Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

nghiên cứu then Tày và văn hóa miền cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.68 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Từ bao đời nay, Then đã trở thành sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào
các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Then là một loại hình
nghệ thuật tổng hợp chứa nhiều thành tố ngữ văn, âm nhạc, mỹ thuật, múa, diễn
xướng dân gian và có giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, xã hội. Đồng bào các dân
tộc Tày, Nùng, Thái thường sử dụng then vào những dịp trọng đại như hội làng,
cầu đảo của từng gia đình, dòng họ vào dịp năm mới, sinh con đầu lòng, giải trừ
tà ma và chữa bệnh. Tháng 3/ 2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
thay mặt Chính phủ ký hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam” để trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Theo quan niệm dân gian, Then có nghĩa là Thiên, tức là “Trời”, cũng được
coi là điệu hát của thần tiên truyền lại. Chính vì thế, trong đời sống của người Tày
cổ, Then được dùng trong những sự kiện trọng đại hay lễ cầu an, cầu mùa, gọi
hồn... Đồng bào Tày quan niệm, những điệu Then giúp con người gửi lời cầu
khấn đến nhà trời. Thông qua những lời ca, tiếng hát, những điệu Then, âm hưởng
của đàn tính mà người ta cầu cho mưa thuận gió hòa, mọi nhà bình an, yên vui,
hạnh phúc…
Trên phương diện văn học, Then được xem như những bản trường ca về
nghệ thuật biểu diễn văn hóa dân tộc, với các đoạn, chương móc xích với nhau
logic từ đầu đến cuối. Then mang tính huyền thoại gắn với những sự tích để răn
dạy con cháu ăn ở có hiếu, có đức, như sự tích: Con ve sầu, Mụ yêu tinh (Dà
Dỉn), Núi hoa, Núi tuyết…
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đây cũng là nơi tôi
học tập, nghiên cứu. Trong quá trình học học phần Văn học dân gian, được tìm
hiểu về Then Tày, tôi cảm thấy đây là một nét văn hóa độc đáo, có ý nghĩa nhiều
mặt, cần được lưu giữ và bảo tồn. Qua tìm hiểu, tôi được biết tại huyện Định Hóa
(tỉnh Thái Nguyên) dân tộc Tày, Nùng chiếm tới 65% dân số. Nơi đây còn lưu giữ
rất nhiều thư tịch cổ, các nghi thức cúng, tế thần linh trời đất, các trò chơi dân
gian... của người Tày, Nùng, trong đó có hát then. Then vùng Định Hóa là sự
dung hòa và kế thừa. Khi nghe hát then, người nghe như thấy ở đó có một chút


của các làn điệu then Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang và cả then
mới… phải chăng đây là lý do làm cho những nhà nghiên cứu loại hình văn hóa
này khó nhận diện, khiến cho hát Then Định Hóa có cái gì đó riêng biệt, thu hút
người nghe.

1


Huyện định Hóa, tỉnh Thái Nguyên là một trong những nơi nghệ thuật trình
diễn hát then được bảo tồn và phát triển tương đối tốt. Định Hóa là mảnh đất lưu
giữ, phát triển không gian văn hóa hát then – đàn tính hết sức đồ sộ về khối
lượng, phong phú về thể loại, đa dạng về hình thức biểu diễn. Việc nhìn nhận và
đánh giá vị trí của Then trong đời sống tinh thần của người Tày ở huyện Định
Hóa, tỉnh Thái Nguyên là một việc làm cần thiết để tôn vinh giá trị của then Tày,
đồng thời đóng góp cho việc tìm hiểu đời sống tôn giáo tín ngưỡng của các dân
tôc thiểu số nói chung, đồng bào Tày ở Định Hóa nói riêng.
Chính vì những lí do trên mà tôi quyết định nghiên cứu về then Tày. Chúng
tôi chọn địa điểm nghiên cứu ở xã Phúc Chu, thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa,
tỉnh Thái Nguyên là nơi nghiên cứu sưu tầm tư liệu.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Then Tày và sự phát triển của hát Then ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn xã Phúc Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và toàn
huyện Định Hóa nói chung.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về then Tày, có cái nhìn tổng quan, đưa ra đánh giá, nhận xét, định
hướng phát triển cho văn hóa hát Then vùng Định Hóa. Có những hiểu biết khái
quát về hát Then cũng như tìm hiểu được sức sống, sự phát triển, vị trí của hát

Then ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
4.Phương pháp nghiên cứu
_ Phương pháp ghi chép bằng phương tiện kĩ thuật ( máy ảnh, máy ghi âm)
_ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
_ Phương pháp giao tiếp thông thường
_ Phương pháp phỏng vấn
_ Phương pháp quan sát khách quan
2


5.Đóng góp của đề tài
Bài báo cáo cung cấp những nét cơ bản về văn hóa hát Then của dân tộc Tày
ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, đưa ra những đánh giá, nhận xét về sự phát
triển của hát Then trên địa bàn huyện Định Hóa. Sưu tầm được những thông tin
giúp ích cho bộ môn Văn học dân gian và các công trình đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu Then Tày về sau.

6.Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, cấu trúc bài báo cáo
gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan về đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên
Chương 2: Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực tế
Chương 3: Kết quả thu được
Chương 4: Nận xét và đánh giá kết quả thu hoạch
Chương 5: Những đề xuất, khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa,
văn học dân gian

NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội huyện

Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
1.1. Đặc điểm tự nhiên:
Định Hóa là một huyện miền núi phía tây bắc tỉnh Thái Nguyên, Diện tích tự
nhiên: 52.075,4 ha, dân số 90.086 người (năm 2005).Định Hoá là huyện miền núi
của tỉnh Thái Nguyên, nằm trong khoảng toạ độ 105o29” đến 105o43” kinh độ
đông, 21o45”đến 22o30” vĩ độ bắc; phía tây - tây bắc giáp tỉnh Tuyên Quang, bắc đông bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, nam - đông nam giáp huyện Đại Từ, Phú Lương;
huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía tây bắc.
Địa hình huyện Định Hoá khá phức tạp và tương đối hiểm trở, ở dạng núi
thấp, đồi cao. Xen giữa các dãy núi đá vôi và đồi, núi đất là những cánh đồng hẹp.
Hướng địa hình thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, phân làm hai vùng. Vùng
3


núi bao gồm các xã ở phía bắc huyện. Vùng này có các dãy núi cao từ 200 đến
400 m so với mặt biển, thuộc phần cuối của dãy núi đá vôi cánh cung Sông Gâm,
chạy theo Hướng tây bắc - đông nam, từ phía bắc qua trung tâm huyện đến xã
Trung Hội, tạo nên bức tường thành ở phía đông thị trấn Chợ Chu và những thung
lũng nhỏ hẹp. Nhiều hang động trong các dãy núi đá này có những nhũ đá hình
thù kỳ thú, đẹp mắt.
1.2. Đặc điểm văn hóa, xã hội
Trước đây huyện Định Hóa là nơi căn cứ địa cách mạng của Đảng và Chính
phủ. Huyện có 24 đơn vị hành chính cấp xã/phường gồm 1 thị trấn Chợ Chu và
23 xã: Bảo Cường, Bảo Linh, Bình Thành, Bình Yên, Bộc Nhiêu, Điềm
Mặc, Định Biên, Đồng Thịnh, Kim Phượng, Kim Sơn, Lam Vỹ, Linh Thông, Phú
Đình, Phú Tiến, Phúc Chu, Phượng Tiến, Quy Kỳ, Sơn Phú, Tân Dương, Tân
Thịnh, Thanh Định, Trung Hội, Trung Lương.
Trong huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên thì tộc người Tày và người Nùng
chiếm tới 65% dân số. Tại hầu hết 24 xã, thị trấn đều có các tộc Tày, Nùng định
cư, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của vùng.
Định Hóa là một vùng có những nét đẹp văn hóa sâu sắc đặc biệt nó thể

hiện ở các phong tục tập quán. Người Tày ở Định Hóa cũng tổ chức những ngày
lễ khác nhau thể hiện ý nghĩa riêng mang đậm sắc thái dân tộc của người Tày tại
đây. Thường thì có Tết Nguyên Đán mở đầu năm mới và Tết rằm tháng bảy cúng
các vong hồn, đó là những lễ tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Ngoài ra gồm
có các tết như Tết gọi hồn trâu bò được tổ chức vào mồng 6-6 ( âm lịch), Sau vụ
cấy là Tết cơm mới, tổ chức khi thu hoạch. Đó là những cái tết rất đặc trưng cho
đồng bào dân tộc Tày.

