Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị của thuốc “trúng phong hoàn” trên bệnh nhân nhồi mãu não giai đoạn cấp (trúng phong kinh lạc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 116 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch não (TBMN) là một bệnh lý thần kinh phổ biến và là một
vấn đề thời sự cấp bách. TBMN là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ
ba sau bệnh tim mạch và ung thư [1].
Theo Bethoux, tỷ lệ mắc TBMN của các nước phương Tây ước tính 5%
đến 10% dân số [2]. Tổ chức Y tế Thế giới thống kê, mỗi năm có hơn 4,5 triệu
người tử vong do TBMN. Riêng ở Châu Á hàng năm tử vong do TBMN là 2,1
triệu người [1], [3].
Ở Hoa Kỳ năm 2000 có khoảng 700.000 người bị đột quỵ não mới mắc,
trong đó có 500.000 trường hợp đột quỵ não lần đầu. Dự báo đột quỵ vẫn có
xu hướng tăng trong ba mươi năm tới: năm 1995 có 12,8% người Mỹ trên 65
tuổi bị đột quỵ não và tới năm 2025 sẽ có khoảng 18,7% [4], [5].
Tỷ lệ TBMN ở Châu Phi, Châu Á và các nước và khu vực đang phát
triển tương đương với Châu Âu, Châu Mỹ. Tại Trung Quốc, thống kê có tới
6.000.000 người bị đột quỵ, trong đó nhồi máu não (NMN) chiếm 62%.
Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh đang tăng nhanh với mức độ đáng lo ngại.
Theo Lê Văn Thành và cộng sự, điều tra một số địa phương ở miền Nam cho
kết quả của bệnh tương đương với các nước trên thế giới [6].
Trong những năm gần đây với sự tiến bộ không ngừng của y học, các
phương pháp điều trị TBMN ngày càng được hoàn thiện, chất lượng điều trị
ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Y học hiện đại
(YHHĐ) đã đạt được trong chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức năng cho
bệnh nhân (BN) TBMN, Y học cổ truyền (YHCT) cũng đã có những đóng góp
tích cực trong dự phòng, điều trị và phục hồi chức năng cho những BN này. Kết
hợp YHHĐ và YHCT, dùng thuốc và không dùng thuốc đã đưa lại kết quả khá
lớn trong chẩn đoán và điều trị. Nhiều nghiên cứu đã cho ra các chế phẩm dựa
trên các bài thuốc cổ phương, nghiệm phương rất tiện sử dụng và đã đem lại



2
kết quả tốt trong điều trị như: Luotai, Phức phương đan sâm, Hoa đà tái tạo
hoàn, Ngưu hoàng thanh tâm...
Từ lâu nay, trong nhân dân có nhiều những bài thuốc nghiệm phương
điều trị TBMN rất hiệu quả nhưng chưa có những nghiên cứu cơ bản và có hệ
thống. “Thần dược cứu mệnh” là bài thuốc được dùng phổ biến trong nhân
dân. Bài thuốc gồm có 3 vị là: Hắc đậu, Địa long, Hắc diện thần. Bài thuốc
này thường được dùng dưới dạng thuốc sắc, việc này rất mất thời gian, không
phù hợp để điều trị một bệnh cấp tính như chứng trúng phong. Năm 1997
Lương y Nguyễn An Định đã tổng hợp những kinh nghiệm này trong nhân
dân viết bài trên một số báo ở Long An.
Trúng phong hoàn có nguồn gốc từ bài thuốc trên, để làm giảm tính
lạnh của một số vị thuốc trong bài thuốc (Hắc đậu, Địa long) bài thuốc
được gia thêm Trần bì và được Viện YHCT Quân đội bào chế dưới dạng
viên hoàn mềm. Trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp Bộ quốc phòng, sau
khi hoàn thành các nghiên cứu thực nghiệm đã kết luận: viên hoàn mềm
Trúng phong hoàn không xác định được liều LD50, không gây ảnh hưởng đến
thể trạng chung, chức năng tạo máu, chức năng gan thận trên động vật thực
nghiệm và có thể sử dụng trên lâm sàng.
Để đánh giá tác dụng của chế phẩm này trên lâm sàng tôi tiến hành
nghiên cứu bài thuốc “Trúng phong hoàn” trong điều trị NMN cấp (trúng
phong kinh lạc, thể can thận âm hư) với hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị của thuốc “Trúng phong hoàn” trên
bệnh nhân NMN giai đoạn cấp (trúng phong kinh lạc, thể can thận âm hư).
2. Tìm hiểu tác dụng không mong muốn của thuốc “Trúng phong
hoàn” trên lâm sàng và cận lâm sàng.


3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU MẠCH MÁU NÃO
Não được tưới máu bởi hai hệ động mạch: hệ động mạch cảnh trong và
hệ động mạch đốt sống - thân nền [7], [8].

Hìn
h 1.1. Hệ động mạch não [9].
- Hệ động mạch cảnh trong: tưới máu cho 2/3 trước của bán cầu đại não
và chia làm 4 ngành tận:


4
+ Động mạch não trước: tưới máu cho mặt trong của bán cầu, mặt dưới
và mặt ngoài thuỳ trán.
+ Động mạch não giữa: tưới máu cho mặt ngoài bán cầu, vùng trán - thái
dương, đỉnh - thái dương, nửa trước thuỳ chẩm.
+ Động mạch thông sau: tạo sự nối thông của vòng mạch đa giác Willis.
+ Động mạch mạc mạch trước: chạy vào các mạch để tạo thành đám rối
mạc mạch bên, giữa, trên.
- Hệ động mạch đốt sống - thân nền: cung cấp máu cho 1/3 sau của bán
cầu đại não, tiểu não và thân não. Hai động mạch não sau là hai nhánh tận
cùng của động mạch đốt sống thân nền, tưới máu cho mặt dưới của thuỳ thái
dương và mặt giữa thuỳ chẩm.
1.2. TAI BIẾN MẠCH NÃO THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.2.1. Định nghĩa và phân loại tai biến mạch não
1.2.1.1. Định nghĩa
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1989: “Tai biến mạch não là
tình trạng mất đột ngột hoặc cấp tính các chức năng của não, tồn tại trên 24
giờ hoặc dẫn tới tử vong trước 24 giờ. Các triệu chứng thần kinh khu trú phù

hợp với sự cấp máu và nuôi dưỡng của động mạch não, loại trừ yếu tố chấn
thương sọ não” [3].
1.2.1.2. Phân loại theo lâm sàng
Tai biến mạch não chia làm 2 thể chảy máu não và NMN. Trong đó NMN
xảy ra khi một mạch máu bị tắc một phần hoặc toàn bộ, khu vực não không
được nuôi dưỡng sẽ bị thiếu máu hoặc hoại tử [3].
Nhồi máu não gồm: huyết khối động mạch não; tắc mạch não; nhồi máu
não ổ khuyết.
1.2.2. Nhồi máu não
1.2.2.1. Định nghĩa: nhồi máu não là quá trình bệnh lý trong đó động mạch
não bị hẹp hoặc bị tắc, lưu lượng tuần hoàn tại vùng não do động mạch não


