Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tế địa phương.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.78 KB, 8 trang )

Câu 2: Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp
luận. Liên hệ thực tế địa phương.
Quán triệt sâu sắc ll với TT HCM đã thành công trong việc tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác – Leenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. HCM đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc cơ bản của CN Mác leenin. Thực tiễn ko co LL hướng dẫn là thực
tiễn mù quáng, ll mà ko liên hệ với tt là lý luận suông. Việc p/tích tìm hiểu mối liên hệ
b/chứng giữa LL và TT, từ đó rút ra quan điểm TT và vận dụng đúng đắn q/điểm đó trong
h/động TT là rất cần thiết cũng như tránh được những sai lầm của bệnh k/nghiệm, giáo
điều chủ nghĩa.
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng cơ bản của TH M-L
nói chung và của lý luận nhận thức Macsxit nói riêng. Trong lịch sử Triết học ko phải
mọi trào lưu nào đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đăn về phạm trù này.
Chẳng hạn CNDT chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới
của con người, chứ ko xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội.
Ngược lại CNDV trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất của
con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu nó ko có vai trò
gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý
trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triên của xã hội loài người. Với việc đưa
phạm trù thực tiễn vào LL nhận thức các nhà kinh điển của CN M-L đã tạo nên một bước
chuyển biến cách mạng trong THọc nói chung và trong ll nhận thức nói riêng.
Vậy TT là gì: Theo q/điểm của CNMLN, TT là toàn bộ những h/động vật chất, có
mục đích, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và XH.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người khác với hoạt động theo
bản năng của con vật nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài. Con
người nhờ vào thực tiễn như là một hoạt động có mục đích, có tính chất xã hội của mình
mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động tích cực
với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người ko thể thỏa mãn với những gì tự nhiên cung
cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành LĐSX ra của cải vật chất để


nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả con người phải chế tạo và sử dụng
công cụ lao động bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo
nên những vật phẩm vốn ko có sẵn trong tự nhiên. Ko có hoạt động đó, con người và xã
hội loài người ko thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy có thể nói rằng thực tiễn là phương
thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối
quan hệ giưã con người và thế giới.
Tuy trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có thay đổi qua các giai đoạn lịch
sử khác nhau của xã hội nhưng thực tiễn luôn luôn là hoạt động cơ bản và phổ biến của xã
hội loài người. Hoạt động đó chỉ có thể được tiến hành trong các quan hệ xã hội. Thực tiễn
cũng có quá trình vận động và phát triển của nó, trình độ pát trien của thực tiễn nói lên
trình độ chinh phục TGTN và làm chủ xã hội của con người do đó về mặt nội dung cũng
như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử- xã hội.

1


Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có 3
hình thức cơ bản là hoạt đông SXVC, H/đ chính trị- xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa
học.
Hoạt động sx vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là
hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình và xã hội.
Hoạt động cải tạo chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là một dạng đặc biệt của h/động TT. Đó là h/động
được con người tiến hành trong đk nhân tạo để nhận thức, cải tạo thế giới tự nhiên và xh
theo m/đích của mình. Ngày nay, trong điều kiện cách mạng KH và c/nghệ hiện đại thì
h/thức h/động TT này càng đóng vai trò quan trọng.

Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của TT có một chức năng quan trọng khác nhau ko
thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mqh chặt chẽ với nhau, t/đ qua lại lẫn
nhau. Trong mqh đó h/đ SXVC là h/đ cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với hoạt
động khác. Bởi vì nó là một hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan,
thường xuyên nhất trong đời sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải
thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người ko có h/đ
SXVC thì ko thể có các hình thức h/đ khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng
cũng xuất phát từ h/đ SXVC và phục vụ cho h/đ SX của con người.
Nói như thế ko có nghĩa là các hình thức h/đ chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa
học là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào h/đ SXVC. Ngc lại chúng có tác động
kìm hãm hoặc thúc đẩy h/đ SX phát triển. Chẳng hạn nếu h/đ chính trị - xã hội mamg tính
chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng đăn sẽ tạo đà
cho hoạt động sản xuất phát triển, còn nếu h/đ CT- Xh mà lạc hậu, phản cách mạng và nếu
hoạt động thực ngiệm mà sai lầm, ko khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của h/đ sản xuất
vật chất.
Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức h/đ cơ bản đó làm cho thực tiễn vận
động, phát triển ko ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
Lý luận là gì? LL là hệ thống những tri thức đc khái quát từ k/nghiệm TT, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong
thế giới k/quan và đc biểu đạt bằng hệ thg các k/niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật …
Hay nói cách khác ll là sự tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, là những tri thức về tự
nhiên và xã hội của con người phản ánh thế giới hiện thực khách quan nhằm phục vụ mục
đích và nhu cầu của con người, ll thông qua kinh nghiệm, từ kinh nghiệm con người luôn
rút ra được ll.
Ll có 2 đặc trưng:
Cơ sở của ll là thực tiễn. Tri thức của LL là tri thức khái quát từ tri thức kinh
nghiệm. LL được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng ll ko
hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và ko phải mọi ll đều trực tiếp xuất phát từ
kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, ll có thể đi trước những dữ kiện kinh
nghiệm. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa ll với kinh nghiệm.


2


HCM chỉ rõ : “ll là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri
thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
Ll có tính khái quát cao, tính lô gic và tính hệ thống chặt chẽ. Vì vậy , LL có thể
mang lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật, tính tất yếu của các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan. Do đó phạm vi ứng dụng của ll rộng hơn, phổ biến hơn so
với kinh nghiệm.
Sự thống nhất giữa LL và TT là 1 nguyên tắc căn bản của CN Mác-Lênin
Giữa LL và TT có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, TT giữ
vai trò là cơ sở , động lực, mục đích và là tiêu chuẩn của chân lý LL. Song, LL không chỉ
phản ảnh TT 1 cách thụ động mà nó có vai trò vạch đường cho hoạt động thực tiễn.
- TT quy định ll luận:
+ TT là cơ sở, nguồn gốc của ll: TT có trước quyết định ll. LL là sự tổng kết
những kinh nghiệm tt , ll thông qua kinh nghiệm từ kinh nghiệm rút ra được ll,
hoạt động thực tiễn thế nào thì ll phản ánh như vậy, tt luôn luôn vận động biến
đổi ko ngừng dẫn đến ll cũng phải vận động biến đổi theo.
+ TT cơ sở, động lực của LL.
Hđộng tt của con người, ngay từ đầu đã bị quy định bởi nhu cầu thực tiễn muốn
sống, muốn tồn tại con người phải sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội. Chính nhu cầu
sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám phá, nhận thức
thế giới xung quanh. Rõ ràng con người quan hệ với thế giới xung quanh ko phải bắt
đầu bằng ll mà bằng tt. Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới
khách quan làm cho thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính, những tính
chất, những tính quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho
nhận thức của con người những hiểu biết về thế giới. Như vậy mọi tri thức của con
người, xét đến cùng đều bắt đầu từ thực tiễn.
Tt còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó

luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. TT có tác dụng rèn luyện các
giác quan của con người làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn. Trên
cơ sở đó giúp nhận thức của con người đạt hiệu quả hơn. Bởi lẽ chính trong hoạt
động thực tiễn con người cung cải biến luôn chính bản thân mình, phát triển năng lực,
trí tuệ của mình. Ph. Awngngen đã k/đ: “…Chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
ko phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất
và trực tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”. h/đ tt còn là cơ sở để chế tạo ra các công
cụ, phương tiên, máy móc mới hỗ trợ con người trong quá trình nhận thức. Chính nhu
cầu chế tạo và cải biến công cụ sản xuất cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con
người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy phát triển.
TT còn là mục đích của LL.
ll của con người là nhằm phục vụ tt, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo tt. LL mà ko nhằm
mục đích phục vụ tt thì mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học, mọi ll chỉ có ý
nghĩa đích thực khi chúng được áp dụng vào tt nghĩa là được vận dụng vào sản xuất vật
chất, vào cải tạo xã hội và vào thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ con người.
TT còn là tiêu chuẩn để KTra LL:
3