Chương 2: Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực tế
2.1. Thuận lợi trong quá trình thực tế
_ Quá trình đi thực tế khá thuận lợi theo đúng kế hoạch đã đề ra.
_Các phương pháp sử dụng để nghiên cứu được áp dụng khá thuận lợi.
_Chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình điền dã sưu tầm
tại địa phương. Đồng thời đoàn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ trung
tâm văn hóa thể thao-Định Hóa.
_ Người dân địa phương đa phần cởi mở, nhiệt tình khi cho biết thông tin.
_ Các nghệ nhân nhiệt tình giúp đỡ.
_ Giao thông đi lại thuận lợi.
4


_ Có sự phân công công việc trong nhóm hợp lý, các thành viên phối hợp với
nhau ăn ý để chuyên đi đạt hiệu quả cao.
2.2. Khó khăn trong quá trình thực tế
_ Khó khăn đầu tiên là việc sắp xếp thời gian đi thực tế, cần không ảnh hưởng
đến thời gian học trên lớp, nhưng cũng phải phù hợp với lịch làm việc của ủy ban
xã và tất cả các thành viên trong nhóm.
_ Số người phỏng vấn bị hạn chế bởi một số nguyên nhân như thời gian, công
việc nên lượng thông tin được cung cấp chưa nhiều.
_ Thông tin người dân cung cấp có những ý kiến khác nhau có những ý đúng và

cũng có những ý kiến chưa chính xác nên người điều tra gặp đôi chút khó khăn
trong việc phân loại thông tin, tư liệu.
_ Mặc dù là người dân ở địa phương nhưng không phải ai cũng có thể cung cấp
thông tin nên việc chọn đối tượng giao tiếp và đối tượng điều tra có gặp khó khăn.
_ Có rất nhiều nguồn cung cấp thông tin nên việc phân loại, sắp xếp, tổng hợp tư
liệu đòi hỏi tính chuyên nghiệp.
_ Gặp khó khăn trong việc tìm chỗ ăn, chỗ nghỉ bởi điểm đến là một nơi xa xôi
kinh tế chưa phát triển.
_ Thời gian đi điền dã sưu tầm cũng như chi phí cho chuyến đi còn khá hạn hẹp vì
vây còn chưa thể tìm hiểu kĩ về vốn văn học ở địa phương.

Chương 3: Kết quả thu hoạch
3.1. Tìm hiểu chung về Then Tày
Hát Then là một loại hình diễn xướng tiêu biểu mang đậm văn hóa Tày Nùng của vùng Việt Bắc. Then gắn với đời sống tâm linh và tín ngưỡng của người
Tày - Nùng, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng Tày - Nùng. Hát
Then, đàn tính là linh hồn cho các lễ nghi, hội hè như: Then giải hạn, Then khai
rượi, Then kỳ yên, Then cứu bệnh, Cầu mát, Lẩu pụt (Then lẩu), Then thượng
thọ, Then hợp hôn…
Nghệ thuật Hát Then của dân tộc Tày, Nùng Việt Bắc có một quá trình phát
triển lâu dài, gắn bó mật thiết với cuộc sống lao động, sản xuất, đấu tranh dựng
nước và giữ nước, ngày một hoàn thiện về nghệ thuật, có sắc thái dân tộc, phong
cách và sắc màu riêng của nó. Chính vì vậy, nghệ thuật hát Then luôn là nguồn cảm
hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và được đông đảo quần chúng
nhân dân các dân tộc yêu thích, đồng thời được Đảng, Nhà nước ta đánh giá cao và
được coi trọng là một trong những di sản văn hóa phi vật thể quý báu trong kho tàng
văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam phải được giữ gìn, kế thừa và phát triển.
Tại vùng Định Hóa, bên cạnh những làn điệu then cổ mang đậm bản sắc
dân tộc, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, gắn liền với lao
5



động sản xuất…thì trong những sáng tác cải biên mới kế thừa có chọn lọc, chủ đề
sáng tác gắn liền với các cuộc vận động lớn trong cộng đồng được xã hội quan
tâm hưởng ứng như chủ đề ca ngợi về Đảng, Bác Hồ, xây dựng đời sống văn hóa,
về Định Hóa và núi rừng Việt Bắc…
3.2. Nguồn gốc của Then Tày
Dựa trên các cứ liệu dân gian ở địa phương, người ta cho rằng Then chính
thức được ra đời ở thời kỳ nhà Mạc lên cát cứ Cao Bằng, nhưng trước đó Then đã
được tồn tại trong dân gian từ lâu đời. Qua tìm hiểu từ nghệ nhân Triệu Đình Lợi
(xã Phúc Chu, huyện Định Hóa), ông đã kể cho chúng tôi nghe một số truyền
thuyết về nghề hát Then cũng như sự tích về cây đàn tính – nhạc cụ dùng trong
hát Then.
Truyền thuyết kể rằng, có một chàng trai tên là Xiên Câm, vì nghèo 30 tuổi
chưa lấy được vợ nên mới nghĩ cách làm ra chiếc đàn tính để giải sầu. Lúc đầu
đàn có 12 dây âm thanh quá hay khiến muôn vật mê mẩn mà chết, Bụt bèn bắt
Xiên Câm cắt bớt 9 dây nên từ đó cây đàn tính chỉ có 3 dây 2 .
Người Thái Trắng Tây Bắc cũng có truyền thuyết tương tự kể rằng cây đàn
tính là do một chàng trai làm ra với mục đích giải sầu. Câu chuyện này gần gũi
với cuộc sống hơn vì nó gắn liền với một câu chuyện tình cảm trai gái, đồng thời
còn giải thích việc chàng trai nghĩ ra cách làm cho đàn kêu được là do bắt chước
âm thanh của sợi dây vắt qua miệng hang.
Câu chuyện của người Tày thần bí hơn: chàng trai phải lên trời xin giống
tằm và bầu về trồng để làm nguyên vật liệu làm đàn. Ở cả người Tày và người
Thái, cây đàn tính vẫn thường được sử dụng làm nhạc cụ sinh hoạt văn nghệ giải
trí và là công cụ hành nghề của các bà Then. Trước đây, cây đàn tính còn là công
cụ đắc lực giúp các chàng trai Thái tìm bạn tình.
Từ những câu chuyện được lưu truyền trong tâm thức đồng bào Tày có thể
thấy được lời hát then cùng cây đàn tính của dân tộc đã ra đời từ rát lâu trở thành
một sản phẩm tinh thần đi sâu vào thần thoại cổ tích. Như vậy, có thể khẳng định
nguồn gốc của then đã có từ khi tổ tiên người Tày có nhu cầu sinh hoạt văn hóa

tín ngưỡng và sự phát triển tiếng bộ của cộng đồng.
3.3. Các hình thức sinh hoạt Then
3.3.1. Then cầu mong, Lễ cầu an
Người Tày - Nùng thường tổ chức lễ này vào tháng giêng hàng năm. Người
ta đón ông bà Then về nhà lễ để cầu an bình. Lễ cầu an còn là ngày hội tụ xóm
6


làng, vui xuân. Đây là loại Then vui, hát về tình ca, sử ca. Lễ giải hạn: Lễ này
được tổ chức vào bất kỳ ngày nào dịp nào trong năm. Người ta mời ông Then, bà
Then có nơi mời thầy mo thầy tạo về làm lễ với mục đích cầu mùa.
3.3.2. Loại Then chữa bệnh
Trước đây, dân tộc Tày - Nùng cũng như các dân tộc khác đều cho rằng
người ốm, chết do nhiều nguyên nhân. Nhiều người ốm do không hiểu nguyên
nhân sinh bệnh nên họ cho rằng do thần linh ma quỷ làm hại. Khi đó, nếu muốn
biết người ốm bị sao, người ta phải nhờ đến Then giải quyết có khả năng thương
lượng với thần linh dùng sức mạnh trấn áp quỷ thần có khả năng sai khiến âm
binh đi tìm hồn về nhập vào xác. Then chữa bệnh bằng sức truyền cảm âm nhạc,
thơ ca, phần nào làm trọng chức năng an ủi, dỗ dành nỗi đau của người bệnh, làm
cho mọi người thấy tâm hồn thanh thản hơn sau buổi làm Then. Đây là phương
pháp chữa bệnh bằng tinh thần của người Tày - Nùng xưa.
3.3.3 Loại Then tống tiễn
Những gia đình có người chết hoặc đứa trẻ xấu số, sau khi chôn cất xong,
chọn được ngày lành, người Tày - Nùng thường đón Then về làm lễ tiễn hồn
người chết đi khỏi nhà để không quấy rối những người còn đang sống.
3.3.4. Loại Then vui mừng, chúc tụng, ca ngợi
Thường những nhà giàu xưa kia khi có việc mừng thường hay mời Then đến
đàn, hát vui, chúc tụng ca ngợi. Những cuộc làm Then này phải theo trình tự như
các đám cúng lễ. Lời ca phần lớn ứng tác cho phù hợp với yêu cầu của hoàn cảnh.
Tuy nhiên, cũng có một số bài mẫu, đối tượng giao tiếp chủ yếu là người chức