5
đó nuôi dưỡng bị giảm trầm trọng, dẫn đến chức năng vùng não đó bị rối
loạn [3].
1.2.2.2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân gây ra NMN trong đó có 3 nguyên nhân lớn đó là:
huyết khối mạch, co thắt mạch và nghẽn mạch.
* Huyết khối mạch (thrombosis): do tổn thương thành mạch tại chỗ, tổn
thương đó lớn dần lên rồi gây hẹp và tắc mạch phần lớn do vữa xơ động mạch.
Thường liên quan chặt chẽ với tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, viêm động
mạch và một số nguyên nhân khác [3], [10], [11].
* Tắc mạch (embolism): do cục máu đông di chuyển từ một mạch máu ở
xa não, nguồn gốc do bệnh lý tim mạch như hẹp van hai lá, rung nhĩ, viêm nội
tâm mạc nhiễm khuẩn..., hoặc do các mảng vữa xơ ở các mạch máu bị vữa xơ
động mạch bong ra, theo dòng máu di chuyển lên não, gây tắc mạch . Các
nguyên nhân khác như tắc mạch não do mổ, do không khí... [10], [12].
* Co thắt mạch (vasocontriction): là do sự mất cân bằng các chất giãn
mạch của tế bào nội mô và sự tăng tổng hợp của các chất gây co mạch trong

động mạch não, gây co thắt mạch não, làm cản trở lưu thông máu; hay gặp
trong xuất huyết dưới nhện, sau đau nửa đầu Migraine, sau sang chấn, sau sản
giật... [1], [10].
1.2.2.3. Sinh lý bệnh
Trong tình trạng thiếu máu não cục bộ, có nhiều cơ chế (tự điều hoà,
tuần hoàn bàng hệ) được phát động để đảm bảo cung cấp oxy cho vùng thiếu
máu. Tổn thương của mô não ở sau nơi mạch máu não bị tai biến xuất hiện
phụ thuộc vào lưu lượng máu đến nuôi dưỡng [13].
Các nghiên cứu cho thấy, NMN sẽ xảy ra khi lưu lượng dòng máu não
giảm xuống dưới 18 đến 20ml/100g não/phút. Trung tâm của ổ NMN là vùng
hoại tử có lưu lượng dòng máu từ 10 đến 15 ml/100g não/phút, còn xung
quanh vùng này (gọi là vùng nửa tối) có lưu lượng dòng máu là 20 đến 25
ml/100g não/phút. Ở đây tuy các tế bào não vẫn còn sống nhưng không


6
hoạt động. Các rối loạn sinh hóa ở vùng nửa tối có thể hồi phục được khi
tuần hoàn được tái lập về mức bình thường trong vòng ba giờ đầu, đây còn
gọi là vùng điều trị trong NMN. Lưu lượng máu càng thấp thì thời gian đưa
đến thiếu máu não cục bộ càng sớm, khả năng hoại tử tế bào thần kinh càng
nhiều [14].

Hình 1.2. Vùng nửa tối (vùng điều trị) trong nhồi máu não [15]
1.2.2.4. Lâm sàng
Thời gian xảy ra NMN thường vào ban đêm hoặc sáng sớm, khởi phát
cấp tính, đột ngột, các triệu chứng lâm sàng tăng nhanh tối đa ngay từ đầu, ý
thức tỉnh táo hoặc lú lẫn, ít khi có hôn mê.
Liệt dây VII trung ương và liệt nửa người cùng bên khi tổn thương ở bán
cầu đại não, hoặc liệt dây III, dây VII ngoại vi bên tổn thương và liệt nửa
người bên đối diện, nếu tổn thương ở vùng thân não nói chung, có thể có rối

loạn ngôn ngữ nếu tổn thương bên bán cầu não ưu thế.
Rối loạn cơ tròn: bí tiểu tiện hoặc tiểu tiện không tự chủ.
Rối loạn thần kinh thực vật như tăng huyết áp nhẹ, thở nhanh nông, có
thể tăng tiết đờm rãi.
Rối loạn tâm thần: dễ xúc động, trầm cảm [3], [13].
Gồm có ba thể lâm sàng là


7
 Nhồi máu não lớn và toàn bộ bán cầu: thường xảy ra khi ổ
NMN trên 75% diện tích của khu vực cấp máu của động mạch não giữa
và động mạch não trước hoặc toàn bộ ba khu vực động mạch phối hợp
với nhau [16].
 Nhồi máu ổ khuyết: là những ổ nhồi máu nhỏ (kích thước nhỏ hơn
1,5cm) nằm sâu do tổn thương các nhánh xiên của các động mạch lớn [3]. Do
tắc những nhánh xiên nên gây ra ổ nhồi máu nhỏ và khu trú, khi mô não hoại
tử được lấy đi thì còn lại một xoang nhỏ. Có sự kết hợp giữa hội chứng ổ
khuyết và tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và đái tháo đường [17].
 Nhồi máu vùng phân thùy: giảm lưu lượng máu tới não gây tổn
thương ở giữa vùng phân bố của động mạch. Nhồi máu vùng ranh giới giữa
động mạch não giữa và động mạch não sau gây bán manh. Nếu tổn thương
bên bán cầu trội có rối loạn ngôn ngữ, mất chú ý nửa bên thân người [1].
1.2.2.5. Các yếu tố nguy cơ của tai biến mạch não
Các yếu tố nguy cơ được chia thành hai nhóm: nhóm yếu tố không biến
đổi được và nhóm yếu tố có thể biến đổi được [17], [18], [19].
 Nhóm yếu tố không biến đổi được: Tuổi; Giới; Chủng tộc; Địa lý;
Di truyền [18], [20].
 Nhóm yếu tố có thể biến đổi được
* Tăng huyết áp: được coi là nguy cơ hàng đầu trong cơ chế bệnh sinh
của TBMN. Tỷ lệ TBMN ở người tăng huyết áp so với những người huyết áp

bình thường sẽ tăng từ 2,9 lần (đối với nữ) đến 3,1 lần (đối với nam) [18],
[19]. Dùng thuốc huyết áp theo khuyến cáo về thái độ điều trị huyết áp ở bệnh
nhân TBMN thể NMN và không có chỉ định dùng thuốc tiêu sợi huyết
(AHA/ASA 2005 Guideline Update).
Mức huyết áp
HAtt ≤ 220 hoặc
HAttr ≤ 120mmHg

Thái độ
Theo dõi (chỉ cho thuốc hạ huyết áp khi có các
biến chứng nhồi máu cơ tim, tách thành động


8

HAtt ≥ 220 hoặc
HAttr 121 - 140mmHg
HAttr > 140mmHg

mạch chủ, phù phổi, bệnh não do tăng huyết áp).
Labetalol 10 - 20mg tĩnh mạch hoặc, Nicardipin
5mg/giờ (tĩnh mạch) → hạ khoảng 10 - 15% chỉ số số
huyết áp.
Nitroprussid 0,5mg/kg/phút (tĩnh mạch) → hạ
khoảng 10 - 15% chỉ số huyết áp.

