Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích ma trận swot ngành da giày việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.92 KB, 27 trang )

PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT NGÀNH DA GIÀY VIỆT NAM

Thành viên thực hiện :
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

Mai Anh
Lê Phương Anh
Dương Thị Chinh
Chu Đức Duy
Nguyễn Thị Lý
Đồng Tố Minh
Nguyễn Hương Trà My
Phạm Thị Ngọc
Nguyễn Thị Phượng
Hồ Thu Trang
Nguyễn Huyền Trang

Mã sinh viên
11140154
11140231
11145215


11140678
11142690
11142846
11142908
11143180
11143562
11144595
11144438

Mục Lục
1


Giới thiệu về ngành da giày Việt Nam

Ngành giày dép Việt Nam đã phát triển từ giữa thập niên 90 và cho đến nay
ngành giày dép Việt Nam đã tạo được một vị thế nhất định trên thị trường thế giới và
có vai trò quan trọng trong việc nâng cao kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, góp phần
vào tăng trưởng GDP là một trong những ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu dẫn
đầu của Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp ngành giày dép Việt Nam cũng
chuyển dần từ gia công sang đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại để nâng cao sức cạnh
tranh. Việt Nam đang là nước sản xuất giày dép đứng thứ 3 châu Á sau Trung Quốc,
Ấn Độ, và đứng thứ 4 thế giới. Hiện Việt Nam đang sản xuất khoảng 920 triệu đôi
giày mỗi năm, xuất khẩu hơn 800 triệu đôi tới hơn 50 thị trường trên thế giới, trong
đó Liên minh châu Âu (EU) chiếm tỷ lệ lớn nhất. Sản phẩm túi xách cũng được xuất
khẩu sang 40 nước, trong đó thị trường Mỹ chiếm tỷ lệ cao nhất với 41,6%.

2



Phần I: Phân tích môi trường bên trong ngành theo lĩnh vực của
ngành da giày Việt Nam
1.1.

Phân tích các yếu tố môi trường bên trong theo lĩnh vực

1.1.1. Marketing
Cơ cấu tổ chức của ngành ảnh hưởng tới việc phân công lao động trong đó
bao gồm cả sự phân công trong hoạt động marketing. Những chính sách
marketing của các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam như những quyết định
về sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến cụ thể là
-

-

-

-

Sản phẩm như chủng loại, mẫu mã, bao bì, nhãn hiệu, số lượng… thì nhìn
chung các doanh nghiệp nước ta chưa thực sự đa dạng, cũng như sản phẩm mới
dừng lại ở mức hình thức trung bình khá, thiếu tinh tế. Các chính sách về sản
phẩm chưa thực sự được thực hiện tốt.
Giá cả của các sản phẩm nhìn chung khá rẻ, có tính cạnh tranh. Các doanh
nghiệp nước ta luôn có những chính sách giảm giá khá hấp dẫn không chỉ thu
hút khách hàng trong nước mà còn cả khách hàng nước ngoài.
Về phân phồi hay những quyết định về kênh marketing trong khu vực nội địa
của các doanh nghiệp da giày tính từ năm 2005 đến nay đã tăng đáng kể tuy
nhiên vẫn còn sự thiếu kênh phân phối khi tình trạng giày dép các nước trong
khu vực trào vào tràn lan. Về kênh phân phối ở thị trường nước ngoài các

doanh nghiệp chia làm 2 luồng: kênh phân phối chuyên nghiệp và không
chuyên, nhìn chung khá đa dạng.
Những quyết định về xúc tiến như quảng cáo, khuyến mãi, loại hình quảng cáo,
phương tiện truyền đạt thông điệp, quỹ ngân sách của truyền thông quảng cáo,
… đối với thị trường trong nước cong hời hợt chỉ có một số ít công ty lớn như
Asia, Biti's chú trọng đến thị trường này. Trong khi ở thị trường nước ngoài
được đánh giá là chú trọng đến những chính sách về vấn đề này hơn.

1.1.2. Tài chính, kế toán
Thực tế hiện tại, có 70% doanh nghiệp da giày sử dụng vốn trong nước, 30% còn
lại sử dụng FDI. Tuy nhiên, 30% doanh nghiệp FDI chiếm 70% doanh số, còn 70%
doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm 30% (trên dưới 8 tỷ USD). Bên cạnh đó nhiều
doanh nghiệp trong lĩnh vực da giày tại Việt Nam đang gặp khó khăn kép về mặt tài
chính khi vừa phải đầu tư thay đổi chuỗi cung ứng vừa phải gánh thêm một khoản chi
phí nữa bởi thời điểm tăng lương tối thiểu dự kiến đang đến gần.Phần lớn chi phí của
các doanh nghiệp trong ngành là chi cho nguyên vật liệu và công nghệ tuy nhiên cả 2
đều phụ thuộc vào nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc. Tuy nhiên trong thời gian gần
3


đây một số doanh nghiệp đã đầu tư sản xuất nguyên liệu và tránh phụ thuộc như Tập
đoàn Dệt may Việt Nam, Công ty 32, Công ty Giày Tuấn Việt, Công ty giày Gia
Định,…
Đại diện Công ty Giày Gia Định cho biết “Hiện nay hầu như các doanh nghiệp
vẫn phải ‘tự bơi’ do chưa có chính sách ưu đãi cho DN đầu tư sản xuất nguyên phụ
liệu da giày. Với những DN vừa và nhỏ thì khó có đủ tiềm lực tài chính để đầu tư khi
mà chưa có ưu đãi về đất đai, thuế và lãi suất”, vị này cho hay.
Hiện nay, chỉ một số ít DN quy mô lớn và DN FDI là có các dự án nguyên phụ
liệu nhằm đón đầu hiệp định TPP. Trong khi các DN dệt may, da giày Việt Nam chủ
yếu là DN quy mô nhỏ, vốn ít nên việc đầu tư cho các dự án cung ứng nguyên liệu

còn rất nhiều khó khăn.
Song song với vấn đề tìm và đầu tư nguồn cung, tiền lương tối thiểu đang là vấn
đề đáng lo ngại của các DN dệt may, da giày. Mới đây Hội đồng Tiền lương Quốc gia
đã trình Chính phủ phương án tăng lương tối thiểu vùng vào năm 2016 ở mức 12,4%.
Nhận định về vấn đề này, ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam
cho rằng: “Mức tăng lương như vậy sẽ là áp lực cho DN dệt may Việt Nam. Có thể
toàn ngành dệt may sẽ phải tăng chi phí công đoàn lên trên 450 tỉ đồng, chi Bảo hiểm
xã hội lên hơn 6.000 tỉ đồng”.
Ông Nguyễn Xuân Quang, Giám đốc Công ty Cổ phần May 9 Nam Định cho
biết hiện Công ty đang đóng bảo hiểm cho người lao động vào khoảng 6-7 tỷ
đồng/năm. Nếu tăng lương thì mức chi trả cho bảo hiểm của đơn vị này sẽ tăng thêm
khoảng gần 1 tỷ đồng.
Theo nhiều DN, nhân công giá rẻ vốn là một lợi thế của những DN sử dụng
nhiều lao động như dệt may, da giày. Tuy nhiên lợi thế này đang mất dần bởi chi phí
như Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, phí công đoàn liên tục “đội” lên cùng với lương
tối thiểu.
1.1.3. Sản xuất
Khi nhắc đến sản xuất chúng ta không thể không nhắc đến những yếu tố sau :




Quy trình sản xuất
Lao động
Nguyên vật liệu cho sản xuất

Chúng ta sẽ cũng nhau đi phân tích cụ thể những yếu tố trên


Quy trình sản xuất


4


Quy trình để sản xuất giày tương đối đơn giản so với các ngành sản xuất khác
nhưng đòi hỏi nhiều nhân công. Thông thường tại các doanh nghiệp Việt Nam quá
trình sản xuất là quy trình sản xuất cơ động được xẻ nhỏ nhằm bố trí lao động cụ thể
cho từng công đoạn đồng thời chuyên môn hoa rõ ràngQuy trình sản xuất được chia
thành 5 giai đoạn chính như sau :
-



Chuẩn bị: Đây là giai đoạn quan trọng nhất, bao gồm chuẩn bị phom, dao,
dưỡng và các vật tư nguyên liệu để đồng bộ cho quá trình sản xuất
Pha cắt: Thường sử dụng các máy chặt thủy lực bố chí theo hàng ngang hoặc
hàng dọc, hoạt động độc lập
May mũ giầy: Tùy theo sản phẩm mà máy may được bố trí ngang hoặc dọc để
dễ quản lý và chuyển đổi mặt hàng
Gò ráp: giai đoạn này giày sẽ được sử dụng các loại máy móc và công nghệ
hiện đại để hoàn thành sản phẩm có thể kể đến nhưng công nghệ ép phun, lưu
hóa…
Hoàn tất: Bao gồm tất cả các việc như vệ sinh, trang trí và đóng gói
Lao động