không phải là thần linh
3.3.5. Loại Then trung lễ, đại lễ cấp sắc (lẩu Then, lẩu vửt…)
Những người làm Then thường 3-5 năm phải làm lễ cấp sắc một lần gọi là đại
lễ. Nhưng cũng có Then vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có khả năng làm lễ
đúng kỳ hạn thì phải làm lễ trung để khất. Trong Then có chức tước quyền hạn
được phân chia theo từng cấp độ khác nhau và rõ ràng. Lẩu Then là một lễ quan
trọng. Chức tước Then được đánh dấu bằng tua trên mũ của các ông bà Then. Khi
không còn làm Then nữa một số nơi làm lẩu Then nhưng với mục đích tạ ơn..
3.3.6.Then - loại hình âm nhạc
Then là một loại hình diễn xướng dân gian được tổ chức chủ yếu trong nhà,
thường là vào đên khuya thanh vắng. Do đó, âm nhạc trong Then là loại nhạc êm
dịu, ấm cúng, nhẹ nhàng và tâm tình. Phạm vi sân khấu của nó là một chiếc chiếu
7


gồm một người đàn hát và người xóc nhạc vừa đủ cho người nghe và xem trong
khuôn khổ một gia đình (ngoại trừ các cuộc đại lễ Then và Then ngoài trời). Âm
nhạc trong Then được diễn tả biểu hiện nội dung văn học có cốt truyện dài ngắn
khác nhau. Vì thế, cấu trúc âm nhạc khác với các loại dân ca ta thường gặp. Cũng
do quy định nội dung chặt chẽ của văn học nên âm nhạc trong Then khá phong
phú về giai điệu và chặt chẽ về tiết tấu nhịp điệu bởi nó luôn được đi đôi với nhịp
điệu của tiếng đàn và bộ xóc nhạc. Tuy nhiên, Then ở mỗi địa phương, mỗi tỉnh
khác nhau đều có những màu sắc âm nhạc khác nhau. Đặc điểm này tạo cho âm
nhạc trong Then có sự giàu có về màu sắc khúc thức và tiết tấu âm nhạc. Bên
cạnh ý nghĩa tôn giáo tín ngưỡng, Then còn được xem xét như một yếu tố là một
loại diễn xướng do chỉ có một người hát với cây tính Then và chùm xóc nhạc.
3.4. Âm nhạc trong Hát Then
3.4.1. Thang âm, điệu thức
Thang âm: là sự sắp xếp các âm thanh theo một thứ tự cao độ. Mỗi âm trong
thang âm được gọi là các bậc của nó. Cùng với cách hiểu trên đây còn có những ý

kiến khác cho rằng: thang âm là một khái niệm để chỉ tập hợp thành phần âm
trong bài chỉ có 3,4 bậc, trong đó có một bậc nổi rõ tính ổn định hơn các bậc
khác. Do vậy, âm này được gọi là âm gốc của thang âm.
Điệu Thức: là một khái niệm đã được chuẩn định về mặt ý nghĩa và hầu hết
các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian đều thống nhất ý kiến cho rằng: điệu thức là
một khái niệm để chỉ mối quan hệ về các bậc trong thang âm.
3.4.2. Âm điệu
Âm điệu thực chất là mối quan hệ về độ cao. Trong dân ca nói chung và
trong hát Then của người Tày, Nùng nói riêng, âm điệu không tách rời khỏi mối
quan hệ với một số yếu tố của ngôn ngữ dân tộc như: ngữ âm, ngữ nghĩa. Ngày
nay, trong hát Then ta còn thấy có những đoạn nhạc mà toàn bộ cao độ phần âm
nhạc theo âm điệu dấu giọng của lời thơ như: những đoạn Then đoán về tương lai,
về số phận và dặn dò con cháu dưới trần gian. Ở những đoạn này, âm điệu hoàn
toàn phụ thuộc vào âm điệu tiếng nói. Như vậy, tiếng nói giàu âm điệu được xem
như dạng đầu tiên mầm mống của âm nhạc.
3.3.3. Lối hát trong Then
Lối hát đọc thơ: Là lối hát biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ ca và
âm nhạc. Ở đây, phương thức phát triển giai điệu thường là sự lặp đi, lặp lại của
một hoặc hai hướng chuyển động giai điệu đơn giản, số lượng âm sử dụng không
8


nhiều. Lối hát đọc thơ phù hợp với việc thể hiện những nội dung cảm xúc mộc
mạc, từ tốn, dõng dạc, khỏe mạnh và có một nhịp điệu rõ ràng, mạch lạc.
Lối hát ngâm :Lối hát này thường thể hiện tính chất dàn trải, ngâm ngợi,
nhịp điệu tự do hơn so với hát đọc thơ. Giai điệu âm nhạc trong lối hát ngâm
thường xuất hiện những nốt tô điểm, trang sức phù hợp với lối hát ngâm ngợi
trong văn chương và sự mềm mại, uyển chuyển co dãn về nhịp điệu, nó rất phù
hợp trong việc thể hiện những cảm xúc trữ tình, sâu lắng của nội tâm. Phương
thức phát triển giai điệu của lối hát ngâm về cơ bản giống hát đọc thơ, đó là khi

tiến hành giai điệu các câu thường lặp lại dáng dấp của nhau.
Lối hát pha trộn hát đọc thơ và hát ngâm: Giai điệu ở dạng này có sự
uyển chuyển, linh hoạt khá tinh tế. Nhịp điệu, cú pháp không mang tính đơn điệu,
đơn giản như hát nói nhưng cũng không quá phức tạp về hình thái giai điệu và
không thiên về sự trau chuốt, tô điểm như hát ngâm. Do tính pha trộn nên phương
thức phát triển giai điệu của lối hát này phong phú đa dạng, có ưu thế diễn đạt
được nhiều sắc thái, cảm xúc. Trong Then, những giai điệu pha trộn 2 lối hát đọc
thơ và hát ngâm thường gặp ở những chương đoạn mang nội dung kể truyện về
một công việc cần phải làm hoặc đang làm trong cuộc Then.
3.4.4. Tiết tấu, nhịp điệu
Tiết tấu là mối tương quan về trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau.
Trong Then nói riêng và trong âm nhạc nói chung, tiết tấu đóng vai trò rất quan
trọng trong một tác phẩm âm nhạc. Loại tiết tấu có phân nhịp phách thường được
thể hiện qua loại nhịp đơn có một trọng âm. Loại tiết tấu không phân nhịp phách
thường thấy ở lối hát ngâm. Giai điệu có tính chất tự sự, giãi bày tâm tư tình cảm.
3.5. Về phần lời hát
Lời ca trong hát Then được biểu đạt chủ yếu bằng ngôn ngữ Tày - Nùn g.
Lời ca được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác nên đôi khi cũng bị “Tam
sao thất bản”. Lời ca trong hát Then thường là những vần thơ tự do, không theo
một qui định nào cả, có bài viết ở thể thơ 5 chữ, có bài ở thể thơ 7 chữ nhưng thể
thơ phổ biến thường là 5 chữ và 7 chữ đan xen.
Bên cạnh cấu trúc thơ 5 chữ, 7 chữ là chủ yếu, lời ca trong hát Then còn gặp
cấu trúc thể thơ tự do (xen kẽ giữa thơ 3 chữ với 5 chữ, 3 chữ với 7 chữ, 4 chữ
với 8 chữ…). Loại thể thơ tự do này cũng ảnh hưởng ít nhiều tới cấu trúc câu,
đoạn của âm nhạc trong hát Then.
Nội dung lời ca trong hát Then là một trong những yếu tố quan trọng và thu
hút nhiều người yêu thích hát Then. Nội dung trong một cuộc Then trước hết
phản ánh tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của người Tày - Nùng, phản
ánh hiện thực xã hội phong kiến xưa. Trong mỗi đoạn hát đều có cốt truyện, nhiều
9