* Rối loạn chuyển hoá lipid: lipid trong huyết tương tồn tại dưới dạng
kết hợp với apoprotein và được chia làm ba loại: lipoprotein trọng lượng phân
tử thấp; lipoprotein trọng lượng phân tử cao; triglycerid [19], [21], [22].
* Tiền sử cơn thiếu máu não thoáng qua: nguy cơ xảy ra TBMN sau cơn

thiếu máu thoáng qua là 10% trong năm đầu tiên; sau đó trong năm năm tiếp
theo, mỗi năm có tỷ lệ 5% [19].
Ngoài ra, còn một số yếu tố khác cũng được xếp vào nhóm này như các
bệnh lý tim mạch, đái tháo đường, béo phì, lạm dụng rượu, tăng homocystein
trong máu, hẹp động mạch cảnh chưa có triệu chứng, các yếu tố đông máu, tình
trạng kháng insulin, nghiện thuốc lá, sử dụng thuốc ngừa thai, lạm dụng thuốc
và dùng thuốc gây nghiện, ít vận động thể lực, bệnh tế bào hình liềm, tăng
acid uric máu, nhiễm khuẩn, yếu tố tâm lý [12], [18], [19], [21].
1.2.2.6. Xét nghiệm cận lâm sàng
 Các xét nghiệm thường quy
* Xét nghiệm máu: urê, creatinin, glucose, cholesterol LDL, cholesterol
HDL, cholesterol và triglycerid… [1], [3].
* Chụp X quang tim phổi: nhằm phát hiện các bệnh lý ở phổi, phế quản [3].
* Điện tâm đồ và siêu âm tim: nhằm phát hiện bệnh lý tim [1].
 Các xét nghiệm chuyên biệt
* Xét nghiệm dịch não - tuỷ: trong NMN, dịch não - tủy trong, các thành
phần dịch não - tủy không thay đổi [13].


9
* Điện não: thường thấy hoạt động điện não giảm, nhưng những thay đổi
này không đặc hiệu [23].
* Chụp động mạch não: chụp động mạch số hoá xoá nền cho hình ảnh
động mạch não rõ nét, phát hiện được tắc, hẹp mạch máu, phình mạch, dị
dạng mạch, co thắt mạch não [23].

* Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) sọ não
- Ở giai đoạn sớm, NMN có các biểu hiện rất kín đáo: mất dải đảo, mờ
nhân đậu, xoá các rãnh cuộn não, dấu hiệu động mạch tăng đậm độ, giảm đậm
độ vượt quá hai phần ba vùng phân bố của động mạch não giữa... [16].

- Hình ảnh nhồi máu - chảy máu: có sự kết hợp một hình ảnh tăng tỷ
trọng tự nhiên ở trong một vùng giảm tỷ trọng [10], [24].
- Trên thực tế chụp CLVT sọ não cho kết quả âm tính xấp xỉ một phần
ba số trường hợp TBMN đã được chẩn đoán lâm sàng [10], [24].

Ổ nhồi máu

Ổ nhồi máu

Hình 1.3. Hình ảnh ổ nhồi máu não trên phim cắt lớp vi tính sọ não
(Nguồn: hinhanhhoc.com)


10
* Chụp cộng hưởng từ và chụp mạch cộng hưởng từ: đây là phương
pháp hiện đại nhất, rõ ràng những vùng não tổn thương, có độ nhạy cao,
không bị nhiễu ảnh ở vùng hố sau. Có thể dựng ảnh nhiều chiều, phương pháp
chụp mạch cộng hưởng từ không phải tiêm thuốc cản quang và mạch não.
Nhưng phương pháp này có nhược điểm là: khó phân định, dễ gây nhầm lẫn
với một số tổn thương khác không do thiếu máu não nhưng cũng có thay đổi
tương tự như u não, các tổn thương viêm nhiễm. Hình ảnh: chủ yếu tăng tín
hiệu trong thì T2 [25].
* Xạ hình tưới máu não bệnh lý trên máy chụp cắt lớp phát điện tử dương
và chụp cắt lớp phát photon đơn: cung cấp những hình ảnh động học về quá
trình tưới máu não, các tổn thương mạch máu não, giúp chẩn đoán sớm, chính
xác các tổn thương mạch não, bổ sung thêm các thông tin về hình ảnh giải
phẫu và hình thái của chụp CLVT và cộng hưởng từ [25].
* Siêu âm Doppler: để phát hiện dấu hiệu tắc, hẹp hệ động mạch cảnh
trong và ngoài sọ [3], [25].
1.2.2.7. Tiên lượng: phụ thuộc vào các yếu tố sau: tuổi cao, tình trạng chung

kém; huyết áp tăng cao, có những cơn tăng huyết áp ác tính; rối loạn ý thức
nặng; bội nhiễm phổi, tiết niệu, loét các điểm tỳ đè; có các bệnh nội khoa mạn
tính kết hợp như bệnh tim, phổi, thận, gan...; tiền sử TBMN cũ; có từ hai yếu
tố nguy cơ trở lên [26].
1.2.2.8. Chẩn đoán
 Chẩn đoán nhồi máu não
* Lâm sàng
Triệu chứng chẩn đoán dựa vào định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới:
bệnh đột ngột, có tổn thương chức năng khu trú của não, tồn tại quá 24 giờ
(hoặc tử vong trước 24 giờ), không có yếu tố chấn thương.


11
Tiền sử: huyết áp thấp hoặc tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, đái tháo
đường, bệnh tim… Thường gặp ở người trên 50 tuổi.
Khởi phát đột ngột với tắc mạch, hoặc cấp tính, tăng dần từng nấc đối
với huyết khối, khởi phát từ từ đối với nhồi máu ổ khuyết. Thường xảy ra vào
ban đêm và gần sáng [1], [3].
* Cận lâm sàng: chụp CLVT sọ não có ổ giảm đậm độ thuần nhất.
Ngoài ra, có thể dựa vào cộng hưởng từ sọ não, xét nghiệm dịch não tuỷ, điện tim, xét nghiệm sinh hóa máu, huyết học.