Ngành công nghiệp da giầy là ngành sử dụng nhiều lao động, nhưng được đào
tạo dưới hình thức kèm cặp là chủ yếu. Một lượng nhỏ được đào tạo qua các trường
công nhân kỹ thuật của Viện nghiên cứu Da – giầy.Số công nhân được đào tạo qua
trường lớp chỉ chiếm 20% còn lại là đưới dạng kèm cặp.
Do mức lương bình quân của ngành da giầy khá thấp, nên số lượng công nhân

ở thành phố lớn là rất ít, hầu hết công nhân ở các vùng nông thông, tuy nhiên lao
động của vùng nông thông có ưu điểm là cần cù, chịu khó, chấp nhận mức lương
thấp, xong độ tinh xảo, khéo léo không thể bằng được lao động thành phố.
Do việc sử dụng lao động như trên, cộng với ý thức tổ chức kỷ luật lao động
kém, nên hầu hết các doanh nghiệp trong nước có năng xuất lao động còn thấp hơn so
với các nước trong khu vực


Nguyên vật liệu cho sản xuất

Nguyên liệu ngành da giày rất phong phú và đa dạng. Nguyên vật liệu có thể
lấy từ nguồn trong nước, nhập khẩu từ ngoài hoặc khách hàng mạng tới. Tuy nhiên,
một rào cản đối có thể dễ thấy được hiện nay chính là nguồn cung cấp vật liệu để sử
dụng trong quy trình sản xuất như da, vải dù, nhựa PVC và các nguyên liệu khác đều
phải nhập khẩu tư nước ngoài do nguồn trong nước không đảm bảo chất lượng. Từ đó
làm độn chi phí, tăng giá thành.
Việc cung ứng nguyên vật liệu cũng ảng hưởng theo mùa. Về mùa lạnh việc
cung ứng nguyên vật liệu cần đòi hỏi nhanh chóng, kịp thời và đồng bộ do sản xuất
5


chủ yếu với số lượng lớn. Về mùa nóng tốc độ sản xuất có phần chậm nên cũng
không yêu cầu cao về tốc độ cung ứng.
1.1.4. Nghiên cứu, phát triển và hệ thống thông tin


DN nội địa Việt Nam

Kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp dệt may tại Tp.HCM và Hà Nội cho thấy,
hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị

đồng bộ thuộc thế hệ từ những năm 80 của thế kỷ 20. 69% doanh nghiệp phụ thuộc
vào nguyên vật liệu; 53% doanh nghiệp phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ nhập
khẩu của nước ngoài và chỉ có 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ.
Điều này cho thấy, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp
dệt may nội địa khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của doanh
nghiệp chỉ đạt khoảng 3-10% lợi nhuận/năm. Trung bình 1 doanh nghiệp đầu tư
khoảng 5 tỷ đồng/năm cho đổi mới công nghệ, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến
máy móc phần cứng…Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ (KH&CN)
Nguyễn Quân, doanh nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ nên với 3-10% lợi nhuận sẽ
không đủ để họ đổi mới công nghệ hoặc tạo ra sản phẩm mới.
Theo khảo sát, hầu hết các doanh nghiệp dệt may tiến hành đổi mới công
nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh
trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ.
Phương thức đổi mới công nghệ được sử dụng nhiều nhất là nguồn công nghệ nhập
khẩu từ nước ngoài. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 7%.
Kèm theo đó là sự yếu kém về thông tin khiến các doanh nghiệp dệt may bị lệ
thuộc về đơn hàng, nguồn nguyên liệu đến cả công nghệ. Doanh nghiệp muốn đổi
mới công nghệ chỉ biết tìm thông tin trên mạng mà không biết cách và không có
"địa chỉ" để thẩm định xem công nghệ đó có phù hợp hay không.
Một vấn đề cần cảnh báo là dù không có bộ phận R&D nhưng không ít doanh
nghiệp dệt may nội cũng chẳng màng đến việc hợp tác với cơ sở có nguồn cung cấp
giải pháp R&D phong phú từ các trường đại học, viện nghiên cứu.


Doanh nghiệp FDI

Đối với các doanh nghiệp dệt may vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam,
nhất là các tập đoàn đa quốc gia, R&D là một trong những chìa khóa thành công.
Đối với họ, chức năng nghiên cứu và phát triển không chỉ giới hạn ở việc cho ra đời
sản phẩm mới.

Một bộ phận R&D chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp dệt may FDI, các tập
đoàn đa quốc gia thông thường sẽ ôm nhiều chức năng quan trọng như: Nghiên cứu
và phát triển sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và thực hiện chiến
lược phát triển doanh nghiệp, phát triển bao bì, phát triển công nghệ, phát triển quá
trình…
6


1.2.


Kết quả quá trình phân tích
Điểm mạnh
- Các kênh phân phối hàng hóa tại thị trường nước ngoài khá đa dạng

- Nguồn nhân lực trong ngành da giày Việt Nam rất dồi dào, hiện tại giá
nhân công vẫn còn khá rẻ so với các nước trong khu vực và trên thế giới
- Các doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn FDI hoạt động ổn định và hiệu quả.
Các doanh nghiệp này thực khá tốt chức năng nghiên cứu, phát triển


Điểm yếu

- Nhìn chung các doanh nghiệp da giày Việt Nam vẫn chưa thực sự chú
trọng đến việc đầu tư cho marketing, đặc biệt là tại thị trường nội địa khá màu mỡ.
- Quy trình sản xuất còn giản đơn; nguồn nhân lực năng suất thấp, trình độ
văn hóa thấp, ý thức kỷ luật kém
- Nguồn nguyên vật liệu chủ yếu không tự chủ phải phụ thuộc vào nước
ngoài, đặc biệt là Trung Quốc dẫn đến tình trạng độn giá
- Phần lớn các doanh nghiệp chưa thực hiện tốt công tác nghiên cứu, phát

triển. Thiếu cán bộ kỹ thuật cao nghiêm trọng.

Phần II: Phân tích môi trường bên ngoài ngành da giày Việt Nam
2.1.

Phân tích các yếu tố của môi trường quốc tế và môi trường vĩ mô

2.1.1. Kinh tế
Môi trường kinh tế vĩ mô bao giờ cũng chứa đựng những cơ hội và đe doạ khác
nhau. Các yếu tố cơ bản thường được quan tâm đó là:


Tốc độ tăng trưởng GDP

Năm

Việt Nam

Mỹ

EU

2014

5,98%

2,4%

1,1%


Trung
Quốc
7,4%

2015

6,68%

2,4%

1,5%

6,9%

2016
Quý I
(6 tháng
Quý II
đầu năm)

5,52%

0,8%

6,7%

1,2%

( Nguồn: ; )
7



Theo Tổng cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm
2016 ước tính tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý I tăng 5,48%; quý
II tăng 5,55%. GDP có biểu hiện chững lại, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2015
(đạt 6,32%). Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang có biểu hiện đi xuống
ngay sau năm đầu tiên vượt dốc (năm 2015).
Hai thị trường lớn nhất mà Việt Nam xuất khẩu da giày là Liên minh Châu Âu
và Mỹ thì kinh tế vẫn phục hồi chậm. Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ trong quý I và
Quý II năm 2016 lần lượt là 0,8% và 1,2%. Tại châu Âu, tăng trưởng kinh tế của Khu
vực sử dụng đồng euro (Eurozone) trong quý I/2016 đã khả quan hơn, tăng 0,5% so
với quý trước đó và tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2015. Tuy nhiên, nhiều dự cho
rằng nhiều khả năng đà tăng trưởng của khối này trong quý II sẽ chậm lại. Kinh tế
Trung Quốc có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, tốc độ tăng trưởng GDP trong nửa đầu
2016 chỉ đạt 6,7% - thấp nhất trong 7 năm gần đây. Các nền kinh tế đang nổi có dấu
hiệu suy giảm.


Lạm phát

Năm
2014
2015
2016

Việt Nam
4,77%
0,6%
1,8%


(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Lạm phát năm 2015 vừa chính thức được công bố ở mức thấp kỷ lục trong 14
năm gần đây: chưa tới 1% - chỉ 0,6%, thấp xa mục tiêu điều hành 5% do tác động của
việc giá dầu thô giảm sâu. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2016 tăng
1,80% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.