chuyện mang tính thần thoại, yếu tố tâm linh nên nó gần gũi với quần chúng nhân
dân. Nhìn chung, lời ca trong hát Then còn mang tính ước lệ, phóng đại… nhưng
qua tác phẩm có thể thấy được ý tứ của nó, thấy được chính con người thật, con
người với canh tác ruộng nương ở miền núi.
Trong buổi thực tế, chúng tôi đã có dịp trực tiếp thưởng thức phần biểu
diễn của nghệ nhân Triệu Đình Lợi, Thầy đã hát cho chúng tôi bài “Trăng soi
đường Bác” và giải thích nội dung của bài hát này.
“Chủ đề chính rất nhiều ví dụ như bài Vầng trăng soi đường Bác có cả lời
Tày và lời Kinh, nội dung là trăng soi Bác ngồi làm thơ và nói với người dân, nói
về mai sau đất nước của mình. Hay chủ đề yêu quê hương đất nước, ca ngợi vẻ
đẹp quê hương đất nước mình hay ca ngợi công lao của Bác Hồ.”
Nhìn chung phần lời của hát Then gần gũi với mọi người dễ hiểu dễ nhớ.
Hay như cô Hoàng Thị Nhận - chủ nhiệm câu lạc bộ Then Tày tại xã Phúc Chu
huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên chia sẻ “ Về nội dung của hát Then chủ yếu là
ca ngợi công lao của Bác hay ca ngợi vẻ đẹp của đất nước”. Và theo cô sự thành
công và hấp dẫn của hát Then nằm ở nhiều yếu tố về cả giai điệu, cả câu hát.
Phần lời bài hát “Trăng soi đường Bác”:
Tiếng Tày:
Hai chói khảu tảng bác

tím thơ

Bác nhằng cấn hai ơi

gỏi thả

Gằm thơ Bác bấu mà


pi bươn

Chao lục lan nặm

mường viết tiếp

Mởi nàng hai slương

sliết *g mà

ngoài dồm
Bác viết dân ta độc lập
Dồm song hai chói
phương

khóp slí

Gằm thơ Bác bấu mà

pi ơ ơ bươn

Chao lục lan nặm
á ơi

mường viết tiếp

10


Hai liếp slèo kha gần chiến sĩ pây nưa

tàng Bác lắt lí tiếng đàn
Gằm Bác ơ ơ ơ ơi Mong sum họp Bắc Nam
Giải ... chang thành
Bác ới lan so hoàn bài thơ
Tiếng Kinh:
Trăng xuống nhòm cửa

Thơ Bác Hồ chỉ lối ta ơ ơ đi

Bác đòi thơ Bác bận quá, trăng ơi
hãy đợi

Trao đàn cháu lại ghi nối tiếp a ơi
Trăng soi bước chân người chiến sĩ đi
trên đường

Thơ Bác Hồ chỉ lối ta đi
Trao đàn cháu lại ghi nối tiếp

Bác bát ngát tiếng đàn Lời Bác ơ ơ ơ
ơi

Hỡi nàng trăng âu yếm thiết tha
trăng nhòm

Mong sum họp Bắc Nam Nghĩ trong
thành

Bác viết dân ta độc lập


Bác ơi con xin hoàn bài thơ

Ngoài song trăng chiếu khắp bốn
phương

11


3.6. Nhạc cụ
Hát Then bao giờ cũng phải đệm bằng Tính tẩu kết hợp cùng chùm xóc nhạc
mới đúng tính chất hát Then. Vì thế, nếu thiếu một trong hai nhạc cụ này thì
không thể thành diễn xướng Then được.
3.6.1.Tính tẩu
Tính tẩu có
bộ phận chính như

những
sau:

Bầu vang (bộ phận
tăng
âm): làm bằng nửa
quả
bầu khô (cắt
ngang).
Đường kính thường
tư 15
đến 25 cm. Để có
độ
vang, âm sắc chuẩn

người
ta thường chọn quả
bầu
tròn và dày đều để
làm
bầu vang. Mặt đàn
thường
làm bằng gỗ cây
ngô
đồng xẻ mỏng
khoảng
3mm. Trên mặt đàn

khoét 2 lỗ hình hoa
thị để
thoát âm (trước kia 2 lỗ hoa thị được khoét ở phía sau bầu đàn). Ngựa đàn tương
đối nhỏ nằm trên mặt đàn.
Cần đàn: bằng gỗ, thường là gỗ dâu hay gỗ thừng mục, nhẹ và thẳng. Cần
đàn dài khoảng 9 nắm tay của người chơi đàn. Mặt cần đàn trơn, không có phím
như đàn tam. Hốc luồn dây có 2 hoặc 3 trục dây.
Dây đàn: trước đây làm bằng tơ xe, nay là nilon. Tính tẩu có loại 2 dây và
loại 3 dây tùy theo từng vùng và từng chức năng âm nhạc. Loại mắc 2 dây phổ
biến ở Thái, Tày, thường được chỉnh cách nhau 1 quãng bốn đúng hay quãng năm
tùy theo hàng âm của giai điệu hoặc bài nhạc múa. Loại có 3 dây thường do người
Tày sử dụng. Họ thêm 1 dây trầm giữa 2 dây kia. Âm thanh của dây trầm thấp
hơn dây cao 1 quãng tám đúng. Loại 3 dây được gọi là tính then (đàn then)
thường dùng trong nghi lễ Then để phân biệt với loại 2 dây là tinh tẩu dùng để
đệm hát và múa.
Tính tẩu là nhạc cụ được sử dụng trong các sinh hoạt nghi lễ Then của
người dân Tày. Không phải ai cũng có thể chơi được đàn. Để làm ra được cây tính

tẩu đòi hỏi rất nhiều yếu tố: biết đàn, biết hát, cảm thụ tốt các âm thanh vang ra từ
cây đàn, cảm nhận được âm sắc của mỗi cây đàn, thật sự yêu quý cây đàn, hiểu


quy trình làm đàn và đặc biệt phải có một đôi bàn tay khéo léo mới có thể làm
được.
3.6.2. Chùm xóc nhạc
Chùm xóc nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là
rung hoặc lắc, các vòng tròn nhỏ cùng các quả nhạc (chuông nhỏ) tác động vào
nhau phát ra âm thanh. Chùm xóc nhạc thường gồm có 2 quả xóc to, 3 quả xóc
nhỏ bằng đồng, kèm vào đó là những vòng khuyên đồng có đường kính 15 đến
18mm, được móc nối với nhau thành những chuỗi xích dài khoảng 20 đến 25cm,
thường là 5 chuỗi, 9 chuỗi, hoặc 15 chuỗi xích, vì vậy người ta căn cứ vào số
chuỗi xích để bổ sung thêm các quả xóc cho phù hợp. Trong quá trình làm Then,
chùm xóc nhạc được các bà Then, ông Then sử dụng theo nhiều cách. Khi quân
binh vượt núi thì nhạc xóc thôi thúc, khi vượt sông thì tiết tấu nhanh hơn, dồn dập
hơn, khi linh hồn nhập vào thì xóc nhạc tốc độ càng nhanh hơn.
(Cây đàn tính do chính tay thầy Lợi làm ra)

3.7. Nghệ thuật biểu diễn


3.7.1. Hình thức
Người biểu diễn phải ăn mặc đẹp, bộ trang phục truyền thống màu đen của
dân tộc Tày, có khăn vấn, mặt tươi, có tác phong sân khấu. Khi trình diễn họ
thường tổ chức một lễ cúng nhỏ để xin phép tổ sư. Người trình diễn then theo
hình thức tổng hợp vừa hát vừa đệm đàn, kết hợp với chùm xóc và múa để thể
hiện nội dung câu hát. Khi hát càn hát đúng nhịp, đúng lời hát.
3.7.2. Cách biểu diễn
Khi đánh đàn người nghê nhân phải đặt bầu đàn trên đùi phải, dùng ngón tay