Chẩn đoán các loại nhồi máu não:

* Chẩn đoán NMN do tắc mạch máu não: đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn
và các đặc điểm chung của NMN cả về lâm sàng và cận lâm sàng.
Phải có thêm các yếu tố khẳng định tồn tại một quá trình bệnh lý là
nguồn gốc cục tắc: bệnh lý tim mạch (Bệnh Osler, hẹp van hai lá, rung nhĩ,
loạn nhịp hoàn toàn...), phụ nữ trong hoặc ngay sau sinh, phẫu thuật lớn vùng

cổ, ngực; chấn thương dập nát lớn…
Hay xảy ra ở người trẻ dưới 50 tuổi.
Lâm sàng: các triệu chứng xuất hiện đột ngột và nặng tối đa ngay từ đầu.
Triệu chứng chung có thể rối loạn ý thức nhẹ, co giật chiếm 20 – 25%. Triệu
chứng thần kinh khu trú tùy theo đường kính cục tắc và vị trí gây tắc mạch mà
có các triệu chứng thần kinh khu trú khác nhau.
Cận lâm sàng: chụp CLVT sọ não thấy vùng giảm tỷ trọng phù hợp với
động mạch nuôi não bị tắc [3], [16].
* Chẩn đoán NMN ổ khuyết: Lâm sàng: các triệu chứng thường nhẹ.
Liệt mặt, chi trên và chi dưới, có thể không hoàn toàn nhưng thường là
đồng đều. Liệt nhẹ nửa người kèm loạng choạng. Nói khó - bàn tay vụng
về. Cận lâm sàng: chụp CLVT sọ não có các ổ giảm tỷ trọng nhỏ đ ường
kính nhỏ hơn 1,5cm [16].


12
* Chẩn đoán NMN do huyết khối động mạch não: Lâm sàng: đau đầu, co
giật, nôn ít gặp, rối loạn ý thức nhẹ (hôn mê chỉ khi có nhồi máu diện rộng ở bán
cầu hoặc ở khu vực dưới lều tiểu não), BN có thể có rối loạn cơ tròn, rối loạn
thực vật gặp ở những BN có bệnh cảnh lâm sàng nặng nề. Loại trừ chẩn đoán tắc
mạch não và nhồi máu ổ khuyết. Chẩn đoán xác định bằng chụp CLVT sọ não.
1.2.2.9. Điều trị và phòng chống tai biến mạch não tái phát
 Điều trị
* Điều trị chung, cứu sống người bệnh trong giai đoạn cấp: ổn định các chức
năng sống, chức năng hô hấp và tuần hoàn... [1], [3], [16], [28], [27], [29].
* Điều trị đặc hiệu
- Phục hồi tuần hoàn bị tắc
+ Lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học có thể tái thông được các mạch
máu lớn, cửa sổ điều trị lên 8 giờ đối với tuần hoàn bên và có thể tới 12 giờ
đối với hệ tuần hoàn sau. Vì vậy, lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học là một

phương pháp bổ sung rất tốt cho những hạn chế của thuốc tiêu sợi huyết
đường tĩnh mạch. Có nhiều dụng cụ cơ học lấy huyết khối nhưng sử dụng
stent Solitaire là dụng cụ có hiệu quả hơn cả [30].
+ Tái lập tuần hoàn bằng cách sử dụng các thuốc tiêu huyết khối dùng
chất hoạt hóa plasminogen mô tái tổ hợp (Tissue plasminogen activator/tPA) là
thuốc tiêu sợi huyết được Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ
(FDA) công nhận từ 1996 với liều 0,9mg/kg dùng ngay trong vòng 3 giờ kể từ
khi khởi phát (tiêm liều nạp tĩnh mạch 10%, sau đó truyền phần còn lại trong
vòng 1 giờ, liều tối đa 90 mg) là liều có hiệu quả đã được chứng minh (nghiên
cứu NINDS), cho dù có một tỷ lệ nhất định chuyển dạng NMN thành chảy máu
não (3% chảy máu nặng). Nếu tăng liều tPA cao hơn, thời gian dùng thuốc dài
hơn (trong 6 giờ kể từ khi khởi phát) thì không hề có lợi mà còn tăng nguy cơ
chảy máu não nặng tới 20% (nghiên cứu ECASS) [3], [16], [31].
+ Điều trị chống đông: nhằm làm giảm sự tạo thành thrombin và giảm
cục máu đông giàu fibrin trong TBMN cấp. Thường dùng heparin trọng lượng


13
phân tử thấp (điều trị trong giai đoạn sau cấp), wafarin, coumadin, lovenox
(điều trị dự phòng) [10].
+ Thuốc chống kết tập tiểu cầu: thuốc tiêu biểu là aspirin: nên cho trong
vòng 48 giờ sau tai biến. Các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu khác cũng được
sử dụng như dipyridamol, ticlopidin, clopidogrel… [27], [32].
- Hướng tác động bảo vệ tế bào thần kinh: các thuốc thường dùng:
cerebrolysin, citicolin, vinpocetin (cavinton), piracetam (nootropyl), cao ginkgo
biloba (tanakan)… [1], [10], [28].
* Phòng và điều trị các biến chứng: viêm phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu,
suy dinh dưỡng, tắc mạch phổi và huyết khối tĩnh mạch sâu, loét do tỳ đè, co
giật, kích động ... [16]. Tăng áp lực trong sọ và phù não: điều trị nội khoa
hoặc phẫu thuật giảm áp [1], [3].

* Phòng bệnh cấp hai nhằm giảm tỷ lệ tai biến tái phát, kiểm soát tốt
tăng huyết áp, sử dụng thuốc chống đông.
* Chế độ dinh dưỡng, chăm sóc hộ lý và phục hồi chức năng: phải đảm
bảo cho BN ăn uống đủ dinh dưỡng, chống loét, chống bội nhiễm, điều trị
phục hồi chức năng phải được bắt đầu càng sớm càng tốt khi bệnh cảnh lâm
sàng và tình trạng toàn thân của BN cho phép. Nguyên tắc phục hồi là khôi
phục lại các mẫu vận động bình thường vốn có trên cơ sở loại bỏ các mẫu vận
động bất thường [33], [34].
Phòng chống tai biến mạch não tái phát
* Điều trị các yếu tố nguy cơ [1], [3]
Để giảm tỷ lệ TBMN trong cộng đồng vẫn là phòng bệnh. Theo khuyến
cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, dự phòng TBMN bằng cách giảm các yếu tố
nguy cơ. Chống các yếu tố nguy cơ trong cộng đồng có thể làm giảm 80%
nguy cơ TBMN.
Phương pháp dự phòng gồm hai loại:
- Dự phòng cấp 1: khi chưa mắc TBMN, giữ không để xảy ra TBMN.