TT là tiêu chuẩn kiểm tra tính chân lý hay sai lầm. Thông qua kiểm nghiệm tt
mà ll được khẳng định, được bổ sung, được phát triển hay loại bỏ.
TT là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối.
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn tt là chỉ có tt mới kiểm tra dc chân lý hay sai lầm của một ll,
một đường lối, 1 chủ trương, 1 chính sách nhất định.
Tính tương đối của tt trong việc kiểm tra chân lý là vì tt là một quá trình vận động
phát triển và việc kiểm tra tính chân lý của ll hay sai lầm của ll cũng phải là một quá trình.
Bất kỳ chân lý nào cũng mang tính lịch sử cụ thể vì tt mang tính lịch sử cụ thể.
+ Vai trò của LL đối với TT: Tuy xuất hiện trên cơ sở TT, song LL ko thụ động theo
sau TT mà có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại TT. Vai trò của LL thể

hiện ở chỗ:
+ LLCM đúng đắn đóng vai trò hướng dẫn chỉ đạo hoạt động tt. LLKH thông qua
hoạt động tt của con người góp phần làm biến đổi tgkq và chính tt.
+ LLKH đúng đắn nó có tác dụng hướng dẫn lôi kéo, tập hợp quần chúng hiểu thực
chất của vấn đề mà tt đặt ra để trở thành ptrao tt. Vì vậy ll khi đã thâm nhập vào quần
chúng thì nó trở thành sức mạnh vật chất vĩ đại. LL đóng vai trò soi đường, dẫn dắt chỉ đạo
tt. Nó vạch ra phương hướng và phương pháp cho h/đ tt, nhằm biến đổi hiện thực khách
quan theo hướng tiến bộ vì p con người. Nói về vai trò của llcm Lênin khẳng định “ Ko có
LL cách mạng thì cũng ko thể có phong trào cách mạng”, HCM đã ví “ko có LL thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi”.
Lý luận K/học đúng đắn có thể dự báo được xu hướng vận động phát triển của tt
giúp cho con người có thể tích cực chủ động, tự giác, có thể lường hết được những tình
huống xảy ra trong tt.
LL tác động đến tt diễn ra theo nhiều chiều tích cực or tiêu cực, thúc đẩy or kìm
hãm sự phát triển của tt, trong quá trình tác động ll phụ thuộc vào ba yếu tố. Bản thân ll đó
là khoa học hay sai lầm. Nếu ll đó đúng thì nó là động lực, là khoa học làm cơ sở phát
triển thúc đẩy tt; sự sâm nhập của ll vào trong tt của con người vào trong quần chúng nhân
dân; sự vận dụng của ll vào thúc đẩy của chủ thể quản lý.
Như vậy, TT và LL không tách rời nhau, mà thống nhất biện chứng với nhau. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Thống nhất giữa LL và TT là 1 nguyên tắc căn bản của
CN Mác-Lênin. Thực tiễn không có LL hướng dẫn thì thành TT mù quáng, LL mà không
liên hệ TT là LL suông". Điều đó k/định rằng giữa LL và TT có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau và bổ sung cho nhau.
* Nguyên lý đó có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động TT cũng như hoạt động LL.
+ Đối với hoạt động nhận thức:
Xuất phát từ quan niệm giữa LL và TT thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống
nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người và đều nhằm mục đích
cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người. Sự thống nhất giữa
LL và TT là sự thống nhất của những hoạt động có chức năng khác nhau. Chức năng của
thực tiễn là trực tiếp tác động cải tạo thế giới hiện thực; còn chức năng của LL là phản ánh

trung thành các QL vận động, Ptriển của hiện thực để phục vụ cho thực tiễn. Cho nên
trong hoạt động LL, chúng ta cần phải xác định LL phải xuất phát từ thực tiễn và phải
phản ánh 1 cách chính xác các QL khách quan làm cho LL thực hiện vai trò định hướng
cho nhận thức và hoạt động TT.
4