cái của tay trái đỡ lưng cần đàn, các ngón còn lại dùng để bấm dây. Và tuỳ theo
tình cảm giai điệu của bài hát múa, đàn, các nghệ nhân còn trình diễn với nhiều
sáng tạo phong phú khác nhau như: Ở những đoạn nhộn nhịp hoặc tương đối tự
do, các ngón bấm của tay phải có thể dùng ngón bấm của tay trái để dùng búng,
vuốt. Tính chất của tính Then nổi bật là tính trữ tình, chất phác, hồn nhiên, vui
tươi và những suy tư trong cuộc sống của người Tày - Nùng. Tuy không phải là
cây đàn hào nhoáng có sức mạnh nổi bật ở bề ngoài nhưng nó thực sự là cây đàn
phù hợp với kỹ thuật tinh tế như trượt, vuốt, láy rền, vê…
Với chùm xóc nhạc người trình diễn dùng phương pháp kích âm: gõ chùm
xóc nhạc xuống một miếng vải vuông, được đặt trên sàn nhà, mặt đất hoặc cầm
chùm nhạc rung, lắc, đập vào vai người khi múa. Nghệ nhân sử dụng chùm nhạc
theo nhiều cách khác nhau.
3.8. Vai trò của hát Then trong đời sống
3.8.1. Then chứa đựng mơ ước khát vọng về cuộc sống bình yên, ấm no,
hạnh phúc
Được nuôi dưỡng và phát triển trong dân gian nên trước hết Then là sự phản
ánh những tâm tư nguyện vọng chính đáng của người dân qua nhiều thế hệ. Đó là
những mong muốn rất bình dị của người nông dân: có thóc gạo trâu bò gà vịt đầy
nhà, cha mẹ già trường thọ, gia đình hòa thuận yên vui, con cái hiếu thảo trưởng
thành. Những lời ước nguyện này được thể hiện qua lời cầu khẩn nội dung từng
nghi lễ cụ thể. Hoạt động nghi lễ đã minh chứng, việc các thần các ma đem phước
lộc, sắc đẹp để con người mãi mãi khoe mạnh xinh tươi, tư tưởng này bao trùm và
hòa trộn vào lời Then khó có thể tách rời. Trước bàn thờ, các thầy Then một lòng
thành kính cầu mong các vị thần linh ban cho mọi người cuộc sống no đủ hạnh
phúc. Đó là ước mơ chung của mọi người, nó thể hiện trên gương mặt vui vẻ,
rạng rỡ của những người phụ nữ và trên gương mặt rắn rỏi, nghị lực của những
người đàn ông.
3.8.2. Then đề cao giá trị con người



Then có nhiều nội dung phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội, đề cao
phẩm chất tốt đẹp của con người. Thông qua nghệ thuật ngôn từ Then đã khắc
họa nên những hình tượng nhân vật tương phản: trai đần – trai giỏi; gà lười – gà
chăm với những ý nghĩa răn đe dạy dỗ người đời. Để khuyên dạy con cái có hiếu
thảo với cha mẹ, Then ca ngợi tình mẫu tử.
Bên cạnh hiện thực hóa đời sống khổ cực của người dân trong xã hội có giai
cấp, Then cũng tỏ rõ thái độ phê phán và ý thức phản kháng của người dân đối
với kẻ cầm quyền. Then châm biếm những kẻ quan lại “ăn trên ngồi trốc”, ngồi
mát đánh bát đầy với những thói xấu ham chơi, mê gái đẹp, tham lam vô độ…
Qua đó Then ca ngợi phẩm chấ cao quý của người lao động, trọng việc nghĩa, giữ
chữ tín, thủy chung như một… Cũng qua Then đã lột tả được bộ mặt thật của
những tên tham quan vô lại, ăn của đút lót, dối trên lừa dưới ở chốn quan trường.
Như vậy xét về mặt nội dung, Then chuyển tải trong nó những thông điệp
của một thời quá khứ. Ngày nay nhiều vấn đề trong Then không còn được phù
hợp với đời sống hiện đại nhưng những giá trị nhân bản trong giáo dục đạo đức
thì mãi mãi có giá trị.
3.8.3. Then tích hợp các giá trị văn hóa của người Tày
Then là sự hội tụ những tài hoa nghệ thuật trong dân gian. Những nghệ
nhân Then bằng công việc của mình đã góp phần đắc lực vào việc phổ biến và lưu
truyền nghệ thuật biểu diễn Then từ đời này sang đời khác. Nếu như trong lễ Then
thường, các nghệ nhân chỉ biểu diễn chính là đàn và hát thì trong Then cấp sắc họ
đã thực sự thể hiện hết mình thông qua các hình thức biểu diễn khác như múa,
diễn trò, nhập đồng... Đặc biệt ở đây phải kể đến các điệu múa trong Then. Chỉ có
thông qua lễ cấp sắc người xem mới thực sự được thưởng thức hết vẻ đẹp tinh tế,
sự phong phú và cuốn hút của các điệu múa dân gian Tày. Và vì vậy, cũng có thể
nói rằng Then đại lễ trong đó có Then cấp sắc là một diễn xướng góp phần lưu
giữ những giá trị văn hoá nghệ thuật tinh tuý của người Tày.
Then nói chung và đặc biệt là Then cấp sắc nói riêng là sự tập trung cao độ
nghệ thuật nguyên hợp của người Tày với sự tham gia của nhiều thành tố nghệ
thuật khác nhau mà tiêu biểu là nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn cộng với

môi trường diễn xướng mang đậm màu sắc tâm linh.
3.8.4. Vị trí của hát Then đối với huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
Then vùng Định Hóa là sự kế thừa truyền thống văn hóa tộc người và dung
hòa với điều kiện sống trong một môi trường đa dạng về văn hóa, nên có thể nói,
nơi đây vốn sớm là vùng đất của Then. Điều này được minh chứng qua việc hiện
nay, trong bản, trong làng, các cụ già cao tuổi, những nghệ nhân vẫn tự trồng bầu
lấy quả làm đàn tính. Những nghệ nhân vùng Định Hóa thể hiện các loại hình


nghệ thuật dân gian phong phú và đa dạng kết hợp giữa Then cổ và Then hiện đại,
như biểu hiện qua các loại hình diễn xướng và cả độc diễn. Từ loại hình đạo cụ,
trang phục truyền thống….được tái hiện giữa không gian và sắc thái của Then. Vì
vậy nghiễm nhiên mỗi độ tết đến, xuân về, hoa đào đua sắc, Then được đặt trong
một không gian trang nghiêm của các buổi lễ trọng đại, như: Lễ Xuống đồng đầu
năm và bao giờ Then cũng được thể hiện trong màn khai hội giữa trung tâm Định
Hóa.
3.9. Vai trò của câu lạc bộ và địa phương trong việc giữ gìn và phát huy Then
Tày
Mặc dù Then gắn bó sâu sắc tới đời sống nhân dân và mang giá trị to lớn
tuy nhiên nó lại đang đứng trước nguy cơ bị hao mòn đi, không được các thế hệ
trẻ đón nhận một cách nhiệt tình. Bởi vậy Định Hóa đã tạo ra câu lạc bộ hát Then
do cô Hoàng Thị Nhận là chủ nhiệm câu lạc bộ. Câu lạc bộ được thành lập nhằm
mục đích lưu truyền và phát huy vai trò của hát Then, theo chia sẻ của cô: “ Câu
lạc bộ được thành lập vào năm 2009 với dự án của nhà nước và phòng văn hóa,
với số hội viên lên đến hơn 20 người”
Tuy nhiên những khó khăn mà câu lạc bộ gặp phải như đó là câu lạc bộ sở
thích, mọi người yêu môn này hay chưa có kinh phí cấp trên đưa xuống gây khó
khăn trong sinh hoạt câu lạc bộ. Trong câu lạc bộ có ít thành viên do phai đi học
hoặc làm ăn xa không thể tham gia được. Tuy nhiên các cô trong câu lạc bộ vẫn
cố gắng duy trì sinh hoạt đầy đủ, không những diễn trong xã mà còn đi ra các

huyện xã khác, thậm chí về những tỉnh khác biểu diễn như Hải Phòng, Quảng
Ninh…
Như vậy nhờ có câu lạc bộ đã giúp cho hát Then ở Định Hóa được lưu
truyền và phát triển rộng rãi hơn. Đặc biệt câu lạc bộ đã giúp cho nhiều thế hệ trẻ
có cơ hội được tiếp xúc với hát Then và từ đố có thể học hỏi và làm cho hát Then
được lan truyền ra các vùng khác không chỉ ở trong Định Hóa mà còn ra cả vùng
Tây Bắc và cả đất nước.
3.10. Sự khác biệt của then Định Hóa với các khu vực khác
Âm nhạc trong nghi lễ then của người Tày nói chung và người Tày ở huyện
Định Hóa, Thái Nguyên nói riêng là loại hình âm nhạc tổng hợp của khí nhạc
đệm (đàn, chùm xóc nhạc) và hát. Âm nhạc trong nghi lễ then của người Tày nơi
đây vừa mang đặc trưng của then Tày vùng Đông Bắc vừa mang sắc thái riêng
biệt thể hiện qua lời ca, tiết tấu, nhạc đệm, thang âm, điệu thức…
Về hát: Điểm chung trong lời hát của then Định Hóa với then ở các địa
phương khác thuộc vùng Đông Bắc chính là sự pha trộn ngôn ngữ Kinh và Tày
trong lời hát. Tuy nhiên, mức độ pha trộn với ngôn ngữ của người Kinh ở then