Việc làm

Hiện nay, Việt Nam có số người trong độ tuổi lao động trên tổng dân số chiếm
tỷ lệ 75,2% là nước đang ở giai đoạn dân số vàng, nhưng số lao động qua đào tạo có
bằng chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm tỷ lệ chỉ 17,9% (nông thôn 11,2%). Trong khi
tồn tại một nghịch lý đó là cử nhân, thạc sĩ ra trường không có việc làm vẫn còn ở
mức báo động. Từ con số 72.000 người không có việc làm tăng lên đến 162.000
người trong đầu năm nay, trong đó, nhóm người không có chuyên môn kỹ thuật
chiếm gần 60% tổng số lao động thất nghiệp, nhóm có bằng đại học và trên đại học
chiếm gần 17%. Như vậy, so với thế giới, Việt Nam thuộc diện có tỉ lệ thất nghiệp
thấp nhưng đối với tình hình lao động việc làm trong nước thì tỉ lệ thất nghiệp vẫn
chiếm tỉ lệ cao.
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi năm 2015 là 2.31% (năm 2013 là 2,18%; năm 2014 là 2.10%). Năng suất lao
8


động mặc dù đã cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực
và không đồng đều giữa các ngành và lĩnh vực. 6 tháng đầu năm 2016, tổng số người
thất nghiệp của Việt Nam là 1,12 triệu người, chiếm khoảng 2.23%. trong đó tỷ lệ
thất nghiệp của lao động có trình độ đại học trở lên của cả nước là 3.96% và số liệu
này đặc biệt cao ở khu vực thành thị.



Tỉ giá hối đoái

Ngân hàng nhà nước điều hành tỉ giá năm 2016 theo chế độ thả nổi có quản lý.
Theo đó, thay vì công bố 1 tỷ giá và giữ cố định trong một khoảng thời gian dài nhất
định như trước đây, cách thức mới sẽ linh hoạt hơn và thậm chí thay đổi hàng ngày.
Sự kiện Brexit đã tác động trực tiếp tới đồng Bảng Anh, khiến đồng Bảng Anh mất
giá 8% chỉ trong một ngày. USD đã mạnh lên rõ rệt so với hầu hết các đồng tiền khác
trên thế giới.Tính đến ngày 6/11, tỷ giá VND/USD đang ở mức 22.290 đồng/USD.


Chính sách tiền tệ:

Năm 2016, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đang đẩy mạnh cung tiền ra nền
kinh tế, hay nói cách khác, chính sách tiền tệ của NHNN đang được nới lỏng mạnh
mẽ đặc biệt là so với năm 2015. Lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm ở các kỳ hạn,
đặc biệt cả lãi suất qua đêm và một tuần đều có lúc xuống mức xấp xỉ 0,5%, thấp nhất
trong vòng hơn hai năm gần đây. Lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại
cũng có dấu hiệu hạ nhiệt. Khối lượng tiền tệ cũng tăng đáng kể. Cung tiền M2 tăng
8,07% so với thời điểm cuối năm 2015, cao hơn nhiều so với cùng kỳ 2 năm trước
đó. Một tín hiệu nữa là hoạt động trên thị trường mở và kênh tín phiếu diễn ra khá sôi
nổi. Theo số liệu của BVSC, NHNN đã thực hiện bơm ròng khoảng 32.000 tỷ đồng
qua kênh OMO và 25.700 tỷ đồng qua kênh tín phiếu ra thị trường.
(Nguồn: Cafef.vn)


Thương mại

Với việc cộng đồng kinh tế ASEAN chính thức thành lập, Hiệp định Thương
mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc và Hiệp định đối tác xuyên

Thái Bình Dương được kí kết đã ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế Việt Nam. Với việc
gia nhập AEC, Việt Nam có cơ hội dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài khu
vực, qua đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn
nhập khẩu và hạ giá đầu vào, góp phần cải cách quản lý, dịch chuyển cơ cấu kinh tế
và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội... Tham gia TPP cũng là cơ hội
gia tăng xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: Dệt may, giày dép,
các sản phẩm và thiết bị điện tử cùng những kinh nghiệm đã có ở các thị trường này.

9


Trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP, xuất
khẩu liên tục tăng nhanh. Đặc biệt, Mỹ và Nhật là 2 thị trường xuất khẩu chính của
Việt Nam trong TPP. Ngược lại, tỷ trọng nhập khẩu của Việt Nam từ TPP cũng đang
giảm dần (23% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2014); thay vào đó là nhập khẩu từ
Trung Quốc (29,6%).
Sau khi dỡ bỏ mọi hàng rào thuế quan và phi thuế quan, Việt Nam sẽ đạt mức
tăng trưởng nhập khẩu lớn khoảng 11%. Tuy nhiên, xuất khẩu sẽ giảm từ 2,2-3,1 tỷ
USD do hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ, cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và
các doanh nghiệp nước ngoài trở nên gay gắt hơn.
Cả AEC và TPP đều đưa lại cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như: Mở rộng
cơ hội đầu tư sang các nước nội khối và kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn
hỗ trợ về khoa học công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến; góp phần nâng
cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, nhất là từ các tập đoàn kinh tế lớn.
2.1.2. Môi trường chính trị - pháp luật
Môi trường chính trị ở Việt Nam khá ổn đinh, nhìn chung là môi trường thích
hợp về các doanh nghiệp phát triển kinh doanh. Tuy nhiên các quy định pháp luật,
cũng như những chế tài về kinh tế và đặc biệt là với các doanh nghiệp trong ngành da
giày chưa thực sự hoàn thiện và phụ hợp.Các doanh nghiệp vẫn phải tự thân vận động

nhiều do các chính sách của chính phủ còn yếu.
Các doanh nghiệp da giày Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang các nước Châu
Âu, Mỹ,… Nhìn chung trong thời gian gần đây diễn biến chính trị tại các quốc gia
này còn khá nhiều bất ổn. Theo đánh giá từ Lefaso, vừa qua, việc Anh rời khỏi Liên
minh châu Âu có khả năng gây thiệt hại tới kinh tế khu vực EU và nền kinh tế toàn
cầu, do đó cũng sẽ gây tác động không nhỏ tới việc xuất khẩu da giày và túi xách của
Việt Nam trong thời gian tới.
Dẫn lời bà Phan Thị Thanh Xuân, Tổng thư ký Lefaso trên Báo điện tử Chính
phủ, thị trường EU sụt giảm mạnh do tác động của biến động chính trị, nhu cầu tiêu
dùng giảm. Vì thế, khách hàng EU – đối tác lớn nhất của ngành Da giày chuyển sang
đặt hàng cầm chừng, chỉ đặt hàng theo nhu cầu của thị trường chứ không đặt liên tục
như những năm trước.

10


Bên cạnh đó sau hơn một năm trở thành đối tác ký Hiệp định thương mại tự do
với Liên minh kinh tế Á- Âu (EAEU), gồm các nước: Nga, Armenia, Belarus,
Kazakhstan và Kyrgyzstan, hôm nay 5/10, Hiệp định này chính thức có hiệu lực và
mở ra cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Với 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết với các nước
và khu vực trên thế giới, xuất khẩu da giày của Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi lớn
khi mức thuế xuất giảm mạnh từ 3,5-57,4% xuống 0%, mở ra cơ hội tăng trưởng xuất
khẩu lớn cho ngành da giày. (nguồn: cafef.vn)
2.1.3. Môi trường văn hóa, xã hội
Việt Nam là nước Đông Nam Á đậm đà bản sắc phương Đông. Tuy nhiên trải
qua quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá mà văn hoá Việt Nam nói chung, lối sống
người Việt Nam nói riêng được phát triển và ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và hội nhập với thế giới nên nhu cầu
giày dép cũng tăng cao. Thị hiếu của người tiêu dùng là sử dụng những sản phẩm có

chất lượng và mẫu mã đẹp. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sản phẩm giày da
của Trung Quốc với rất nhiều mẫu mã đa dạng, giá thành rẻ và phù hợp với người
tiêu dùng nên rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên một bộ phận khách
hàng vẫn tin dùng hàng Việt Nam vì chất lượng của các sản phẩm và hưởng ứng khẩu
hiệu “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” cũng tạo được lợi thế cho các
ngành da giày trong nước phát triển.Các doanh nghiệp trong ngành cũng phải đa dạng
hóa các sản phẩm sao cho phù hợp với từng đối tượng, độ tuổi thì mới được mọi
khách hàng lựa chọn tin dùng.
Về dân số, Việt Nam là một nước đông dân tuy nhiên tình trạng mất cân bằng
giới tính tại nước ta tác động rất lớn đến cơ cấu, chất lượng dân số. Cụ thể là theo
đánh giá của Chính Phủ vào cuối năm 2015 có tới 55 trong số 63 tỉnh thành có tỷ lệ
giới tính khi sinh hơn 108 bé trai trên 100 bé gái. Điều đáng nói, tình trạng này tăng
cao trong những năm gần đây. Trái ngược với tình trạng đáng báo động của cơ cấu
dân số theo giới tính thì cơ cấu theo tuổi tác ở nước ta được đánh giá đang ở thời
điểm vàng khi số lượng người trong độ tuổi 23 – 53 chiếm phần lớn trong tổng dân
11


số. Tuy nhiên tính đến năm 2020, dân số nước ta được dự đoán sẽ trong tình trạng già
hóa => Các doanh nghiệp ngành da giày cần chuyển hướng sản xuất đến đối tượng
khách hàng mới và định hình lại chiến lược kinh doanh.
Các quốc gia các doanh nghiệp da giày Việt Nam xuất khẩu đến khá đa dạng,
với các nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam vẫ chưa có
được cái nhìn cụ thể về văn hóa riêng của các quốc gia đó, đồng thời chưa nắm rõ
được cơ cấu dân số cũng như thị hiếu tiêu dùng khách hàng nên chưa xác định rõ
ràng đối tượng mục tiêu mà doanh nghiệp muốn nhắm tới. Tuy nhiên trong thời gian
gần đây Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định thương mại cũng tạo điều kiện cho ngành
da giày học hỏi văn hóa nước ngoài để tạo được những sản phẩm có mẫu mã đẹp và
chất lượng tốt, phù hợp với phong tục tập quán và văn hóa các nước mình xuất khẩu
sang.