14
- Dự phòng cấp 2: áp dụng khi dự phòng cấp 1 đã thất bại, dự phòng cấp
2 không cho TBMN tái phát.
* Phẫu thuật động mạch cảnh: nhằm loại bỏ nguyên nhân gây tắc và tái
lập tuần hoàn mạch cảnh [35].
1.3. TAI BIẾN MẠCH NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Trong YHCT không có bệnh danh TBMN nói chung và NMN nói riêng.
Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột như trong giai
đoạn cấp của YHHĐ thì YHCT xếp TBMN vào chứng trúng phong là chứng
bệnh này đã được đề cập tới từ hơn 2.000 năm nay trong các y văn cổ như “Nội
kinh” qua các thời kỳ lịch sử được bổ sung và hoàn thiện dần [36], [37].
1.3.1. Quan niệm, nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh của chứng trúng phong

1.3.1.1. Quan niệm và nguyên nhân
Trúng phong là bệnh phát sinh cấp, đột ngột và rất nặng, triệu chứng
thường nhiều biến hóa, phù hợp với tính thiện hành đa biến của phong. Đột
nhiên BN ngã ra bất tỉnh hoặc vẫn còn tỉnh, bán thân bất toại hoặc tứ chi
không cử động được, miệng méo, mắt lệch, nói khó [39].
Bệnh được ghi chép trong sách Nội kinh là “tà khí xâm phạm vào nửa
người làm dinh vệ bị hao tổn nên chân khí mất, chỉ còn tà khí lưu lại gây nên
thiên khô” [36], [37]. Các thầy thuốc đời sau do điều kiện lâm sàng và kinh
nghiệm khác nhau, nên về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh, cách điều trị đối
với bệnh này ý kiến không thống nhất. Sự phát triển đó chia làm hai giai
đoạn: Từ thời trước Đường, Tống lấy học thuyết ngoại phong là chính
[39], [40]. Đến thời Kim Nguyên thì nêu lập luận nội phong. Đây là bước
chuyển biến lớn về nhận thức bệnh trúng phong và nguyên nhân gây ra bệnh
này [37], [38], [39], [40].
Danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV) đã nói: “Trúng phong là đầu mối các
bệnh, biến hoá lạ thường và phát bệnh khác biệt. Triệu chứng là thình lình ngã
ra, hôn mê bất tỉnh, miệng méo mắt lệch, sùi bọt mép, bán thân bất toại, nói


15
năng ú ớ, chân tay cứng đờ không co duỗi được. Các chứng trạng như thế đều
là trúng phong cả” [41].
Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: “Trúng phong là bỗng
nhiên ngã vật ra, người mắc bệnh này bảy đến tám phần do âm hư, còn do
dương hư chỉ một hai phần, bệnh phần nhiều do hư yếu bên trong mà sinh ra
phong, thỉnh thoảng mới có ngoại phong...” [42].
Bệnh danh trúng phong xuất hiện trong sách Nội kinh, ngoài ra còn có
tên gọi khác: thiên phong, thiên khô, thiên thân bất dụng, phốc kích… Trong
“Kim quỹ yếu lược” của Trương Trọng Cảnh cũng nêu bệnh danh trúng
phong và được dùng liên tục đến nay [37], [38].

Ngày nay các thầy thuốc YHCT cho rằng nguyên nhân của trúng
phong là do:
+ Nội thương hao tổn: tố chất cơ thể âm huyết suy, dương thịnh hoả
vượng, phong hoả dễ tích hoặc do cơ thể già yếu can thận âm hư, can
dương thiên thịnh, khí huyết thượng nghịch, thượng bít thần khiếu đột
nhiên mà phát bệnh [37].
+ Ẩm thực bất tiết: do ăn uống không điều độ, ảnh hưởng đến công năng
tỳ vị, thấp nội sinh tích tụ sinh đàm, đàm thấp sinh nhiệt, nhiệt cực sinh
phong, phong kết hợp với đàm phạm vào mạch lạc, đi lên trên làm tắc thanh
khiếu gây bệnh [48].
+ Tình chí thương tổn: uất nộ thương can, can khí uất kết, khí uất hoá
hoả, can dương bạo cang, thận thủy hư không chế ước được tâm hoả, khí
huyết thượng xung lên não mà gây bệnh [37].
+ Khí huyết hư tà trúng vào kinh lạc: do khí huyết không đủ, mạch lạc
hư rỗng nên phong tà nhân chỗ hư trúng vào kinh lạc làm khí huyết tắc trở.
Hoặc người béo khí suy, đàm thấp thịnh, ngoại phong dẫn động đàm thấp bế
tắc kinh lạc gây nên bệnh [43].


16
Như vậy, nguyên nhân và cơ chế gây trúng phong rất phức tạp nhưng
quy lại không ngoài sáu yếu tố là phong (nội phong, ngoại phong), hỏa (can
hỏa, tâm hỏa), đàm (phong đàm, thấp đàm, nhiệt đàm), huyết (huyết hư, huyết
ứ), khí (khí hư, khí trệ, khí nghịch) và hư (tỳ hư, can thận hư, âm hư). Trong
những yếu tố đó thì can thận âm hư là căn bản, huyết ứ thường xuyên xảy ra,
hai yếu tố này tác động lẫn nhau làm cho phong động, khí huyết nghịch loạn,
gây trúng phong [37], [39], [44], [45], [46].


17


1.3.1.2. Cơ chế bệnh sinh
Nội kinh, Kim quỹ coi nguyên nhân gây bệnh là “Nội hư trúng tà”.
Trong Linh Khu nói: “hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh vệ, dinh
vệ yếu thì chân khí mất, còn mình tà khí ở lại trở thành thiên khô” [36].
Kim quĩ yếu lược nói: “Kinh mạch hư không phong tà thừa cơ xâm nhập
gây chứng trúng phong, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng hậu ở
kinh lạc hay tạng phủ” [37], [47].
Nhìn chung từ đời Đường, Tống (618 - 1279) về trước, tuy các tác giả
ghi nhận trúng phong có liên quan đến nội hư nhưng lại coi trọng phương
diện ngoại nhân. Từ đời Kim Nguyên (1280 - 1368) về sau, đối với trúng
phong các tác giả cho rằng chủ yếu là do nội phong như Lưu Hà Gian chủ về
hoả thịnh: “do các yếu tố bên trong làm cho tâm hỏa thịnh, thận thủy suy
không chế ước được tâm hỏa” [48].
1.3.2. Phân loại, điều trị trúng phong
1.3.2.1. Phân loại
Kim quỹ yếu lược viết: “tà ở lạc, cơ phu bất nhân, tà ở kinh trọng bất
thắng (vận động khó), tà ở phủ bất thức nhân (có rối loạn ý thức), tà khí ở
tạng thiệt nạn ngôn, thổ đờm dãi” [39]. Trên cơ sở đó sau này phân thành
trúng phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ [39], [49].
- Trúng phong kinh lạc: Mức độ nhẹ, liệt nửa người không có hôn mê, tê
tay chân, đi lại nặng nề, mắt miệng méo.
- Trúng phong tạng phủ: Bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa người có
hôn mê, có hai chứng.
Chứng bế: Bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai bàn tay nắm
chặt, da mặt đỏ, chân tay ấm, không có rối loạn cơ tròn, mạch huyền hữu lực.
Chứng thoát: Bất tỉnh, mắt nhắm, miệng há, tay duỗi, chân tay lạnh, có
rối loạn cơ tròn, mạch trầm huyền vô lực [49].
1.3.2.2. Điều trị