Cần khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây (và hiện nay vẫn còn tồn tại trong
1 số người) của chúng ta về CNXH như quan niệm về CNH, về cải tạo XHCN, cơ chế
QLKT, về phân phối, về lưu thông…đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công tác ncứu LL,
tổng kết có hệ thống sự nghiệp XD CNXH và bảo vệ Tổ quốc, rút ra những kluận đúng
đắn, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, có như vậy, LL mới thực hiện vai trò tích cực của mình
đvới TT.
Đổi mới nhận thức LL và công tác LL là 1 quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu tranh
với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm LL cũ. Đồng thời, đtranh với những
ttưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những ntắc cơ bản của CN Mác-Lênin, phủ định sạch
trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của CNXH.
Không nên biến các nguyên lí LL thành giáo điều khô cứng máy móc, điều cơ bản là
rút ra từ đó những giá trị về phương pháp luận. Căn cứ để xây dựng và Ptriển LL chính là
TT, phải tìm trong TT và thường xuyên tổng kết TT.
Để tạo ĐK thuận lợi cho đổi mới tư duy nói chung, đổi mới tư duy LL, công tác LL
nói riêng, cần tạo bầu không khí dân chủ trong XH, trong tập thể, tôn trọng sự thật, tôn
trọng chân lý, tạo hệ thống thông tin chính xác; tự phê bình và phê bình được tiến hành 1
cách t/xuyên và nghiêm túc…Cùng với những Đkiện nêu trên, việc bám sát những vấn đề
TT, hướng vào TT, dựa trên cơ sở TT…là cái bđảm thành công cho đổi mới LL và đổi mới
công tác lý luận.
+ Đối với Hđộng TT:
TT đã, đang và sẽ mãi mãi là ngọn nguồn bất tận của mọi hiểu biết của con người. Là
1 hđộng lịch sử mang tính chủ động, tự giác, công cuộc XD CNXH của chúng ta không
thể thiếu được LL Khọc Mác-Lênin với tính cách là kim chỉ nam cho hđộng thực tiễn.

Nhưng chúng ta đừng bao giờ coi LL Mác-Lênin như 1 thứ giáo điều trong đó đã có sẵn
lời giải đáp cho mọi vấn đề của thời đại chúng ta. Trên cơ sở những định hướng cơ bản
chủ yếu mang tính chất thế giới quan và phương pháp luận của LL Mác-Lênin, chúng ta
còn phải đi vào tổ chức hđộng TT, từ diễn biễn và những kquả cụ thể trong thực tiễn mà
làm sáng tỏ, thậm chí khám phá thêm nhiều vấn đề, tìm ra những PPháp và cách thức cụ
thể để giải quyết những vấn đề do chính cuộc sống hôm nay đặt ra.
* Biểu hiện tập trung nhất của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn chính là bệnh kinh nghiệm CN và bệnh giáo điều .
- Kinh nghiệm có vài trò hết sức to lớn trong nhận thức cũng như trong hoạt động
thực tiễn. Nhưng nếu coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi nhẹ lý luận,
không chịu học tập lý luận thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm có nhiều tác
hại, dễ dẫn tới việc coi thương lý luận, coi thường việc học tập lý luận, coi nhẹ vai trò của
cán bộ làm công tác lý luận, của đội ngũ trí thức để rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy
áng chừng, đại khái; trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, sự vụ, gặp đâu hay
đó, thiếu nhìn xã trộng rộng… Bản chất của bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng
và hành động tuyệt đối hoá vai trò kinh nghiệm thực tiễn, coi thường hạ thấp vai trò của lý
luận.
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hoá lý luận, coi
thường hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc áp dụng kinh nghiệm hay lý luận không tính
tới điều kiện thực tiễn cụ thể. Đó là giáo điều kinh nghiệm và giáo điều lý luận.
Nếu cường điệu lý luận, coi nhẹ thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, tách lý luận
khỏi thực tiễn, vận dụng lý luận không căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử- cụ thể sẽ mắc bệnh
5


giáo điều. Ở nước ta có hai loại giáo điều đó là: giáo điều lý luận biểu hiện ở việc học tập
lý luận tách rời khỏi thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm
thường trích cú…; giáo điều kinh nghiệm biểu hiện ở việc rập khuôn máy móc, kinh
nghiệm của nước khác vào nước mình, của ngành khác vào ngành mình, của địa phương
khác vào địa phương mình… không tính đến những điều kiện lịch sử- cụ thể.

