân lực có trình độ là bác sĩ ở
tuyến y tế cơ sở, cũng như nhân lực YTDP vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Chiến lược và chính sách y tế tiến hành tại
4 tỉnh, tình trạng biến động cán bộ tại tuyến huyện, xã là một vấn đề cần phải
quan tâm. Số cán bộ nghỉ việc, chuyển đi ở các cơ sở y tế tuyến huyện (bệnh
viện huyện, trung tâm y tế huyện) bằng 50% tổng số cán bộ mới tuyển dụng, ở
tuyến xã số đối tượng nghỉ việc, chuyển đi bằng 30% số đối tượng mới tuyển
[19]. Nhiều bệnh viện huyện, trung tâm y tế huyện nhiều năm không tuyển
được bác sĩ nào trong khi số lượng cán bộ dịch chuyển tới nơi khác vẫn tiếp
diễn. Lý do dịch chuyển cán bộ ở tuyến xã chủ yếu là điều chuyển công tác lên
tuyến huyện. Kết quả từ một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra một số các yếu tố
gây nên sự kém thu hút cán bộ y tế ở tuyến y tế cơ sở, trong đó thu nhập thấp
và điều kiện làm việc không bảo đảm do thiếu trang thiết bị là hai nguyên nhân
chủ yếu làm cho các cán bộ y tế nói chung đặc biệt là bác sĩ không muốn làm
việc tại tuyến huyện, xã [19], [20], [21]. Nghiên cứu về các yếu tố thu hút cán
bộ y tế làm việc tại vùng nông thôn thông qua phương pháp lượng giá lựa
chọn rời rạc (Discrete Choice Experiment) đã chỉ ra những yếu tố liên quan
21
đến lựa chọn công việc của họ gồm có làm việc ở khu vực thành thị, nơi làm
việc có trang thiết bị đầy đủ, có thu nhập cao, được phát triển kỹ năng (thông
qua đào tạo ngắn hạn, đào tạo dài hạn (chuyên khoa) và có nhà ở miễn phí.
Đối với bác sĩ, nơi công tác là yếu tố quan trọng nhất; trong khi với sinh viên
sắp ra trường thì được đào tạo dài hạn là yếu tố quan trong nhất [20]. Hiệu quả
triển khai các chính sách liên quan đến đào tạo, thu hút và duy trì nguồn nhân
lực y tế còn hạn chế do các chính sách thiếu tính nhất quán hoặc thiếu điều
kiện kinh phí để thực thi; Thiếu sự phối hợp liên ngành trong xét chọn đối
tượng, tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá kết quả triển khai Quyết định số
1544/QĐ-TTg về đào tạo nhân lực y tế theo chế độ cử tuyển [19]. Chất lượng
nguồn nhân lực y tế cũng là một vấn đề cần phải được ưu tiên giải quyết trong
những năm tới. Tỷ lệ cán bộ y tế tuyến xã có kiến thức và kỹ năng đúng trong
sơ cấp cứu, chẩn đoán và điều trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý
bệnh dịch rất hạn chế (17,3% số bác sĩ và y sĩ có kiến thức và kỹ năng đúng
trong xử trí sơ cấp cứu, 17% số bác sĩ và y sĩ được hỏi biết được các dấu hiệu
nguy hiểm trong thời kỳ phụ nữ mang thai, 50,5% cán bộ được hỏi biết cách
chẩn đoán tăng huyết áp, 15,6% biết cách xử trí một vụ dịch...) [19]. Kết quả
từ một số khảo sát khác cũng cho thấy kiến thức về chăm sóc sơ sinh của cán
bộ TYT chỉ đạt 60% so với Chuẩn Quốc gia [22], 54,3% bác sĩ có kiến thức
đúng về chẩn đoán và điều trị các mức độ mất nước do tiêu chảy [23].