18
Trong giai đoạn cấp tính về cơ bản có ba trạng thái: không có rối loạn ý
thức, hôn mê nông và hôn mê sâu [48].
- Điều trị ở giai đoạn không có rối loạn ý thức, chỉ có liệt nửa người
thuộc trúng phong kinh lạc bao gồm các thể:
+ Lạc mạch rỗng hư, phong tà xâm nhập
• Triệu chứng: tự nhiên xuất hiện liệt nửa người, miệng méo, mắt lệch,
nói khó, chân tay tê bì kèm theo có đau đầu, ngạt mũi, đau nhức trong xương,
có thể có sốt, sợ lạnh; chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng; mạch
phù [48], [49].
• Nguyên nhân bệnh sinh: do chính khí bất túc, phong tà thừa hư mà xâm
nhập gây tổn thương kinh lạc. Tố vấn - Thiên Cốt không luận viết: phong tà
có thể gây nên hàng trăm thứ bệnh khác nhau. Trong Thái âm dương minh
thiên cho rằng: khi phong xâm phạm vào cơ thể thường tác động tới phần
dương, gây nên bệnh ở phần trên của cơ thể. Khi phong tà xâm phạm vào bì
phu có thể lưu lại ở cơ phu hoặc vào kinh lạc làm cho cơ phu không được
nuôi dưỡng đầy đủ, nếu thể trạng đàm trọc nội thịnh thì phong kết hợp với
đàm tác động tới kinh lạc [48], [49].
• Pháp điều trị: Khứ phong, thông lạc, hoạt huyết, hóa vinh [49].
• Phương thuốc: Đại tần giao thang [49].
+ Phong đàm thượng nhiễu, đàm nhiệt phủ thực
•Triệu chứng: BN đau đầu, chóng mặt, nhiều đờm, đột ngột hoặc từ từ
dẫn tới liệt nửa người, miệng méo mắt lệch, chân tay tê bì, nói khó, tinh thần
không tỉnh táo, đại tiện táo. Lưỡi bệu màu đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng nhớt. Mạch
huyền hoạt hoặc huyền sác [48].
• Nguyên nhân bệnh sinh: do ăn uống không điều độ, ăn quá nhiều đồ
cay nóng, đồ béo ngọt hoặc do lao động quá mệt nhọc làm cho tỳ mất kiện
vận, thủy thấp sẽ tích tụ lại sinh ra đàm, đàm uất lâu ngày hoá nhiệt gây trở
trệ kinh lạc, che lấp thanh khiếu. Nếu tinh thần uất ức, quá tức giận làm cho



19
can phong nội động. Phong kết hợp với đàm, với nhiệt gây nên tình trạng bế
trở kinh lạc, ảnh hưởng tới sự lưu thông của khí huyết, che lấp thanh khiếu mà
gây nên bệnh [48].
• Pháp điều trị: Hoá đàm thanh phủ [48].
• Phương thuốc: Đạo đàm thang [48].
+ Can thận âm hư, phong dương thượng nhiễu
•Triệu chứng: BN đau đầu, chóng mặt, miệng khô, ù tai, ngủ ít hay mê,
đau lưng mỏi gối, chân tay tê bì. Liệt nửa người, miệng méo, mắt lệch, nói
khó. Đại tiện táo, nước tiểu vàng. Chất lưỡi đỏ, lưỡi ít rêu hoặc rêu vàng.
Mạch huyền tế sác hoặc huyền hoạt [48], [49].
• Nguyên nhân bệnh sinh: Tố vấn - Thiên Sinh khí thông thiên luận viết:
do phiền lao mà ảnh hưởng tới dương khí, dương khí thăng lên sinh ra phong,
đồng thời gây hao tổn tinh huyết. Tinh huyết bất túc thì gây nên can thận âm
hư, can âm không được nuôi dưỡng đầy đủ làm cho can dương cang thịnh.
Khi gặp các điều kiện bất lợi như tinh thần bị kích thích, uống nhiều rượu, lao
động quá mệt nhọc, thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột làm cho âm hư ở dưới,
dương cang thịnh ở trên, dương hoá phong động làm cho khí huyết nghịch
loạn. Đây là nội phong, nội phong nhiễu động thì hoá hỏa thăng phù lên trên,
có thể kết hợp với đàm trọc, huyết ứ gây nhiễu loạn kinh lạc, bế trở thanh
khiếu gây trúng phong [48], [49].
• Pháp điều trị: Tư dưỡng can thận âm, trấn can, tức phong [49].
• Phương thuốc: Trấn can tức phong thang [49].
+ Tỳ hư đàm thấp, đàm trọc thượng nhiễu
• Triệu chứng: bện nhân đau đầu, chóng mặt, tức ngực, ăn ít, dễ nôn. Đột
ngột xuất hiện huyễn vựng, nôn, buồn nôn, nhìn đôi hoặc mắt mờ, lưỡi bệu,
nói khó, chân tay tê bì, liệt nửa người. Chất lưỡi bệu rêu lưỡi trắng dính hoặc
vàng dính. Mạch huyền hoạt hoặc hoạt sác [48].