2.1.4. Nhân tố tự nhiên


Nhân tố con người

Theo Tổng cục Thống kê, kết quả sơ bộ năm 2015, dân số Việt Nam là
91.713,30 người.Dân số Việt Nam đứng thứ 14 trong số các quốc gia đông dân nhất
thế giới, độ tuổi trung bình của người dân là 30,8 tuổi, số người trong độ tuổi lao
động ( nữ:15-54, nam:15-59) chiếm 64.6% tổng dân số ( Theo Kế hoạch Việt). Do đó,
Việt Nam hứa hẹn là một thị trường tiêu thụ tiềm năng, đông thời là một thị trường
cung cấp nguồn lao động trẻ, dồi dào, giá rẻ. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên thì cơ
cấu dân số Việt Nam sang đến năm 2020 sẽ bước sang thời kỳ già hóa từ đó các
doanh nghiệp cần có những chiến lược, chính sách cụ thể để ứng phó với những thay
đổi đó.
Mặc dù Việt Nam có lợi thế so sánh về nguồn lao động, tuy nhiên lại chưa thể
biến những thuận lợi đó thành lợi thế cạnh tranh, điều này biểu hiện rõ nhất ở năng
suất lạo động và trình độ chuyên môn. Năng suất lao động của công nhân da giày Việt
Nam rất thấp, thông thường với một dòng sản phẩm có đến 450 công nhân, đạt sản
lượng 500,000 đôi/ năm, chỉ bằng 1/35 của Nhật Bản, 1/30 của Thái Lan, 1/20
Malaysia và 1/10 của Indonesia ( Theo Theo Hiệp hội Da
giày Việt Nam thì hiện có tới trên 80% công nhân trong ngành chưa qua đào tạo, cán
bộ quản lý của ngành chủ yếu làm trái ngành, trái nghề và vừa học, vừa làm. Đây
chính là cản trở rất lớn đối với sự cạnh tranh và phát triển của ngành da giày Việt
Nam.


Các nhân tố tự nhiên khác (Khí hậu, tài nguyên,…)
12



Việt Nam là một đất nước thuộc miền nhiệt đới, có nhiều điều kiện thuận lợi
cho phát triển ngành chăn nuôi gia súc như trâu bò, lợn,…Do đó, Việt Nam vô cùng
có tiềm năng trong việc phát triển nguồn nguyên liệu đầu vào chính cho ngành da
giày Việt Nam là da nguyên liệu. Tuy nhiên, do tập quán chăn nuôi thiếu tập trung và
chưa áp dụng triệt để các kỹ thuật chăm sóc gia súc của người chăn nuôi nhỏ khiến
cho da nguyên liệu thu được thường không đẹp, chất lượng thấp không đảm bảo đầu
vào cho sản xuất của ngành da giày Việt Nam, vì vậy phần lớn đầu vào phải nhập từ
nước ngoài như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,… việc phụ thuộc nguồn nguyên
liệu đầu vào nhập ngoại đẩy giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam lên cao
và làm giảm tính cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, khí hậu nhiệt đới và đặc điểm địa hình của nhiều địa phương của Việt
Nam rất thích hợp cho việc trồng cây cao su mà cao su lại là một trong những nguyên
liệu sản xuất đế giày- đầu vào quan trọng của ngành sản xuất da giày.
2.1.5. Công nghệ
Trong thời kỳ trước đây các doanh nghiệp trong ngành da giày tại Việt Nam
việc sử dụng máy móc, công nghệ cao là rất thấp, hoặc nếu có sử dụng thì công nghệ
lại thuộc hàng lạc hậu. Tuy nhiên trong những năm trở lại đây, trước sức ép của TTP
các doanh nghiệp trong ngành da dày đã có một số đổi mới tích cực về yếu tố công
nghệ.Cụ thể là các doanh nghiệp da giày trong nước đã bắt đầu nghĩ đến việc áp dụng
công nghệ hiện đại trong việc sản xuất và quản lý để giảm thiểu rủi ro. Hơn nữa một
số doanh nghiệp bên Ý đang có ý định hỗ trợ Việt Nam về công nghệ.Tuy nhiên vẫn
có thể thấy được các doanh nghiệp ngành da dày tại Việt Nam vẫn cưa phát huy hết
được tiềm lực của mình. Theo đánh giá chung của trang Smartext thì trình độ công
nghệ hiện tại của ngành giày dép Việt nam đang ở mức vừa phải, tương đối trung
bình, nhưng phụ thuộc vào máy móc, thiết bị nước ngoài. Khả năng đầu tư và chuyển
giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp.Sự thật thì lực lượng
chuyên gia cũng như kiến thức và cập nhật công nghệ còn ít ỏi và cũng chưa đạt đến
nhu cầu phát triển kinh doanh.Dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp nhập phải những
công nghệ không thực sự hợp lý với mức giá khá cao.Thêm vào đó, khả năng đàm
phán để kí hợp đồng công nghệ cũng không mở rộng. Đây là một trong những lí do

khiến năng suất lao động cũng như hiệu quả sản xuất của ngành này bị hạn chế về
ngắn hạn lẫn dài hạn. Điều này dẫn đến nguy cơ làm giảm sự cạnh tranh của ngành
giày dép Việt Nam trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
Trong khi trong khu vực và trên thế giới, các doanh nghiệp trong ngành da giày
không ngừng cải tiến về công nghệ. Ví dụ cụ thể có thể thấy rõ đó là hiện tại khi
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đang loay hoay theo hình thức sản xuất thủ công,
bán hàng tự động thì các doanh nghiệp trên thế giới đã sử dụng robot sản xuất tự
động. Hay kể đến công nghệ thuộc da tại Việt Nam tuy đã được cải tiến trở thành
13


công nghệ sạch hơn song khi đem so sánh với công nghệ thuộc gia tại các nước phát
triển điển hình như Ý có thể thấy sự chênh lệch đáng kể. Công nghệ của nước họ
không chỉ hạn chế các tác hại tiêu cực của chất thải công nghiệp lên môi trường mà
còn tiết kiệm chi phí, tăng năng suất. Bên cạnh đó doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ
sản xuất được những mặt hàng hạn chế như nhãn, dây giày, ren… nhưng chưa thực sự
quan tâm đến các phụ kiện nhựa khác, chẳng hạn khoen, móc, hạt, đồ trang trí cho
giày, đặc biệt là giày trẻ em và phụ nữ. Công nghệ nước ta đang sử dụng chưa thực sự
đạt được trình độ trang trí tinh tế, còn thô và không được bắt mắt như những mặt
hàng của các nước khác.
2.2. Phân tích các yếu tố trong môi trường ngành
2.2.1. Khách hàng


Vị thế của khách hàng

"Rào cản" lớn nhất của ngành da giày trong hội nhập quốc tế là tính chất gia công
thuần túy… Phương thức kinh doanh gia công đã khiến cho các doanh nghiệp của ta
phụ thuộc nhiều vào khách hàng, nên cũng không chủ động được nguồn hàng thị
trường. Để xuất khẩu được, doanh nghiệp thuần túy làm theo chỉ định của khách hàng

nước ngoài (khách hàng mang mẫu đến đặt hàng, doanh nghiệp làm theo yêu cầu của
họ). Do vậy khách hàng luôn chủ động còn doanh nghiệp bị động, đến mức chỉ khi
nhận mẫu mới đi tìm kiếm nguồn nguyên liệu; thậm chí để kịp đơn hàng, doanh
nghiệp lại đến ngay nguồn cung nguyên liệu do chủ hàng giới thiệu, lý do là vì mẫu
giày và nguyên liệu gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Trong khi đó, với 1 đôi giày, giá trị
nguyên liệu chiếm tới 70%, giá trị nhân công chỉ 30 %.