1.4. Nguồn lực và hoạt động khám chữa bệnh tại bệnh viện huyện
1.4.1. Nguồn lực
- Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực bao gồm tất cả các CBYT (Bác sỹ, dược
sỹ, y tá điều dưỡng, kỹ thuật viên, nữ hộ sinh, dược tá) làm việc tại BV
huyện. Theo quy chế mới của Bộ Y tế hiện nay BV huyện cần 1,1 – 1,2
CBYT/GB [14]. Cơ cấu CBYT của BV huyện phải hợp lý. Tuy nhiên
nhiều BV huyện ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được mức này, hơn
nữa trình độ chủ yếu là trung học và sơ học (CBYT trung học chiếm
22
53,63% và sơ học chiếm 10,6% CBYT huyện), tỷ lệ cán bộ đại học còn thấp
(22,3%), đặc biệt trên đại học rất ít (0,2%).
- Nguồn lực về cơ sở hạ tầng – vật tư trang thiết bị y tế: TTBYT là những
máy móc, dụng cụ, vật tư thiết bị dùng để khám, chẩn đoán và điều trị
bệnh. TTBYT hiện đại góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh cho người dân, tuy nhiên để sử dụng có hiệu quả TTBYT
thì lại đòi hỏi người CBYT có kiến thức và không ngừng nâng cao tay
nghề. Trong tình hình chung của ngành, TTBYT của BV huyện cũng được
cải thiện nhiều, hầu hết của các BV huyện đã có máy chụp XQuang, các
máy xét nghiệm thông thường, 30% có máy siêu âm và một số BV đã có
máy điện tim.
- Nguồn lực tài chính tại BV huyện: các nguồn thu của bệnh viện huyện gồm:
ngân sách nhà nước 58%; bảo hiểm y tế 16%; viện phí 13%; viện trợ 13%.
1.4.2. Các hoạt động khám chữa bệnh tại bệnh viện huyện
∗
Hoạt động khám bệnh
Do mức sống được nâng cao, người dân ngày càng quan tâm đến sức
khoẻ của mình hơn nên nhu cầu khám chữa bệnh cũng tăng lên. Hiện nay, sự
đầu tư dành cho y tế ổn định, trang thiết bị từng bước hiện đại hơn nên chất
lượng khám chữa bệnh cũng tốt hơn đòi hỏi tay nghề sử dụng cao của người
thầy thuốc.
Mạng lưới KCB ngày càng được mở rộng cả ở khu vực nhà nước và tư
nhân. Đến hết năm 2012, cả nước có 1180 bệnh viện với tổng số trên 200 000
giường bệnh đạt 25,04 giường bệnh/10 000 dân (không tính trạm y tế xã,
giường công lập là giường kế hoạch). Số giường thực kê tương đương 111%
tổng số giường kế hoạch trong bệnh viện công lập, nhưng không kèm theo
nguồn lực từ ngân sách nhà nước phân cho bệnh viện. Theo số liệu thống kê
của WHO năm 2012, số giường bệnh/10 000 dân của Việt Nam thuộc mức
cao nhất trong khu vực Đông Nam Á [24]. Theo phân cấp quản lý hành chính,
23
có 35 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, 382 bệnh viện tuyến tỉnh (bệnh viện tỉnh
và bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh) có số giường bệnh chiếm khoảng 50%
tổng số giường và 561 bệnh viện tuyến huyện với số giường bệnh chiếm 30%.
Có 48 bệnh viện ngành, chủ yếu là bệnh viện đa khoa với số giường chiếm tỷ
lệ 4,2%. Các bệnh viện đa khoa và bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh (chủ yếu
bao gồm: lao, tâm thần, YHCT, nhi hoặc sản nhi, mắt, phục hồi chức năng,..)