20
• Nguyên nhân bệnh sinh: do ăn nhiều chất béo ngọt hoặc nghiện rượu
làm tỳ vị tích trệ, tân dịch tích tụ sinh đàm; hoặc uất giận ưu tư làm khí trệ
sinh đàm. Đàm uất hóa hỏa mà sinh bệnh [48].
• Pháp điều trị: Táo thấp hoá đàm, tức phong khai khiếu [48].
• Phương thuốc: Bán hạ bạch truật thiên ma thang gia giảm [48].
- Điều trị ở giai đoạn hôn mê nông: thường do phong nhiệt nhiễu thanh
không, đàm thấp hoặc đàm nhiệt làm bế tắc tâm khiếu gọi là chứng bế. Lâm
sàng chia thành dương bế và âm bế [50].
+ Dương bế
• Triệu chứng: bệnh nhân đột nhiên ngã lăn ra, bất tỉnh, mặt đỏ, hai gò
má đỏ, người nóng, đờm rãi nhiều, hơi thở thô, vật vã không yên, có thể có
nôn, nấc. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, dính. Bí đại tiểu tiện. Mạch huyền hoạt
hữu lực [48].
• Nguyên nhân bệnh sinh: do thể trạng thuộc thể can dương cang thịnh,
khi tinh thần bị kích thích quá mức làm cho can dương thăng phù lên trên gây
nên phong động. Huyết theo khí nghịch lên trên, kết hợp với đàm, hỏa làm
che lấp thanh khiếu, tâm không tàng được thần dẫn tới mê man, bất tỉnh [48].
• Pháp điều trị: Tân lương khai khiếu, thanh can tức phong [51], [52].
• Phương dược: An cung ngưu hoàng hoàn [51], [52].
+ Âm bế
• Triệu chứng: bệnh nhân đột nhiên ngã vật ra, bất tỉnh, mắt mở,
miệng há, hơi thở yếu, tay chân lạnh, ra mồ hôi đầm đìa, đại tiểu tiện dầm
dề không tự chủ, sắc mặt nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng nhờn,
mạch trầm hoãn [48].
• Nguyên nhân bệnh sinh: tình trạng dương khí suy yếu đến cực điểm, dễ
dẫn tới âm dương ly thoát, khí của tạng phủ và cơ thể suy kiệt sắp tuyệt [49].
• Pháp điều trị: Tân ôn khai khiếu, trừ đàm tức phong [49].



21
• Phương thuốc: Tô hợp hương hoàn [49].
- Điều trị ở giai đoạn hôn mê sâu: YHCT gọi là chứng thoát [39],
[48], [49].
+ Triệu chứng: hôn mê sâu, mắt mở, vã mồ hôi, chân tay lạnh, thở yếu,
mạch vi muốn tuyệt [48], [49].
+ Pháp điều trị: Hồi dương, cố thoát [49].
+ Phương dược: Sâm phụ thang [49].
1.3.3. Một số nghiên cứu về điều trị trúng phong giai đoạn cấp bằng
thuốc Y học cổ truyền
Như trên đã trình bày, thuốc YHCT được coi là một biện pháp khá quan
trọng dùng trong điều trị TBMN nói chung và NMN nói riêng.
Theo Hải Thượng Lãn Ông, chữa tê liệt nửa người bên trái, lấy bổ huyết
làm chủ yếu: dùng Bài Tứ vật thang gia vị. Chữa tê liệt nửa người bên phải
lấy bổ khí làm chính: dùng Tứ quân thang [42].
Trong những thập kỷ gần đây Trung Quốc đi đầu trong việc hiện đại hoá
YHCT, đã có nhiều tiến bộ trong điều chế sản xuất thuốc. Trong điều trị
TBMN đã có nhiều thuốc dưới dạng tiêm tĩnh mạch được chế xuất từ thảo
dược [53]. Có nhiều nghiên cứu (NC) dùng thuốc YHCT điều trị di chứng
TBMN mang lại kết quả tốt.
Theo báo y học Thượng Hải tháng 9 năm 1978, Khoa thần kinh Bệnh
viện Hoa sơn (Trung Quốc) dùng dung dịch Đan sâm 8ml (tương đương
12g thuốc sống) nhỏ giọt tĩnh mạch điều trị 43 ca NMN. Tỷ lệ có kết quả
83,72% [53].
Triệu Kiến Kỳ (Bệnh viện số 2 trực thuộc Học viện Trung y Thiên Tân)
dùng bài thuốc Trúng phong tỉnh thần hợp tễ điều trị TBMN cấp (Uất kim,
Xương bồ, Câu đằng, Tang ký sinh, Hoàng cầm, Địa long, Bột Sừng trâu,
Ngưu hoàng nhân tạo). Kết quả lâm sàng: trị 66 trường hợp, kết quả tốt (tinh

thần tỉnh sau hai đến ba ngày, phản xạ sinh lý hồi phục, các triệu chứng


22
chuyển biến rõ rệt) 5 trường hợp, có kết quả 29 trường hợp, có tiến bộ 23
trường hợp, không kết quả (trên bảy ngày chưa tỉnh, các triệu chứng không có
thay đổi rõ) 9 trường hợp. Tỷ lệ có kết quả: 86,36% [53].
Bệnh viện Phúc Kiến NC trên 56 BN trúng phong cấp tính dùng Hoa đà tái
tạo hoàn thấy kết quả chung đạt 89%, trong đó 43% đạt kết quả tốt [54].
An cung ngưu hoàng hoàn là thuốc cấp cứu YHCT truyền thống dùng
trong TBMN nhanh chóng và hiệu quả.
Nghiên cứu tác dụng dược lý của An cung ngưu hoàng hoàn trên thực
nghiệm thấy có tác dụng sau:
Nghiên cứu của Diệp Tổ Quang, Vương Kim Hoa và các cộng sự đã
nghiên cứu dược lực học của bài thuốc An cung ngưu hoàng hoàn cho thấy có
tác dụng thanh nhiệt, giải độc, trấn tĩnh có tác dụng bảo vệ tế bào não [55].
Chu Thừa Hỷ [52] nghiên cứu trên thỏ bị gây hôn mê chứng minh rằng:
An cung ngưu hoàng hoàn có thể giảm nhẹ hôn mê ở động vật, ức chế các
chứng trạng thần kinh, giảm các sóng bệnh lý trên điện não đồ lớp vỏ não,
đồng thời giảm tỷ lệ tử vong của động vật thực nghiệm.
An cung ngưu hoàng hoàn có tác dụng phòng và điều trị tổn thương gan,
tác dụng này có thể liên quan tới tác dụng thanh nhiệt giải độc của nó [55]. Có
tác dụng hạ áp rõ rệt trên động vật thực nghiệm, kéo dài thời gian sống của
chuột trong tình trạng thiếu oxy, làm thân nhiệt của những người sốt cao (39,5
- 40ºC) giảm xuống bình thường, làm cho trạng thái co rút, co giật giảm rõ rệt [56].
Một số nghiên cứu lâm sàng của An cung ngưu hoàng hoàn:
Vu Phượng Vân và cộng sự điều trị 53 BN hôn mê do trúng phong bằng
thụt giữ An cung ngưu hoàng hoàn, 36 BN có hiệu quả rõ rệt, 17 BN có tiến
triển, tỷ lệ hiệu quả đạt 100% [57].
Khúc Xuân Viện điều trị cấp cứu 20 BN trúng phong thể dương bế bằng

thuốc đạn An cung ngưu hoàng hoàn kết quả 15 BN kết quả rõ rệt, 5 BN có
kết quả, 2 BN không có kết quả, và tỷ lệ đạt hiệu quả 85% [57].