* Nguyên nhân:
- Khách quan: Bệnh giáo điều, khinh nghiệm chủ nghĩa có cội nguồn của nó là do
điều kiện KT-XH để lại, đối với nước ta đó là chúng ta đi lên CNXH từ 1 nước có nền
kinh tế nông nghiệp, SX nhỏ lạc hậu, từ chế độ PK tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn
ptriển TBCN. Cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chi phối, tồn tại 1 thời gian khá dài, đất
nước vừa thoát khỏi chiến tranh, trình độ cán bộ, đảng viên còn hạn chế.
- Chủ quan: Chúng ta chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sự thống nhất biện
chứng giữa LL và TT. Trong công tác LL, chưa thường xuyên tổng kết thực tiễn, chưa sâu
sát TT, công tác đào tạo bồi dưỡng LL còn thiếu đồng bộ.
* Biện pháp khắc phục:
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều ở nước ta ngoài những ng/nhân khác cùng có
chung một ng/nhân: vi phạm sự thống nhất giữa LL và TT. Đó là thực chất của 2 căn bệnh
này. Vì vậy, cùng với các g/pháp khác thì g/pháp q/trọng là phải quán triệt tốt sự thống
nhất giữa LL và TT. Quán triệt tốt sự thống nhất giữa LL và TT có thể bằng nhiều h/thức
khác nhau như: tổng kết thực tiễn; vận dụng các lý thuyết khoa học vào SX, cải tạo xã hội;
đẩy mạnh sự hợp tác giữa các trung tâm n/cứu với các cơ sở SX; t/cường sự hợp tác giữa
các nhà LL với các nhà hoạt động TT trong tổng kết k/nghiệm TT, trong đó tổng kết
k/nghiệm là g/pháp cơ bản, trực tiếp, quan trọng nhất. Vì vậy, Đảng ta đề ra nhiệm vụ “coi
trọng t/kết TT trong n/cứu LL và trong h/động của các cấp uỷ đảng; coi tổng kết TT là
nhiệm vụ thường xuyên của các cấp các ngành.
Tổng kết TT là quá trính bằng tư duy khoa học với p/pháp duy vật biện chứng phân
tích, đánh giá, khái quát TT nhằm rút ra những bài học cho chỉ đạo TT tiếp theo. Trên cơ
sở tổng kết k/nghiệm We mới thấy rõ những ưu điểm của k/nghiệm TT, đồng thời phát
hiện những hạn chế của nó để ko ngừng xem xét, bổ sung, sửa đổi, p/triển khải quát thành
LL. Để t/kết TT có hiệu quả thì phải đ/bảo 3 yêu cầu cơ bản: tính k/quan, tính khái quát
cao và tính m/đích đúng đắn.
Yêu cầu khách quan trong tổng kết TT đòi hỏi phải quán triệt tốt quan điểm duy vật
biện chứng và có thái độ trung thực để tránh tổng kết TT theo kiểu "tô hồng" hoặc "bôi
đen". Tránh lấy ý đồ có sẵn của người tổng kết TT để áp đặt cho việc tổng kết TT, cũng
không được lấy việc tông kết TT để chứng minh cho ý muốn chủ quan cá nhân, Phải tôn

trọng kết quả tổng kết TT dù kết quả đó có trái với mong muốn chủ quan. Cần phải khắc
phục tình trạng khi tổng kết TT hoặc chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan hoặc chỉ đổ lỗi
cho những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan. Bởi lẽ cả hai xu hướng này đều vi phạm
nghiêm trọng yêu cầu khác quan trong tổng kết TT.
Tổng kết TT đòi hỏi qua phân tích, đánh giá, xem xét các sự kiện thực tế, khi tông
kết kinh nghiệm TT phải rút ra những kết luận có tính quy luật, tức là nắm được các mối
liên hệ bản chất nhất. Những kết luận rút ra từ tổng kết TT có tính khái quát cao là những
kết luận có tính phổ biến, tính điển hình và phải có giá trị TT cao, tức là chúng có tác
dụng định hướng, dẫn đường, chỉ đạo cho hoạt động TT ko chỉ trước mắt mà còn cho các
giai đoạn tiếp theo; đồng thời chúng góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý
luận.
6