Tày Định Hóa có phần đậm đặc hơn, nhiều đoạn bị Kinh hóa hoàn toàn cả trong
câu hát lẫn thể thơ.
Về tính tẩu: Nhìn chung ở Định Hóa có sự tương đồng với các nơi khác, có
chăng, khác đôi chút về kích thước cũng như trang trí trên cần đàn, thân đàn, mặt
đàn, phụ thuộc vào sở thích của từng nghệ nhân làm tính tẩu cũng như mỗi thày
then.
Bên cạnh đó, các làn điệu hát then của người Tày ở huyện Định Hóa thường
được chia ra những tên gọi khác nhau tùy từng vùng bởi sự giao lưu tiếp biến với
văn hóa địa phương và khả năng tức hứng của mỗi nghệ nhân Then. Nhìn chung
có thể chia các làn điệu trong nghi lễ then Định Hóa thành: tàng bốc (đường bộ,
đường trên cạn): đi đường, khao quân, vượt núi…; tàng nặm (đường thủy): thủy
thượng (giãi bày, vượt sông…), thủy hạ (chèo đò, gọi én, cống sứ ngoại bang…).

Nghệ nhân then ở Định Hóa có thể ứng tấu các làn điệu trong nghi lễ một
cách linh hoạt. Họ có thể chơi và hát tất cả các làn điệu trong một nghi lễ hoặc chỉ
hát một làn điệu nhưng thể hiện được các tính chất cũng như sắc thái của nghi lễ
đó khi qua các cửa.
Đặc trưng nổi bật trong then Tày ở Định Hóa chính là sự xuất hiện làn điệu
thủy hạ. Làn điệu thủy hạ mô tả đoàn quân then đi qua vùng nước trôi êm đềm,
bình yên nên nghe điệu này cảm giác như điệu hò khoan và lả lướt của người
Kinh.
Về nghệ thuật trình diễn âm nhạc trong nghi lễ then: Điểm khác biệt của
âm nhạc trong then Định Hóa chính là cách thượng đàn và hạ đàn sau mỗi chặng
đường đi hay vào mỗi cửa. Theo đó, thày then dựng tính tẩu (thượng đàn) gảy dây
buông trì tục với tiết tấu chậm rãi, vừa gảy vừa khấn theo kiểu giãi bày, cầu xin…
Khi di chuyển từ nhà gia chủ đi tới các cửa để nộp lễ, âm nhạc biểu hiện rất
phong phú, có sự tham gia của tính tẩu với vai trò đệm hát, miêu tả chặng đường
đi, chùm xóc nhạc biểu thị cho ngựa, xe.
Như vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của then Tày vùng Đông Bắc thì
then của người Tày ở huyện Định Hóa có những nét riêng thể hiện đậm nét dấu
ấn địa phương. Điều đó được thể hiện từ làn điệu cho đến thang âm, đặc biệt là
qua sự lưu lại dấu ấn cá nhân của nghệ nhân then ở Định Hóa với khả năng tự
sáng tác đàn, hát cũng như biểu diễn chuyên nghiệp. Điều đó góp phần làm nên
sự đa dạng trong thống nhất của then Tày nói chung.

Chương 4: Nhận xét và đánh giá kết quả thu hoạch
4.1. Vai trò của địa phương trong việc gìn giữ, phát huy Then Tày


Qua tìm hiểu từ các cán bộ công tác tại Trung tâm Văn hóa thể thao huyện
Đinh Hóa cũng như các nghệ nhân và chính quyền xã, nhóm nghiêm cứu chúng
tôi đã có cái nhìn sơ bộ về sự phát triển và kế hoạch phát huy Then Tày ở địa
phương.

Nhằm bảo tồn, gìn giữ một nét tinh hoa văn hóa truyền thống, huyện Định
Hóa (Thái Nguyên) đã thành lập các Câu lạc bộ Hát then thu hút đông đảo bà con
dân tộc Tày, Nùng tham gia. Không chỉ có các cụ già, Câu lạc bộ còn thu hút các
em nhỏ thường xuyên đến tập luyện. Trong các dịp lễ hội, Câu lạc bộ lại đem
tiếng hát ngọt ngào, hòa quyện trong giai điệu đàn tính trầm bổng đi giao lưu biểu
diễn trên khắp các nẻo đường đất nước…
Định Hóa có hơn 40.000 người dân tộc Tày Thái Nguyên, đông hơn cả so
với các địa phương khác trong khu vực, có 6 nghệ nhân hát Then, đàn tính. Đầu
năm 2007, Câu lạc bộ Dân ca các dân tộc huyện Định Hóa được thành lập trên cơ
sở nhóm nghệ nhân then. Với số hội viên ban đầu rất khiêm tốn 28 người, CLB
đàn tính Định Hóa (Thái Nguyên) đã tập hợp được các nghệ nhân, những người
yêu đàn tính, hát then để cùng nhau bảo tồn nét văn hóa đặc sắc của vùng đất
chiến khu xưa. Rất đông người xin vào Câu lạc bộ, qua tuyển lựa đã kết nạp 42
hội viên của 4 dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Kinh… Các hội viên của Câu lạc bộ hầu
hết là nông dân, họ tranh thủ lúc nông nhàn để học đàn, hát các bài ca đã quen
thuộc từ khi còn trong bụng mẹ.
Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết gìn giữ nét văn hóa truyền
thống của dân tộc Tày ở Định Hóa, chính quyền địa phương và người dân đã
thành lập Câu lạc bộ Hát then, từ đó đến nay đã thu hút rất nhiều thanh, thiếu niên
tham gia. Các nghệ nhân càng phát huy vai trò của mình, góp phần thành lập
thêm nhiều Câu lạc bộ Hát then ở các xã, giúp nhiều người, nhất là thế hệ trẻ yêu
thích loại hình nghệ thuật này.


(Thành viên của CLB hát Then Định Hóa, có những người còn rất trẻ)
4.2. Nhận xét, đánh giá kết quả thu hoạch
Then là một hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lâu đời của người Tày
miền núi phía bắc Việt Nam. Việc nhìn nhận và đánh giá vị trí của Then trong đời
sống tinh thần của người Tày là một việc làm cần thiết đóng góp cho việc tìm
hiểu đời sống tôn giáo tín ngưỡng của các dân tôc thiểu số nói chung và đồng bào

Tày nói riêng đặc biệt là ở khu vực huyện Định Hóa-Thái Nguyên.Cũng như các
dân tộc khác, trong quá trình tồn tại và phát triển, dân tộc Tày đã sáng tạo ra một
di sản văn hóa quý báu, xây dựng được một nền nghệ thuật với nội dung phong
phú, đa dạng.
Then từ lâu đã gắn với cuộc sống tinh thần của các dân tộc Tày - Nùng, có vị
trí quan trọng trong đời sống thường ngày và đời sống tâm linh. Then là một loại
hình nghệ thuật tổng hợp có văn học, âm nhạc, múa, mỹ thuật... được lưu truyền
rộng rãi trong quần chúng.
Từ nhân lõi là yếu tố tín ngưỡng, Then đã sản sinh và tích hợp nhiều giá trị
nghệ thuật, tạo nên một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể rất tiêu biểu của
người Tày. Các yếu tố nghệ thuật này tồn tại trong một tổng thể nguyên hợp, đan
xen, cái nọ là tiền đề cho sự tồn tại của cái kia, tạo nên một môi trường diễn
xướng hài hòa, trọn vẹn.
Sau khi đi thực tế tại xã Phúc Chu- thị trấn Chợ Chu –huyện Định Hóa-tỉnh
Thái Nguyên để tìm hiểu về nét văn hóa hát Then của dân tộc Tày nơi đây, chúng


tôi đã thu thập được rất nhiều thông tin giúp ích cho bộ môn Văn học dân gian và
các công trình đi sâu nghiên cứu tìm hiểu Then Tày về sau.
Thứ nhất, về nguồn gốc của hát Then: Qua những thông tin phỏng vấn từ
phía những nghệ nhân lớn tuổi hiểu biết sâu sắc về hát Then sẽ là nguồn tài liệu
tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn học dân gian sau này khi đi sâu tìm hiểu
về hát Then của dân tộc Tày huyện Định Hóa nói riêng và trên cả nước nói chung.
Thứ hai, về lời hát và nhạc cụ: Qua những tư liệu chúng tôi thu thập được
thì có thể thấy rằng nội dung của lời hát Then vô cùng phong phú và hầu hết được
viết bằng tiếng Tày.Phần lời những bài hát Then mang giá trị văn học-văn hóa to
lớn đặc biệt với văn học dân gian, bên cạnh đó chúng tôi được tiếp xúc trực tiếp
với các loại nhạc cụ được tìm hiểu kĩ hơn về cấu tạo cũng như cách sử dụng.
Những nhạc cụ này không thể thiếu trong hát Then bởi nó làm cho câu hát uyển
chuyển có nhịp điệu hơn.