23
Bành Lệ và cộng sự đã NC trên 74 bệnh nhân TBMN nặng, có hôn mê
sâu, chủ yếu do chảy máu não (63/74 trường hợp là do chảy máu não) dùng
phác đồ điều trị chuẩn của YHHĐ kết hợp An cung ngưu hoàng hoàn thụt đại
tràng. Kết quả: Kết quả rõ rệt 21 BN (55,3%); có kết quả 14 BN (36,8%);
không kết quả 2 BN (5,3%); tử vong 1 BN (2,6%) [52].
Hình Phong Lệ, Lý Thanh, Chương Vỹ và cộng sự NC lâm sàng trên 34
BN tai biến mạch não được điều trị bằng phác đồ cơ bản của YHHĐ kết hợp
sử dụng thuốc An cung ngưu hoàng hoàn và so sánh với nhóm (ĐC) gồm 20
BN tai biến mạch não không được kết hợp điều trị thuốc An cung ngưu hoàng
hoàn. Kết quả nhóm được kết hợp điều trị thuốc An cung ngưu hoàng hoàn
phục hồi ý thức và khống chế co giật tốt hơn nhóm chứng (p < 0,05); tác dụng
hạ sốt tốt hơn nhóm đối chứng (p < 0,01) [56].
Hiệp hội Chẩn trị Trúng phong Cấp tính Trung Quốc nghiên cứu An
cung ngưu hoàng hoàn điều trị 53 BN trúng phong tạng phủ có hôn mê, dùng
An cung ngưu hoàng hoàn mỗi lần một viên hòa tan trong 20 ml nước thụt
giữ đại tràng, cách 12 giờ thụt một lần, liệu trình là bảy ngày. Kết quả: tốt
68%, khá: 32%. Một NC khác dùng An cung ngưu hoàng hoàn hòa tan bơm
qua ống thông dạ dày, một viên/lần, ngày hai lần. Với thể dương bế dùng
thêm Linh dương giác, với âm bế dùng thêm Điều đàm thang. Kết quả đạt
85% [57].
Hoàng Thị Bình Minh (2010), tiến hành NC 82 bệnh nhân NMN giai
đoạn cấp điều trị nội trú tại Khoa Đột quỵ - Viện Quân Y 103 bằng thuốc
YHHĐ kết hợp với An cung ngưu hoàng hoàn kết quả cho thấy: An cung
ngưu hoàng hoàn có tác dụng hỗ trợ cải thiện ý thức tốt hơn nhóm ĐC, cải thiện
rối loạn ngôn ngữ, cải thiện về độ liệt Henry, cải thiện tình trạng bí đại tiểu

tiện, hỗ trợ chống phù não [58].


24

1.4. BÀI THUỐC “TRÚNG PHONG HOÀN”
1.4.1. Nguồn gốc
Từ lâu nay, trong nhân dân có nhiều những bài thuốc nghiệm phương
điều trị TBMN rất hiệu quả nhưng chưa có những NC cơ bản và có hệ thống.
“Thần dược cứu mệnh” là bài thuốc được dùng phổ biến trong nhân dân. Bài
thuốc này thường được dùng dưới dạng thuốc sắc, việc này rất mất thời gian,
không phù hợp để điều trị một bệnh cấp tính như chứng trúng phong. Lương
y Nguyễn An Định đã tổng hợp những kinh nghiệm trong nhân dân viết bài
trên một số báo ở Long An năm 1997 để điều trị chứng trúng phong với biểu
hiện mắt miệng méo xếch, chảy dãi, chân tay co quắp, cấm khẩu, bán thân bất
toại. Bài thuốc gồm có 3 vị là: Hắc đậu, Địa long, Hắc diện thần [59].
“Trúng phong hoàn” có nguồn gốc từ bài thuốc “Thần dược cứu mệnh”
để làm giảm tính lạnh của một số vị thuốc trong bài thuốc (Hắc đậu, Địa
long) cũng như để tăng tác dụng trừ đàm, bài thuốc được gia thêm Trần bì.
Được Viện YHCT Quân đội sản xuất theo đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ
Quốc Phòng. Thuốc được bào chế dưới dạng viên hoàn mềm. Chế phẩm
“Trúng phong hoàn” được bào chế tại tại Khoa Dược - Viện YHCT Quân Đội
và đã đạt tiêu chuẩn kiểm định cơ sở.
Nguyễn Minh Hà, Nguyễn Hùng Sơn và cộng sự (2016) đang hoàn thiện
và nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình bào chế, đánh giá tính
an toàn và tác dụng điều trị nhồi máu não giai đoạn cấp của thuốc Trúng
phong hoàn”. Trong khuôn khổ đề tài khoa học cấp Bộ quốc phòng, sau khi
hoàn thành các nghiên cứu thực nghiệm đã kết luận: viên hoàn mềm Trúng
phong hoàn không xác định được liều LD50, không gây ảnh hưởng đến thể
trạng chung, chức năng tạo máu, chức năng gan thận trên động vật thực

nghiệm và có thể sử dụng trên lâm sàng (phụ lục 1b).


25

Công thức bài thuốc gồm:
Hắc đậu

3,840g

Cao hắc diện thần

1,300g

Cao trần bì

0,195g

Cao địa long

0,325g

Mật luyện vừa đủ 1 viên

8,5g

Tác dụng: bổ can thận, trấn kinh tức phong, thanh nhiệt hóa đàm, thông
kinh hoạt lạc.
1.4.2. Các vị thuốc trong bài thuốc nghiên cứu
1.4.2.1. Địa long

 Tên khoa học: (Pheretima) là toàn
thân đã chế biến của con giun đất
Pheretima asiatica Michaelsen. Họ
cự dẫn – Megascolecida [59].
Hình 1.4. Địa long
 Tác dụng: Hypoxanthin chiết xuất từ dược liệu có tác dụng làm giãn khí
quản, kháng histamin, hạ huyết áp [60].
 Tác dụng dược lý
Tác dụng hạ nhiệt, an thần; làm giãn phế quản nên có tác dụng hạ cơn
suyễn; hạ huyết áp chậm mà lâu dài, có thể do làm giãn mạch nội tạng; kháng
histamin và chống co giật; tăng hoạt tính dung giải của fibrin chống hình
thành huyết khối; phá huyết do chất lumbritin [59].
Trên invitro và thử nghiệm lâm sàng cũng cho thấy địa long giúp cải
thiện tuần hoàn máu, điều trị TBMN do trúng phong, hạ sốt, lợi tiểu, kháng vi
rút, kháng ung thư và hoạt tính kháng khuẩn [60]. Trong đó tác dụng TBMN
do trúng phong đã được chứng minh trên invitro và thử nghiệm lâm sàng với
các tác dụng liên quan đến làm tan cục máu đông và chống đông máu [59],
[61], [62].


×