Tổng kết TT dù ở cấp nào đều phải phục vụ cho mục đích xây dựng thành công
CNXH, phát triển CN Mác- Lênin và tư tưởng HCM trong điều kiện mới. Mọi biểu hiện xa
rời mục tiêu trên như CN cá nhân, CN cơ hội, CN xét lại, CN thành tích… đều làm cho
tổng kết TT biến dạng nghiêm trọng. Trong tổng kết TT, chúng ta còn phải t/ hiện tốt các
bước cơ bản: xác định mục đích và lựa chọn đúng vấn đề cần t/kết, lập c/trình, k/hoạch, tổ
chức lực lượng tông kết; tiến hành điều tra, thu thập tư liệu, khảo sát thực tế; xử lý thông
tin, phân tích tư liệu, dữ liệu, rút ra kết luận và hướng dẫn thực hiện.
Những giải pháp khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có liên quan với
nhau, vì vậy phải thực hiện đồng bộ, nhất quán, có như vậy mới mang hiệu quả thiết thực.
Tóm lai, đến với CNMLN, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở nhận thức LL thôi mà không
đưa lý luận nhận thức vào TT cách mạng, ko bổ sung LL ấy trên cơ sở t/kết những
k/nghiệm rút ra từ TT cách mạng thì nhận thức LL ấy đến một lúc nào đó sẽ ko phù hợp
nữa và nó sẽ trở thành LL suông. Ngược lại nếu chỉ dừng ở một hoạt động TT cách mạng
thuần tuý mà ko dựa vào LL cách mạng đã được nhận thức và cũng ko biết đúc kết những
kinh nghiệm từ TT để bổ sung và nâng cao tầm LL thì vô hình dung chúng ta đã phủ nhận
vai trò của TT.

Qua phân tích trên we có thể thấy rằng TTvà LL có mối quan hệ b/chứng với nhau,
thống nhất với nhau, ko tách rời nhau, qui định và ràng buộc lẫn nhau, xâm nhập và
chuyển hoá cho nhau, tạo tiền đề cho nhau p/triển. LL mà xa rời thực TT tiễn thì sẽ dẫn tới
bệnh giáo điều, sách vở; Nhưng TT mà ko được h/dẫn, chỉ đạo bởi LL, ko được t/kết đúc
rút thành LL thì dễ trở thành chổ đất màu mở cho bệnh k/nghiệm chủ nghĩa nảy sinh, tồn
tại và p/triển. Ở đâu, khi nào có LL đích thực thì ở đó, lúc đó bệnh k/nghiệm chủ nghĩa
cũng như bệnh giáo điều sẽ ko còn chỗ đứng.
* Liên hệ thực tế
Thực tế, nguyên tắc về sự thống nhất giữa LL và TT của CNMLN đã được khẳng
định qua TT của CMVN. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiều p/trào yêu
nước, nhiều cuộc đấu tranh của q/chúng n/dân đã liên tiếp diễn ra mà tiêu biểu là các
p/trào yêu nước do Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu lãnh đạo với các cuộc vận động "Đông
Du", "Đông kinh nghĩa thục"... có thể thấy những cuộc đấu tr CM ở nước ta từ khi thực
dân Pháp xâm lược cho đến đầu thế kỷ XX đã phản ánh tinh thần yêu nước và bất khuất
của d/tộc ta, nhưng tất cả các p/trào, các cuộc vận động đều ko giành được thắng lợi. Tất
nhiên, là do h/cảnh lịch sử chi phối, nhưng vấn đề cơ bản là do chưa tìm được con đường
đi đúng đắn, hay nói cách khác là chưa có LLCM.
Cho đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm đến với CNMLN và được ánh sáng soi đường của
CM tháng mười Nga, CMVN mới thật sự có được con đường đi đúng đắn nhất đó là: "Chỉ
có g/phóng GCVS thì mới g/phóng được d/tộc; cả hai cuộc g/phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của CNCS và của CM thế giới" Đó chính là sự g/quyết đúng đắn vấn đề d/tộc và
g/cấp, quốc gia và quốc tế, đ/lập dân tộc và CNXH, kết hợp sức mạnh d/tộc và sức mạnh
thời đại, nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Chính những LL đó đã dẫn đường cho
CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tuy nhiên cũng có lúc Đảng ta mắc phải sai lầm, thiếu tôn trọng nguyên tắc về sự
thống nhất giữa LL và TT, chẳng hạn là đã cho rằng QHSX đi trước mở đường cho LLSX
phát triển, vì vậy đã duy trì kéo dài (từ 1960 đến 1986) nền k/tế kế hoạch hoá, tập trung
quan liêu bao cấp với hai thành phần k/tế đó là k/tế NN và k/tế tập thể, phủ nhận vai trò
của các t/phần k/tế khác trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Sự sai lầm trong nhận thức
và LL đó đã làm kìm hãm sự p/triển của đất nước.