Số lượng người mua

Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại giày dép của Việt Nam, chiếm tới
33,94% kim ngạch xuất khẩu, đạt 4,08 tỷ USD, tăng 22,3% so với năm 2014; xuất
khẩu sang EU đạt 4,4 tỷ USD, tăng 20%, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất khẩu;
tiếp theo là thị trường Nhật đạt 597,58 triệu USD (chiếm 4,98%, tăng 14,69%), Trung
Quốc đạt 754,19 triệu USD (chiếm 6,28%, tăng 49,33%).
Xuất khẩu giày dép năm 2015 sang hầu hết các thị trường đều đạt mức tăng trưởng về
kim ngạch so với năm 2014; trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc tăng mạnh là do
chi phí nhân công của quốc gia này tăng cao. Ngoài ra, đồng nhân dân tệ phá giá
cũng tạo sức ép cho doanh nghiệp (DN) sản xuất gia công tại Trung Quốc. Do đó,
nhiều nhà đầu tư đã chuyển dịch sản xuất giày dép, chủ yếu là giày thể thao, giày vải,
giày da sang Việt Nam và nhập khẩu ngược trở lại Trung Quốc.

14


Khối doanh nghiệp FDI là thành phần chủ lực của xuất khẩu da giày Việt Nam, đạt
9,55 tỷ USD và tăng trưởng 20% so với năm trước.
Số lượng các đơn hàng xuất khẩu giày dép gia tăng do các nhà nhập khẩu tận dụng
lợi thế về thuế khi Việt Nam chính thức được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSPthuế suất hạ từ 13-14% xuống còn 3-4%) với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào thị
trường EU. Vì thế, giày dép Việt Nam có sức cạnh tranh hơn tại thị trường EU



Mức độ có sẵn của hàng hoá thay thế

Với thị trường nội địa, hiện nay ngành da giày của Việt nam tuy đứng trong nhóm 4
nước sản xuất giày dép lớn nhất thế giới về số lượng, với giá trị xuất khẩu trung bình
đạt hơn 10 tỷ USD/năm thế nhưng các sản phẩm ngoại lại đang chiếm 60% thị phần
tiêu dùng giày dép nội địa. Điều này chứng tỏ, mức độ có sẵn của hàng hoá thay thế ở
thị trường Việt Nam là rất lớn. Chỉ cần một cú click chuột, hàng trăm, nghìn địa chỉ
bán các loại giày, dép thương hiệu nổi tiếng hiện ra với giá bán chưa tới một nửa,
thậm chí 1/3-1/4 giá hàng chính hãng, và các sản phẩm “hàng hiệu, chính hãng, giá
bèo” đều có xuất xứ từ Trung Quốc. Chỉ cần đi đến chợ gần nhà, ở đây có rất nhiều
gian hàng bày bán giày dép các sản phẩm hàng giả hàng nhái đến từ Trung Quốc.
Với thị trường tiêu dùng giày dép phân khúc thấp đến trung bình thì hàng nhập khẩu
từ Trung Quốc, Thái Lan luôn có ưu thế đáng kể về giá cả cạnh tranh, mẫu mã đa
dạng, dễ được người tiêu dùng ưa chuộng. Ở phân khúc cao cấp người tiêu dùng lại
tìm đến những hãng giày dép lớn nổi tiếng thế giới như Nike, Adidas, Puma hay
Converse… Hơn nữa các sản phẩm này rất dễ tìm kiếm tại Việt Nam từ các khu chợ,
cửa hàng nhỏ đến các trung tâm thương mại lớn tại các thành phố.
2.2.2. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Trên thế giới: Ngành da giày Việt Nam chịu canh tranh khốc liệt về giá với các nước
xuất khẩu giày khác trên thế giới và điển hình là các nước châu Á – nơi có tiềm năng
lớn nhất về công nghiệp sản xuất giày. Các đối thủ mạnh cạnh tranh trực tiếp của Việt
Nam như là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, ... Họ có ưu thế về vốn, công
nghệ và đặc biệt là chủ động về nguồn nguyên liệu. Trong khi Việt Nam có khoảng
60% nguyên vật liệu và hóa chất của ngành vẫn phải đi nhập khẩu từ nước ngoài. Đặc
biệt, Trung Quốc là nước xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới cũng là đối thủ cạnh
tranh mạnh nhất của ngành giày da Việt Nam. Lợi thế của Trung Quốc về nguồn lao
động giá thấp khổng lồ, chi phí cơ sở hạ tầng thấp, ngành công nghiệp nguyên liệu
phụ trợ sẵn có, trung tâm phát triển mẫu, cung ứng công nghệ và thiết bị sản xuất của

Đài Loan và dịch vụ xuất nhập khẩu của Hồng Kông đã giúp cho nước này có vị trí
thống lĩnh trong xuất khẩu giày dép, đặc biệt là đối với các loại sản phẩm thông dụng
giá trị thấp và trung bình và có số lượng rất lớn.
15


Trong thị trường nội địa: Sản phẩm dày giép do các doanh nghiệp sản xuất chịu sự
cạnh tranh gay gắt của giày da nhập lậu từ Trung Quốc. Ngoài ra còn có sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế hơn về vốn, kinh
nghiệp quản lý, sản xuất, công nghệ, ... Vì thế, các sản phẩm của họ có lợi thế cạnh
tranh hơn so với các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước về chất lượng, giá
trị.
Do đó, các doanh nghiệp giày da cần đẩy mạnh nâng cao sức cạnh tranh để có thể tồn
tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh quốc tế.
2.2.3. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Ngành da giày Việt Nam ngày càng có nhiều triển vọng khi mà các đơn hàng đang
dịch chuyển ngày càng nhiều từ Trung Quốc sang Việt Nam. Thống kê từ Lefaso cho
thấy, Việt Nam đang nằm trong top bốn nước sản xuất giày dép lớn nhất thế giới, sau
Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil, nhưng là nước xuất khẩu lớn thứ ba trên thế giới về trị
giá, sau Trung Quốc, Italia. Tại Mỹ, EU và Nhật Bản, giày dép Việt Nam đang tiếp
tục tăng thị phần. Bên cạnh đó các doanh nghiệp trong lĩnh vực này trong khu vực và
trên thế giới cũng đã có một năm hoạt động khá hiệu quả. Từ đó cho thấy, với mức
tăng trưởng cao, ổn định và doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi nhuận sẽ thì
ngành giày da sẽ trở nên vô cùng hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp, nâng cao khả
năng họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đó chính là những đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn và có ảnh hưởng, tác động lớn tới doanh nghiệp trong ngành về sản xuất, kinh
doanh trong hiện tại và tương lai.
Mức độ thuận lợi và khó khăn cho việc gia nhập ngành của các đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn phụ thuộc vào phần lớn hàng rào lối vào một ngành công nghiệp. Cụ thể, đối

với ngành giày da gồm:


Những đặc điểm chi phí, nguồn nhân lực, nguyên vật liệu:

Tính đến hết năm 2008, toàn ngành đã đầu tư 22 nghìn tỉ đồng, trong đó, 5 nghìn tỉ
đồng đầu tư xây dựng và cải tạo nhà xưởng; 17 nghìn tỉ đầu tư mua sắm thiết bị, máy
móc. Đến thời điểm này, toàn ngành đã đầu tư trên 900 dây chuyền đồng bộ để sản
xuất giày với máy móc thiết bị được nhập khẩu từ các nước có nên khoa học kỹ thuật,
nhất là ngành công nghiệp da giày rất phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan… Nhìn
chung để thâm nhập vào ngành da giày các doanh nghiệp cần có nguồn lực tài chính
ổn đinh và khá chắc.
Trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình
khá. Quy trình sản xuất mới đang được cơ giới hóa mà chưa đạt tới trình độ tự động
hóa. Tỉ lệ công việc phải làm thủ công hiện còn ở mức cao. Bên cạnh đó, khả năng
16


đầu tư vào chuyển giao công nghệ mới bị hạn chế bởi nguồn tài chính hạn hẹp. Trong
khi các doanh nghiệp tại các nước Châu Âu, Châu Mỹ và một số nước trong khu vực
khác có trình độ cao, công nghệ tự động hóa. Các doanh nghiệp nước này có thể nhảy
vào các thị trường mà Việt Nam đang tấn công và có thể áp đảo các doanh nghiệp
ngành da giày nước ta với trình độ công nghệ tiên tiến hơn.
Về nguồn nhân lực thì lao động tại các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam có đến
80% chưa qua đào. Cùng với đó là đội ngũ cán bộ quản lý của ngành chủ yếu làm trái
ngành, trái nghề và vừa học, vừa làm. Trong khi để tại các nước phát triển thì phần
lớn lao động đều có trình độ khá cao.
Nguồn nguyên liệu chủ yếu của các doanh nghiệp nước ta chủ yếu nhập khẩu từ nước
ngoài, sản xuất trong nước chỉ phục vụ khoảng 40% nhu cầu trong nước. Trong khi
tại các quốc gia khác, khâu nguyên vật liệu khá chủ động họ có thể mua của các nhà

sản xuất quen thuộc trong nước hoặc tự mình cung ứng. Đây dường như là một điều
kiện bắt buộc để có thể xâm nhập vào ngành tại các quốc gia đó.


Khác biệt hóa sản phẩm:

Hiện nay, trên thị trường da giày Việt Nam đã có những tên tuổi nối tiếng, có thương
hiệu mà khách hàng đã quá quen thuộc như: Bitis, Vina giày, giày Thượng Đình ...
Điều này khiến cho chi phí cho một chiến lược khác biệt hóa là khá cao.