Thứ ba, về không gian và thời gian: Hát Then là một hình thức sinh hoạt
văn hóa dân gian đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống, sinh hoạt, tín ngưỡng của
dân tộc Tày, đối với dân tộc Tày ở huyện Định Hóa cũng vậy.Trải qua nhiều đời ,
nhiều thế hệ con cháu nối tiếp nhau tiếp tục tập quán sinh hoạt tín ngưỡng mang
nét đặc sắc riêng của dân tộc mình.Hát Then thường được diễn gia vào các dịp lễ
hội, ma chay,…có thể ở trong nhà hay ngoài trời. Đến ngày nay hát Then còn
được biểu diễn trong các hoạt động giao lưu văn hóa.
Hát Then có một vị trí hết sức quan trọng trên địa bàn huyện Định Hóa, nó
không chỉ là hình thức giúp người nông dân cùng ngồi lại với nhau cất lên lời ca
tiếng hát sau những ngày lao động mệt mỏi,phục vụ giao lưu văn nghệ giữa các
địa phương mà còn đang nâng cao giá trị của Then Tày trong xã hội và đưa nó
đến với giới trẻ nhiều hơn qua các câu lạc bộ hát Then trên địa bàn, ta cũng thấy
được sự quan tâm của chính quyền địa phương đối với việc giữ gìn bảo tồn nét
văn hóa này.
Những tư liệu mà chúng tôi có được hoàn toàn dựa vào lời kể của nghệ
nhân và các thành viên trong câu lạc bộ Then Tày cùng với sự giúp đỡ của các cơ
quan đoàn thể nơi đây nên tư liệu rất đa dạng phong phú.Qua đây chúng tôi biết
thêm nhiều về những câu hát, làn điệu Then cho chúng tôi những hiểu biết phong
phú hơn.
Bên cạnh đó Then vẫn còn tồn tại một số hạn chế như sau: Then ít nhiều đã
hình thành trong quan niệm của một số người dân nhất là ở lớp phụ nữ cao tuổi tư
tưởng thần thánh hoá vai trò của Then, cho rằng Then có thể giải quyết được mọi
vấn đề liên quan đến thần linh và ma quỷ. Vì vậy họ tin tưởng một cách tuyệt đối
vào việc bói toán của các thầy cúng, gia đình có bất kỳ điều gì bất ổn cũng đi bói,


có trường hợp ốm đau nhưng không chịu đi bệnh viện mà chỉ muốn mời thầy
Then đến nhà giải hạn. Trong thực tế không thể phủ nhận vai trò của Then trong
chữa bệnh bằng liệu pháp tâm lý nhưng phải xác định không phải bất kỳ bệnh nào
Then cũng giải quyết được.

Ngoài ra hạn chế còn đến từ chính bản thân thầy Then. Do nhiều nguyên
nhân, có thể là do nhận thức kém hoặc do trục lợi hoặc do cuồng tín mà dẫn đến
có sự thần bí hoá nghề nghiệp của một số cá nhân lôi kéo những người cuồng tín
làm giảm đi giá trị văn hoá của Then.
Hạn chế khác liên quan đến thủ tục nghi lễ. Nhìn chung so với các hình
thức cúng bái khác kể cả so với Pụt là hình thức gần với Then thì Then là nghi lễ
có nhiều thủ tục nhất, thời gian kéo dài hơn. Trung bình một lễ Then đi hành nghề
phải thực hiện trọn một đêm kéo dài từ khoảng 9 giờ đêm hôm trước đến 4 giờ
sáng hôm sau. Điều này không những ảnh hưởng đến sức khoẻ của người làm
Then mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ và đảo lộn giờ giấc sinh hoạt của các thành
viên trong gia đình gia chủ. Vì vậy việc xem xét có cần thiết phải kéo dài một
nghi lễ như vậy hay không cũng là một vấn đề cần thảo luận trong việc bảo tồn và
phát triển Then.
Vì ra đời trong xã hội cũ nên trong văn bản hành lễ của Then không tránh
khỏi những giải thích tiêu cực cho rằng số phận con người là do trời định làm kìm
hãm ý chí vươn lên vượt qua số phận của con người. Cũng như vậy, vì mang nặng
tính chất nghi lễ nên âm nhạc trong Then có nhiều đoạn buồn thiên về an ủi, xoa
dịu. Mặt khác, do trình diễn trong thời gian dài, các giai điệu cũng như lời hát
thường trùng lặp dễ gây sự nhàm chán cho người tham dự.
Do phương thức truyền miệng, hành nghề không dùng sách nên không thể
tránh khỏi tình trạng tam sao thất bản hoặc nhầm lẫn, hoặc thêm thắt bổ sung bởi
những người trực tiếp hành nghề. Hiện tượng này dễ dẫn đến tình trạng không
quy chuẩn trong diễn xướng Then cả về nội dung lẫn hình thức. Và như vậy giá
trị của một diễn xướng Then cụ thể lại lệ thuộc vào chính bản thân thầy Then.
Cùng là một nghi lễ Then như nhau nhưng với thầy Then giỏi, hành nghề có kinh
nghiệm thì sẽ mang lại cảm giác thành công hơn so với một thầy Then kém, hát
dở đàn tồi hoặc kém nhiệt tình. Đó cũng là một trong những đặc điểm trong
phương thức hành nghề Shaman của Then.
Một biểu hiện tiêu cực khác là về một khía cạnh nào đó Then đã ủng hộ
những phép ứng xử không lành mạnh trong xã hội. Then phơi bày bộ mặt xấu

trong xã hội có giai cấp nhưng một mặt Then còn a dua theo. Có thể nói toàn bộ
các nghi lễ Then, từ Then đại lễ đến các lễ Then thường đều có cùng một nội
dung là lễ lạt, cống nộp các bậc bề trên để mưu cầu tư lợi. Đối với tầng lớp trên
(mà Then là đại diện) thì cống nạp để mưu cầu thăng quan tiến chức. Trong Then


cấp sắc nhắc đi nhắc lại nhiều lần nội dung người đệ tử làm cỗ bàn, lễ lạt thịnh
soạn cống nạp Ngọc Hoàng và các vị thần linh để được phê chuẩn chức tước.
Trong các lễ Then thường thì phản ánh nhiều nội dung người dân hối lộ thần linh
để được ban phúc, ban lộc. Chẳng hạn như hối lộ Nam Tào Bắc Đẩu (tức ông vua
số) để ông này phê duyệt kéo dài tuổi thọ, hối lộ Mẹ Hoa để mẹ cho nhiều con
cái, v.v... Then nhấn mạnh nhiều đến yếu tố vật chất mà bỏ qua những giá trị tinh
thần như là công lao học hành đèn sách, tu dưỡng đạo đức của người đệ tử, khả
năng tự vươn lên chiến thắng số phận của con người, v.v...
Tuy nhiên, do giới hạn của một bài tiểu luận, chúng tôi chưa thể phân tích
đầy đủ và sâu sắc nội dung đã sưu tầm.Bài tiểu luận chỉ mang tính chất giới thiệu,
hệ thống lại nội dung sưu tầm chưa đi sâu nghiên cứu nội dung từng phần.