7


Thấy được sai lầm đó, Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm, đồng thời
tiến hành đường lối đổi mới theo hướng p/triển k/tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của NN, nhờ vậy đã tạo ra
động lực thúc đẩy sự p/triển của đất nước. Những thành tựu quan trọng sau hơn 15 năm
đổi mới đã khẳng định sự đúng đắn trong tư duy LL của Đảng ta mà tư duy LL đó là kết
quả của sự tổng kết đúc rút kinh nghiệm từ TT CMVN và các nước trên thế giới. Tuy vậy
trong từng lĩnh vực, trường hợp cụ thể vẫn còn thiếu sự tôn trọng và vận dụng đúng đắn
nguyên tắc này, chẳng hạn như trong chính sách giá lương tiền, chính sách về đất đai, về
thuế giá trị gia tăng, về đầu tư nước ngoài.....
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, nguyên tắc về sự thống nhất giữa LL
và TT có ý nghĩa đặc biệt q/trọng. sự nghiệp đổi mới có thành công hay ko trước hết đòi
hỏi phải đổi mới trong nhận thức và LL. Chỉ có đổi mới tư duy LL và gắn LL với TT
chúng ta mới có thể nhận thức được các qui luật k/quan chi phối sự vận động và p/triển
của nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Vì vậy mỗi cán bộ đảng viên phải có
q/điểm TT và q/điểm đó phải được thể hiện qua nhận thức và h/động. Nghĩa là cần phải đi
sâu đi sát cơ sở, nắm bắt TT, năng động g/quyết những vấn đề TT đặt ra trên cơ sở vận
dụng LL một cách hợp lý, sáng tạo. Mặt khác phải biết gắn LL với TT, phải thường xuyên
t/kết TT, qua TT để bổ sung cho LL được hoàn chỉnh, p/phú và có tính khả thi hơn, góp
phần nâng cao tư duy LL, thúc đẩy h/động sản xuất p/triển.
Tóm lại dù bất cứ ở đâu, lúc nào, làm việc gì chúng ta càng phải t/trọng và vận dụng
một cách linh hoạt, s/tạo ng/tắc căn bản của CNMLN về sự thống nhất giữa LL và TT, có
như vậy chúng ta mới tránh các căn bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc,
k/nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, giữa LL và TT có mối quan hệ b/chứng, trong mối q/hệ đó
TT giữ vai trò cơ sở, nó là động lực, là m/đích, là tiêu chuẩn của chân lý. Song LL ko pản
ánh thế giới hiện thực một cách thụ động mà có vai trò như kim chỉ nam vạch ra p/hướng
cho TT, nó chỉ rõ những p/pháp h/động có hiệu quả nhất để đạt được m/đích của TT.
Thiết nghĩ, trong g/đoạn hiện nay của SN XD và BVTQ đòi hỏi We mỗi một cán bộ,

đảng viên phải nắm vững, vận dụng s/tạo giữa LL nhận thực và TT trên cơ sở CN-MLN và
Tư tưởng HCM, đẩy mạnh công tác n/cứu LL. Khi x/dựng hoặc đề xuất, tham mưu các
g/pháp t/hiện các chủ trương, chính sách thì cần phải nắm rõ t/hình thực tế, đ/giá trung
thực k/quan, rút ra được những yếu kém tồn tại, từ đó mới có được những g/pháp tích cực
mang tính tầm nhìn, có như vậy LL mới biểu hiện hết vai trò tích cực của mình đối với TT,
giúp We trong quá trình t/hiện nhiệm vụ được giao đ/bảo đúng về LL và sát với TT, không
đi chệch định hướng.

8



×