Kênh phân phối chủ yếu của doanh nghiệp da giày:

Tại thị trường nội địa, các doanh nghiệp da giày Việt Nam hiện tại đang thiếu kênh
phân phối chuyên nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp ngành giày, nhất là những đơn vị
có quy mô sản xuất vừa và nhỏ hiện rất lo lắng cho mùa vụ năm sau, vì sợ thiếu đơn
hàng. Trong khi đó, đối tác vẫn còn e ngại đợi đến khi kết quả điều tra vụ kiện công
mới ký hợp đồng. Tuy nhiên tại thị trường nước ngoài lại có mạng lưới phân phối
rộng khắp.
Nhìn chung để các doanh nghiệp nước ngoài có thể nhảy vào cạnh tranh với các
doanh nghiệp da giày Việt Nam tại những thị trường mục tiêu của ta thì còn khá khó
do những vấn đề liên quan đến năng lực tài chính cũng như sự am hiểu thị hiếu khách
hàng tại các thi trường đó. Để có thể xâm nhập thì những đối thủ tiềm năng này cần
trang bị cho bản thân những nhân tố cần thiết đồng thời phải chịu áp lực khá lớn từ
những kẻ đi trước.
2.2.4. Nhà cung ứng
Đối với sản phẩm da giày, giá trị của phần nguyên phụ liệu chiếm tỷ trọng lớn,
khoảng 68 - 75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép và quyết định đến chất
lượng sản phẩm, do đó nhà cung cấp nguyên phụ liệu chính là yếu tố đặc biệt quan
17



trong với sự phát triển của các doanh nghiệp ngành may mặc. Tuy nhiên, các nhà
cung cấp nguyên phụ liệu trong nước mới chỉ đáp ứng được 40-45% nhu cầu của
ngành, trong đó chủ yếu gồm hai mặt hàng thứ yếu là đế giày và chỉ khâu còn nguyên
liệu quan trọng nhất để sản xuất giày dép là da thuộc và da nhân tạo vẫn đang phải
nhập khẩu từ các nhà cung cấp nước. Cụ thể là:
Mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu từ 1,1-1,5 tỷ USD da thuộc cho sản xuất hàng
xuất khẩu. Doanh nghiệp trong nước cũng chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại
giày vải cấp thấp, còn các chủng loại vải cao cấp đều phải nhập khẩu. Ngay cả các
loại máy móc để phục vụ sản xuất trong ngành hiện nay cũng đều phải nhập. Tất cả
những yếu tố này đẩy giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam lên cao và làm
giảm tính cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường thế giới.
Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, tổng sản lượng da nguyên liệu đáp ứng cho nhu cầu
sản xuất và xuất khẩu ước tính từ 220-250 ngàn tấn/năm. Tuy nhiên, sản lượng da
thuộc nội địa chỉ đáp ứng được 30%, còn lại phải nhập từ Hàn Quốc, Ý, Thái Lan…
Da nguyên liệu nhập từ Trung Quốc không nhiều, chỉ khoảng 7% cho sản xuất tiêu
dùng nội địa.
Hiện cả nước có 35 doanh nghiệp thuộc da. Các cơ sở thuộc da quốc doanh hàng đầu
đã đóng cửa hoặc cổ phần hóa do quản lý, tiếp thị và đầu tư yếu kém, chỉ còn hai
doanh nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp tư nhân chiếm 62% số nhà máy thuộc da,
nhưng do quy mô nhỏ nên chỉ chiếm một phần thấp trong tổng sản lượng thuộc da tại
Việt Nam.
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ngành da giầy, túi xách gồm khoảng 129 doanh
nghiệp, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp thuộc da. Ngoài ra, các DN CNHT
ngành dệt may (sản xuất vải, nhãn mác, khóa kéo, khuy, băng chun...), hóa chất và
ngành cơ khí cũng tham gia cung cấp một số sản phẩm nguyên phụ liệu cho ngành da
giày. Nhưng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá trị sản xuất công nghiệp
(GTSXCN) của CNHT ngành da giày có tốc độ tăng trưởng bình quân 16,5% trong
giai đoạn 2006 - 2011 và tỷ trọng giữa GTSXCN của CNHT da giầy trên GTSXCN

của toàn ngành da giày năm 2011 chỉ đạt 20,3%.
Một thách thức lớn không kém khác đối với ngành da giày Việt Nam là doanh
nghiệp Việt Nam vẫn ở thế bị động do ở vị thế làm gia công, sản xuất phụ thuộc vào
sự chỉ định của nhà nhập khẩu, tức là việc lựa chọn nhà cung cấp thuộc về phía khách
hàng.
Theo bà Trương Thị Thúy Liên - Giám đốc Trung tâm nguyên, phụ liệu Da, giày Liên
Anh TP. Hồ Chí Minh cho biết: “Cơ cấu sản xuất của ngành da, giày Việt Nam do đa
số là gia công, mà khi gia công thì họ lại không chủ động được khâu thu, mua nguyên
18


phụ liệu mà thường phải qua các đối tác giao gia công, mà những đối tác này lại được
quyền chỉ định khách hàng phải sử dụng nguyên phụ liệu tại một nhà sản xuất nào đó
hoặc ở Trung quốc, hoặc nước ngoài.
Trước những thách thức đó là cơ hội giúp ngành da giày Việt Nam có những
bước tiến mới, đó là Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ đã
ra đời khuyến khích sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, điều này có thể
làm gia tăng số lượng các nhà cung cấp nguyên phụ liệu trong nước, theo đó mà
ngành da giày cũng dần nắm thế chủ động trong việc đáp đứng nguyên liệu đầu vào
cho quá trình sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của ngành da giày Việt Nam.
2.2.5. Sản phẩm thay thế
Trên thị trường hiện nay, có rất nhiều sản phẩm thay thế các sản phẩm giày dép của
nước ta. Sản phẩm thay thế sẽ làm giảm lợi nhuận của các sản phẩm của nước ta.
Chúng là các sản phẩm đến từ các nước phát triển, đặc biệt là Trung Quốc – một nước
có khả năng làm giả các sản phẩm chính hãng và nhiều sản phẩm có mẫu mã đa dạng
với nhiều màu sắc thu hút khách hàng. Các mặt hàng đều được gắn mác Việt Nam
xuất khẩu nhưng lại dày chi đặc những chữ Trung Quốc và chúng được sản xuất ở
Quảng Đông. Khi có một mẫu giày mới nổi, chủ buôn chỉ cần chụp ảnh gửi cho
người sản xuất thì sau 3 đến 5 ngày là đã cho hàng về các sạp buôn, họ chỉ cần gắn
mác tên cửa hàng (Nguồn: Thanhnien.vn)

Hơn nữa, có nhiều sản phẩm giày dép của các hãng nổi tiếng nước ngoài như Nike,
Adidas, Vans,… được nhập khẩu, xách tay về Việt Nam với mẫu mã đẹp, chất lượng
tốt cũng làm cho các sản phẩm nội ít được ưa chuộng.
2.3.


Kết quả quá trình phân tích
Cơ hội

- Việt Nam đang là nước sản xuất giày dép đứng thứ 3 châu Á sau Trung Quốc,
Ấn Độ, và đứng thứ 4 thế giới.
- Lạm phát thấp là cơ hội giảm lãi suất tạo thuận lợi cho doanh nghiệp da giày mở
rộng sản xuất.
- Có thể tận dụng nguồn lao động rẻ, nguồn lao động dồi dào, trẻ tuổi.
- Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên USD đang yếu đi làm tăng khả năng xuất
khẩu hàng vào các thị trường Mỹ. Lãi suất giảm, kích thích các doanh nghiệp tăng
quy mô, mở rộng sản xuất

19


- Đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu vào các thị trường tham gia vào TPP. Khi Hiệp
định TPP thực thi, khả năng tăng trưởng càng nhiều. Thị trường EU khi thực thi Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam – EU, sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu tăng 50% năm
2020 và lên 93% vào năm 2025
- Tham gia TPP giúp Việt Nam nói chung và ngành da giày nói riêng thu hút được
dòng FDI với giá trị lớn hơn và công nghệ cao hơn
- Người tiêu dùng vẫn tin dùng hàng Việt Nam vì chất lượng của từng sản phẩm.
Được học hỏi thêm văn hóa xã hội các nước bên ngoài để cải tiến sản phẩm sao cho
phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng

- Thị hiếu của người tiêu dùng luôn thay đổi nên ngành da giày phải mang lại
được nhiều sản phẩm phù hợp với mẫu mã đa dạng thì mới được khách ưa dùng.
- Phát triển tối đa tiềm lực của các doanh nghiệp ngành da giày Việt Nam, có cơ
hội tiếp cận với công nghệ mới dễ dàng hơn
- Thúc đẩy các doanh nghiệp trong ngành nâng cao tự động hóa, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, tăng cường liên kết cả chiều dọc và chiều ngang. Trong đó,
đối với chuỗi liên kết dọc phải tạo liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất giày dép với
doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu và doanh nghiệp logistic. Đối với chuỗi liên
kết ngang phải có sự gắn kết giữa các nhà máy sản xuất cùng một loại sản phẩm với
nhau. Việc tăng cường liên kết không chỉ giúp ngành da giày khẳng định vị thế tại thị
trường nội địa mà còn nâng cao sức cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu


Thách thức

- Cạnh tranh với những đối thủ mạnh trên thị trường khu vực và quốc tế, đồng thời
có khá nhiều đối thủ tiềm năng đang lăm le chiếm lĩnh thị phần
- Tổng cầu xã hội yếu, mức tiêu thụ giảm, tỷ lệ tồn kho lớn, giá cả hàng hóa thấp
làm giảm doanh thu
- Năng suất lạo động của Việt Nam thấp. Thường 1 dòng sản phẩm có 450 công
nhân, đạt sản lượng 500,000 đôi/ năm, bằng 1/35 của Nhật Bản, 1/30 của Thái Lan,
1/20 Malaysia và 1/10 của Indonesia
- Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy các thị trường xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam là EU. Tuy nhiên đồng Euro và Bảng Anh đang mất giá nghiêm trọng ảnh
hưởng lớn đến giá trị xuất khẩu da giày
- Sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp da giày sẽ tăng lên và nguy cơ thất
bại của các doanh nghiệp trên chính thị trường nội địa. Cạnh tranh gay gắt với Trung
Quốc, đất nước với ngành giày da lớn mạnh. Gần đây, Trung Quốc có những lợi thế
20



như gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) trong khi bản thân những sản phẩm
giày dép từ Trung Quốc cũng đã có những ưu điểm vượt trội hơn Việt Nam, chẳng
hạn như đa dạng kiểu, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lí, đặc biệt là công nghệ cao.
- Châu Âu – Thị trường xuất khẩu da giày lớn nhất của Việt Nam tăng trưởng thấp
- Tìm ra phương thức sản xuất nguyên vật liệu đầu vào phù hợp

Ta có ma trận SWOT
Ma trận SWOT

Điểm mạnh ( S ):

Cơ hội ( O ):
1.Việt Nam đang là nước
sản xuất giày dép đứng vị
trí cao trên thế giới
2. Cơ hội giảm lãi suất
3.Có thể tận dụng nguồn
lao động rẻ, nguồn lao
động dồi dào, trẻ tuổi.
4. Khả năng xuất khẩu
hàng vào các thị trường
Mỹ tăng.
5.Đẩy mạnh tăng trưởng
xuất khẩu vào các thị
trường tham gia vào TPP.
6. Thu hút được dòng FDI
với giá trị lớn hơn và công
nghệ cao hơn.
7.Được học hỏi thêm văn

hóa xã hội các nước bên
ngoài để cải tiến sản phẩm
sao cho phù hợp với nhu
cầu người tiêu dùng
8.Phát triển tối đa tiềm lực
của các doanh nghiệp
ngành da giày Việt Nam,
có cơ hội tiếp cận với công
nghệ mới dễ dàng hơn
9. Thúc đẩy các doanh
nghiệp nâng cao tự động
hóa, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, tăng
cường liên kết cả chiều
dọc và chiều ngang
Chiến lược SO :

Thách thức ( T ):
1.Cạnh tranh với những
đối thủ mạnh trên thị
trường khu vực và quốc tế,
2. Tổng cầu xã hội yếu,
mức tiêu thụ giảm, tỷ lệ
tồn kho lớn, giá cả hàng
hóa thấp làm giảm doanh
thu.
3.Năng suất lạo động của
Việt Nam thấp
4. Đồng Euro và Bảng Anh
đang mất giá nghiêm trọng

ảnh hưởng lớn đến giá trị
xuất khẩu da giày
5. Châu Âu – Thị trường
xuất khẩu da giày lớn nhất
của Việt Nam tăng trưởng
thấp
6. Tìm ra phương thức sản
xuất nguyên vật liệu đầu
vào phù hợp

Chiến lược ST :
21


1.Các kênh phân phối hàng
hóa tại thị trường nước
ngoài khá đa dạng
2.Nguồn nhân lực trong
ngành da giày Việt Nam
rất dồi dào, hiện tại giá
nhân công vẫn còn khá rẻ
so với các nước trong khu
vực và trên thế giới
3.Các doanh nghiệp sử
dụng nguồn vốn FDI hoạt
động ổn định và hiệu quả.
Các doanh nghiệp này thực
khá tốt chức năng nghiên
cứu, phát triển


Điểm yếu ( W ):
1. Các doanh nghiệp da
giày Việt Nam vẫn chưa
thực sự chú trọng đến việc
đầu tư cho marketing
2.Quy trình sản xuất còn
giản đơn; nguồn nhân lực
năng suất thấp, trình độ
văn hóa thấp, ý thức kỷ
luật kém
3.Nguồn nguyên vật liệu
chủ yếu không tự chủ phải
phụ thuộc vào nước ngoài,
4.Phần lớn các doanh
nghiệp chưa thực hiện tốt
công tác nghiên cứu, phát
triển. Thiếu cán bộ kỹ
thuật cao nghiêm trọng

S12O : Tham gia chuỗi
cung ứng trên thế giới, tận
dụng lợi thế về kênh phân
phối nước ngoài và nguồn
nhân lực giá rẻ. Đẩy mạnh
vào các thị trường thân
quen như Mỹ và các nước
Châu Âu, đồng thời mở
rộng ra các nước lân cận.
S3O12345 : Các doanh
nghiệp có vốn FDI có thể

tận đụng các cơ hội của
nền kinh tế hiện tại để mở
rộng sản xuất đồng thời sử
dụng triệt để các lợi thế
trong bản thân doanh
nghiệp để đưa ra những
dòng sản phẩm mới
Chiến lược WO :
W124O35678 : Đẩy mạnh
công tác marketing, đổi
mới quy trình sản xuất,
nghiên cứu từ nguồn vốn
nội tại hoặc từ nguồn FDI
có khả năng thu hút được
để đẩy mạnh tấn công vào
các thị trường thế giới
W34O : Nghiên cứu, tự sản
xuất nguồn nguyên vật liệu
để sản xuất sản phẩm giá
cạnh tranh hơn

S2T126 : Khắc phục tình
trạng hiện tại về nguồn
nhân lực, thu hẹp quy mô
xuất khẩu sản phẩm tại thị
trường Anh và Châu Âu
đồng thời tận dụng triệt để
lợi thế về giá lao động
đánh đúng tâm lý tiêu
dùng đặc biệt là thị trường

nội địa
S13O : Thu hẹp quy mô
xuất khẩu sang Châu Âu
đặc biệt là các doanh
nghiệp sử dụng vốn FDI,
chuyển hướng sang thị
trường nội địa
Chiến lược WT :
WT : Đẩy mạnh công tác
marketing, đổi mới quy
trình sản xuất, đào tạo lại
lao động đồng thời thu hẹp
quy mô xuất khẩu sang
Châu Âu. Chuyển hướng
về thị trường trong nước
để giành lại thị trường từ
đối thủ cạnh tranh.

Lựa chọn chiến lược : S12O, W34O và WT
Giải pháp cho khó khăn này, các doanh nghiệp Việt Nam cần đó là tham gia
vào chuỗi giá trị. Đồng thời nghiên cứu, tự sản xuất nhằm hoàn thiện chuỗi cung ứng.
Với nền tảng vốn có là nguồn nhân lực giá rẻ đồng thời giảm chi phí do tự sản xuất từ
đó sẽ giúp cho giá cả sản phẩm trở nên cạnh tranh hơn. Bên cạnh đó việc nâng cao
quy trình sản xuất, công tác marketing; tập trung giành lại thị phần trong nước từ tay
22


các đối thủ cạnh tranh đặc biệt là Trung Quốc. Đồng thời đảm bảo xuất khẩu sang các
nước khác tuy nhiên cần giản lượng xuất sang Châu Âu do những biến động trong
thời gian này.