Chương 5 Những đề xuất khuyến nghị nhằm bảo tồn phát huy giá
trị văn hóa văn học dân gian
Dưới tác động của cơ chế thị trường và quá trình hội nhập một số nét bản
sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc như trang phục, nếp sống văn hóa- văn
nghệ dân gian, phong tục tập quán đang bị pha tạp và dần mai một. Nhiều làn
điệu dân ca, điệu múa cổ truyền,nhạc cụ dân tộc, lễ hội dân gian, một số nghề thủ
công truyền thống bị thất truyền.Then Tày ở Định Hóa (Thái Nguyên) nói riêng
cũng dần bị mai một,các nghệ nhân hát Then không còn nhiều.Vì vậy những đề
xuất khuyến nghị là rất cấp thiết để bảo vệ phát huy giá trị văn hóa dân gian này.
5.1. Đối với nhà nước
Đảng và nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho các hoạt động tổ chức liên hoan
hát Then cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh để tăng độ cọ xát, nâng cao tinh thần

giao lưu và nhân rộng tình yêu Then tới nhân dân cả nước. Ngoài ra loại hình
nghệ thuật này cũng cần được quảng bá đồng bộ trên các phương tiện truyền
thông đại chúng qua một số chương trình giới thiệu âm nhạc.
Tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cho người dân.Tiếp tục đầu tư kinh phí
mở các lớp tập huấn cho những người có khả năng về âm nhạc(đàn tính-hát Then)
làm hạt nhân cho các phong trào văn hóa văn nghệ cơ sở.Như vậy công tác truyền
dạy hát Then đàn tính mới đạt hiệu quả
5.2. Đối với địa phương
Bên cạnh công tác sưu tầm, phục dựng các làn điệu Then cổ, các cấp chính
quyền địa phương và ngành văn hóa cần đặc biệt quan tâm đến nghệ nhân hát
Then, đây là những báu vật sông có khả năng truyền đạt cả giai điệu lẫn tình yêu,
niềm say mê then đến thế hệ trẻ. Nhờ những người nghệ nhân gìn giữ, thổi hồn
vào các làn điệu hát Then, đa dạng hóa phương thức bảo tồn trên cơ sở lưu giữ


những giá trị nguyên gốc. Tại các vùng then cần thành lập các lớp học hát Then,
câu lạc bộ hát Then, đội văn nghệ then sinh hoạt đều đặn hằng tuần hằng tháng.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng,tập huấn hát Then cho hạt nhân văn nghệ cơ sở,
mời các nghệ nhân đến truyền dạy các làn điệu then cổ, phối hợp với các xã có
nghệ nhân tâm huyết với các làn điệu Then cổ để mở lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ
tại địa phương.
Then Tày với đặc thù là loại hình diễn xướng dân gian truyền khẩu, người
nghệ nhân đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo những người kế nghiệp,
do đó các cấp chính quyền địa phương cần thường xuyên tổ chức hội nghị tôn
vinh các nghệ nhân văn hóa dân gian để động viên cổ vũ những người có đóng
góp tích cực cho cộng đồng. Có chính sách đãi ngộ cụ thể đối với các nghệ nhân,
nghệ sĩ, xây dựng chiến lược lâu dài để nghệ thuật trình diễn Then có thể biểu
diễn phục vụ khan giả mà không phụ thuộc vào kinh tế.
Đưa hát Then vào các hoạt động ngoại khóa tại các trường học tại địa
phương, tổ chức cho học sinh tập luyện và biểu diễn các làn điệu hát Then để

giúp các em hiểu rõ hơn về giá trị truyền thống, nét văn hóa của cha ông, từ đó
nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn và gìn giữ nét văn hóa
độc đáo này.
5.3. Đối với sinh viên khoa Ngữ văn
Then Tày là một nét đẹp văn hóa tín ngưỡng lâu đời của dân tộc Tày cần
được bảo tồn và phát huy. Là một sinh viên Khoa Ngữ Văn trong quá trình học
tập, Then Tày đã cung cấp thêm nhiều kiến thức bổ ích, nhất là trong bộ môn Văn
học dân gian làm cho vốn ngữ liệu phong phú và đa dạng hơn. Qua đó chúng tôi
càng thêm trân trọng và tự hào về nét đẹp văn hóa này.
Giới thiệu cho bạn bè và người thân về Then Tày và sự ảnh hưởng của nó đối
với cuộc sống của người Tày để mọi người biết thêm những giá trị tốt đẹp của
loại hình sinh hoạt tín ngưỡng này.
Sưu tầm những cuốn sách đĩa nhạc về hát Then qua đó cũng cung cấp thêm
nhiều kiến thức trong qua trình học tập. Có thêm nhiều công trình nghiên cứu
công phu, nghiêm túc về văn hóa hát Then để thêm nguồn tư liệu cho việc bảo
tồn, giữ gìn nét văn hóa này.


KẾT LUẬN
Chuyến đi thực tế tại xã Phúc Chu - thị trấn Chợ Chu - huyện Định Hóa
-tỉnh Thái Nguyên để tìm hiểu về nét văn hóa hát Then của dân tộc Tày đã thu
được nhiều hiệu quả đáng mong đợi. Ở đây, tôi đã được trải nghiệm, tự mình tìm
hiểu về vốn văn hóa phục vụ cho công tác sưu tầm văn hóa dân gian. Mặc dù gặp
không ít những khó khăn trong quá trình tìm hiểu nhưng công tác sưu tầm cũng
diễn ra hết sức thuận lợi. Sau chuyến điền dã tôi thu được không chỉ về mặt kiến
thức mà còn có thêm hiểu biết về vốn văn hóa các dân tộc, cùng với đó là các kỹ
năng phỏng vấn, làm việc nhóm, thuyết phục… Điều mà trên giảng đường sinh
viên khó có thể học hỏi một cách toàn diện.
Chuyến thực tế đã đáp ứng được những yêu cầu và ý nghĩa của học phần
Điền dã, sưu tầm văn học dân gian, từ đó tôi có thêm những hiểu biết thực tế để

có những đánh giá riêng về văn hóa hát Then cũng như đời sống ở khu vực nơi
đây. Then là bản sắc Văn hoá riêng của vùng và đa số mọi người đều có mong
muốn, nguyện vọng hát Then sẽ được lưu truyền và phát triển rộng rãi không chỉ
riêng trong địa bàn xã mà còn được lưu truyền trong cả nước.
Có một thực tế rằng, tuy số lượng người biết đến hát Then là tương đối
nhiều nhưng số người biết hát Then và yêu thích hát Then vẫn còn khá khiêm tốn.
Người biết hát Then trong vùng chủ yếu là người trung tuổi, thế hệ trẻ chưa thật
sự yêu thích và đam mê với Nghệ thuật hát Then. Vì vậy để phát triển và đưa văn
hóa hát Then vào cuộc sống hàng ngày là cả một chặng đường dài.
Trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, việc bảo tồn lưu giữ các nền
văn hóa dân gian nói chung và Then Tày nói riêng không phải là điều đơn giản.
Nếu không có một lộ trình cụ thể, cũng như sự phối hợp của các ban ngành cùng
cả xã hội thì những nét văn hóa truyền thống tôt đẹp có thể dần bị mai một. Có
thể nói, Then nói chung và Then Tày Định Hóa nói riêng hội tụ những giá trị văn
học dân gian truyền thống của người Tày với các thể loại truyện kể, truyền thuyết,
các câu thành ngữ, tục ngữ đã được chau chuốt, gọt giũa mà qua đó đã làm sáng
tỏ được nhân sinh quan và quan niệm về đạo đức của người Tày. Điều quan trọng
ở đây là thông qua việc phê phán, khuyên răn, ca ngợi thực tiễn cuộc sống bằng
hình thức diễn xướng hát có đệm đàn, Then đã đạt được hiệu quả tích cực trong
giáo dục cộng đồng mà không phải hình thức tuyên truyền nào cũng làm được.
Trong đời sống xã hội người Tày, then có nhiều giá trị văn hóa: Then phản
ánh hiện thực xã hội ở các giai đoạn lịch sử, phản ánh thế giới tâm linh của các
giá trị gia đình truyền thống; đồng thời còn phản ánh sự đa dạng của văn hóa Tày
hay cũng có thể nói then chính là sự tích hợp những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc
trưng của người Tày, tiêu biểu là nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn cộng


với môi trường diễn xướng mang đậm màu sắc tâm linh, thông qua các thể loại
độc tấu, song tấu, hòa tấu, hỗn tấu cùng cây đàn tính…
Quả thực các điệu hát Then đã tạo thành một sức mạnh riêng làm xao

xuyến lòng người vàvang vọng mãi dư âm trong tâm trí người nghe. Hát Then đã
phản ánh vẻ đẹp tâm hồn và đời sống tinh thần, văn hóa phong phú của người
Tày. Ta hoàn toàn có thể khẳng định điệu Then chính là điệu hồn của văn hóa dân
gian trên mảnh đất Định Hóa. Mỗi chúng ta nên có những hành động và biện
pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


×