đều tập trung ở tỉnh lỵ [25]. Hầu hết các huyện đều có bệnh viện đa khoa hoặc
bệnh viện đa khoa khu vực thực hiện cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh ban
đầu. Cả nước hiện có 150 bệnh viện tư nhân được cấp phép hoạt động với
khoảng 9611 giường bệnh. Đặc điểm chung của mạng lưới dịch vụ khám,
chữa bệnh tư nhân là tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố lớn (TP Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Nghệ An, Thanh Hóa, An Giang, v.v.), các khu vực
đô thị, nơi người dân có thu nhập cao và có khả năng chi trả. Cung ứng dịch
vụ của các bệnh viện tư nhân cũng tập trung vào một số lĩnh vực dễ thu hồi
vốn, thời gian nằm viện ngắn hoặc các chuyên khoa có nhu cầu lớn như phụ
sản, nhãn khoa, ung bướu, nha khoa, hoặc đa khoa diện hẹp. Mặc dù có những
rào cản về địa lý và tài chính, song tỷ lệ tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế tư
nhân của người dân có xu hướng tăng ở tất cả các nhóm đối tượng, kể cả
nhóm người nghèo, phụ nữ, các đối tượng khó khăn. Điều này cũng góp phần
giảm quá tải ở các bệnh viện công cùng chuyên ngành [17].
Một số chỉ số khám chữa bệnh đạt khá cao. Tổng số lần khám bệnh năm
2000 là 137.540.292 với số lần khám bệnh trung bình là 1,77 [26]. Năm 2001
là 146.944.901 với số lần khám bệnh khám bệnh trung bình/người là 1,87 [27]
và năm 2002 là 155.586.076 với tỷ lệ khám bệnh/người là 1,95 [28]. Năm
2012, tổng số lần khám bệnh là 208.060.135 với số lần khám bệnh trung bình
là 2,34 [29].
Số lượt khám trung bình/đầu người tăng, các loại hình khám chữa bệnh
cũng được mở rộng như: KCB bằng bảo hiểm y tế, KCB theo yêu cầu, KCB
24
định kỳ… Đặc biệt, tại các huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long thì việc
thống kê tình hình KCB để biết được nhu cầu và khả năng tiếp cận dịch vụ y
tế của người dân là rất cần thiết [30].
∗Hoạt động điều trị:
Hiện nay cả nước ta có 1.195 BV, 202.308 giường bệnh, trong đó: 328
BV tỉnh/thành phố, 622 BV huyện, 155 BV tư nhân và bán công. Số giường
bệnh các tuyến tăng đáng kể, nhất là số giường bệnh thực kê. Năm 2012, cả
nước đã tăng thêm 14.269 giường bệnh kế hoạch và 14.918 giường bệnh thực
kê (trong khu vực y tế công lập). Tỷ lệ giường bệnh kế hoạch trên 10.000 dân
năm 2012 là 22,4 (không tính trạm y tế xã), tăng 1,4 giường so với năm 2011.
Số giường bệnh tăng thêm tập trung ở tuyến tỉnh và tuyến huyện. Riêng tuyến
trung ương xây mới và bổ sung thêm 1050 giường bệnh. tại các Bệnh viện K,
Bệnh viện Nội tiết, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện đa khoa Trung ương
Quảng Nam v.v….BVH là tuyến đầu tiên bắt đầu có định mức giường bệnh
nội trú. Vì vậy công tác điều trị cũng là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của BV huyện, gồm cấp cứu và điều trị một số bệnh thông thường.
Công tác điều trị cũng là một chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động
của BV huyện [16], [17].
Thực hiện quyết định 153/2006/QĐ–TTg ngày 30/6/2006 của Thủ
tướng chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y
tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, nhà nước
đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các cơ sở y tế công lập (trong
đó có bệnh viện huyện) nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, nâng cao
tinh thần trách nhiệm và hiệu quả công tác của cơ sở [31]. Do đó các
BVH phải sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất, đảm bảo công
tác khám chữa bệnh, CSSK cho nhân dân, đồng thời tránh tình trạng quá
tải.
25