Phần III: Ví dụ về việc xây dựng ma trận SWOT tại công ty Biti’s
Thực tế cho thấy, ma trận SWOT được áp dụng rất phổ biến và được xem như
là một công cụ hữu ích, hiệu quả trong việc xây dựng chiến lược tại các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp da giày nói riêng. Tuy nhiên, không phải
công ty giày da nào cũng lập ra được một ma trận SWOT chính xác, đầy đủ thông tin
và lựa chọn, vận dụng các chiến lược được xây dựng từ SWOT có hiệu quả. Một số
điểm yếu mà nhiều doanh nghiệp da giày tại Việt Nam vẫn còn mắc phải khi xây
dựng và áp dụng ma trận SWOT có thể kể đến như:
-

-

Việc nghiên cứu về những ưu, nhược điểm cũng như thời cơ, thách thức từ bản
thân công ty và cả môi trường bên trong lẫn bên ngoài là chưa được thực hiện
tốt. Nguyên nhân là do chi phí nghiên cứu, thu thập thông tin này là khá lớn
cùng với công sức phải bỏ ra cũng đáng kể nên nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp giày da vừa và nhỏ thường không đáp ứng được. Điều này dẫn
đến việc phản ánh thông tin lên ma trận SWOT là kém chính xác, đầy đủ.
Tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các phương án chiến lược trong SWOT đôi
khi được xây dựng chưa tốt vì trình độ của các nhà phân tích trong doanh
nghiệp còn hạn chế khi mà doanh nghiệp không có đủ kinh phí để thuê chuyên
gia bên ngoài. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến độ chính xác, mức độ khả
thi cũng như sự hợp lí, thành công trong các chiến lược được lựa chọn từ ma
trận SWOT.

Tuy vậy, cũng phải kể đến rằng tại Việt Nam, đã có những doanh nghiệp giày
da có những bước đi thành công dựa vào các chiến lược định hướng tốt dựa trên cơ
sở của ma trận SWOT như: công ty da giày Hải Phòng, công ty da giày Hà Nội, công
ty da giày Sao Vàng, công ty da giày Đông Phương Đồng Nai, công ty Biti’s...Đây

đều là những doanh nghiệp lớn, phát triển mạnh mẽ hàng đầu tại thị trường Việt Nam
và đóng góp nhiều trong lĩnh vực xuất khẩu da giày của nước ta. Với nguồn vốn lớn,
nhân lực dồi dào, họ đã thực hiện quá trình điều tra, phân tích môi trường bên trong
lẫn bên ngoài doanh nghiệp khá chi tiết, chính xác. Cùng với đó là đội ngũ các
chuyên gia hoạch định chiến lược tốt nên những quyết định mà họ đưa ra là có hiệu
quả và ảnh hưởng lớn đối với sự thành công của doanh nghiệp.
Ví dụ điển hình từ việc xây dựng và áp dụng chiến lược được xây dựng từ ma
trận SWOT thành công: chiến lược “tránh mạnh, đánh yếu” của công ty Biti’s.

23


Chiến lược này được thực hiện khi Biti’s chọn Tây Nam, Trung Quốc làm thị
trường xuất khẩu mới. Đây là một quyết định táo bạo vì trong khi giày dép Trung
Quốc đang thâm nhập thị trường Việt Nam bằng giá rẻ thì Biti’s nghĩ đến chuyện
ngược lại: chinh phục thị trường đối thủ bằng các sản phẩm chất lượng, có giá phải
chăng. Một số điểm chính của ma trận SWOT mà Biti’s đã xây dựng mà từ đó có thể
đưa ra chiến lược “tránh mạnh, đánh yếu” đó là:
Về thuận lợi
Đây được coi là một thị trường dễ tính vì bao gồm các tầng lớp dân cư khác
nhau, có thu nhập khác nhau nên nhu cầu rất đa dạng, có thể tồn tại được những loại
hàng hóa có quy cách và chất lượng khác xa nhau hàng chục lần. Người Trung Quốc
có thói quen thích mua sắm, dễ bị thu hút bởi những sản phẩm mới lạ, khác biệt trong
khi Biti's có khả năng cung cấp hàng ngàn chủng loại sản phẩm cho thị trường. Ngoài
ra, văn hóa giữa hai nước cũng có nhiều nét tương đồng.
Trung Quốc rất chú trọng và khuyến khích xuất khẩu nhưng thị trường
nhập khẩu giày dép của Trung Quốc tương đối nhỏ, chỉ chiếm khoảng 1% của cả
nước. Những thương hiệu hàng ngoại nổi tiếng như Nike, Adidas... không nhiều mà
cũng chỉ nhắm vào nhóm người tiêu dùng có thu nhập cao. Do đó có thể nói đây là thị
trường thuận lợi dành cho giày dép chất lượng thấp đến trung bình.

Miền Tây là vùng lạc hậu nhất tại Trung Quốc. Chính vì vậy mà chính phủ
nước này luôn chú trọng phát triển kinh tế của vùng phía Tây. Điều này đã mở ra
những “cơ hội vàng’’ cho doanh nghiệp Việt như Biti’s.
Về thách thức
Các mặt hàng do người Trung Quốc làm ra tuy được đánh giá là chất lượng
không cao nhưng luôn phong phú và đa dạng. Một phần là nhờ nghiên cứu thị trường,
và một phần không nhỏ là do tình trạng hàng nhái quá phổ biến ở Trung Quốc, các cơ
sở ở nước này dường như có thể bắt chước ngay tức khắc mọi kiểu dáng, mẫu mã
trên thị trường.


Chiến thuật: Tránh mạnh - đánh yếu

Tránh mạnh: Nếu như Trung Quốc xâm nhập thị trường giày dép Việt Nam
bằng giá rẻ thì Biti’s lại chinh phục thị trường của đối thủ bằng những sản phẩm chất
lượng cao với giá cả cạnh tranh, cao hơn hàng Trung Quốc nhưng lại rẻ hơn các sản
phẩm có thương hiệu nổi tiếng như Adidas và Nike.
Đánh yếu: Công ty Biti’s đã nghiên cứu tìm ra chỗ trống tại thị trường Tây
Nam của Trung Quốc. Tây Nam là thị trường đầy tiềm năng với số dân trên 420 triệu
người, tập trung 75% dân tộc thiểu số và khoảng 80% dân nghèo của Trung Quốc
nhưng lại bị bỏ ngỏ do Trung Quốc quá chú trọng đến việc xuất khẩu.
24


Biti’s đã đầu tư xây dựng Trung tâm thương mại cửa khẩu quốc tế Lào Cai
nhằm chủ động mua nguyên liệu, đồng thời sản xuất nhiều mặt hàng cao cấp phục vụ
chính thị trường Trung Quốc. Những thuận lợi về mặt vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và
giao thông sẵn có, giúp cho hàng hóa Việt Nam đưa sang Tây Nam gần và thuận lợi
hơn so với hàng hoá đưa từ các tỉnh phía Đông của Trung Quốc.
Nhờ nắm được hệ thống luật pháp của Trung Quốc và tập quán kinh doanh tại

đây, ban lãnh đạo Biti's đã tiến hành đăng ký và bảo hộ thương hiệu kịp thời.
Chiến lược giá: Tại đây, Biti's áp dụng chính sách "một giá" và tạo hiệu ứng
tốt ngay sau khi ra đời. Người tiêu dùng Tây Nam Trung Quốc sẽ an tâm vì không
phải lo trả giá, mua hớ, mua nhầm. Hơn nữa, vì giá cả luôn gắn liền với chất lượng
nên dù có hơi đắt hơn so với những mặt hàng cùng loại thì Biti’s vẫn là xu hướng lựa
chon của người tiêu dùng tại đây.
Chiến lược phân phối: được tóm gọn trong bốn chữ “phủ dày, phủ
xa”: Biti’s tổ chức hệ thống phân phối theo kiểu chân rết, tại các thành phố lớn sẽ có
một trung tâm phân phối, trung tâm này kết hợp với các nhà bán lẻ địa phương và họ
phân phối đến người tiêu dùng nên sức lan tỏa sẽ mạnh hơn. Hiện tại Biti’s đã phát
triển được hơn 20 tổng đại lý và hơn 350 đại lý kinh doanh tiêu dùng tại hầu hết
các tỉnh miền Tây Nam Trung Quốc như: Trùng Khánh, Vân Nam, Quảng Tây,
Quảng Đông, Phúc Kiến, Hồ Bắc..., thậm chí cả Bắc Kinh và Thượng Hải, đó là một
mạng lưới phân phối và bán lẻ “mơ ước” của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Chiến lược xúc tiến thương mại: Quảng cáo truyền hình, báo đài ở Trung
Quốc có chi phí cao nhưng lại không hiệu quả bằng cách tiếp cận trực tiếp với người
tiêu dùng qua các hội chợ và các nhà phân phối bản địa. Vì tập quán của người dân
nơi đây là rất thích đi lại, tụ họp ở những nơi đông người nên hàng năm ở đây tổ chức
các cuộc triển lãm, hội chợ thu hút rất nhiều người tham quan mua sắm. Biti’s liền tận
dụng những cơ hội tham gia các hội chợ để quảng bá sản phẩm của mình đến người
tiêu dùng.
Kết quả: riêng doanh thu mỗi năm của Biti’s tại Tây Nam chiếm tới 80% tổng
doanh thu của công ty trên toàn thị trường Trung Quốc. Từ thị trường Tây Nam, Biti’s
tiếp tục vươn ra khắp Trung Quốc.
Biti's có thể coi là doanh nghiệp Việt thành công trong chiến lược tự "dấn thân"
và xây dựng được hình ảnh thương hiệu ở nước ngoài, đặc biệt là ở thị trường vốn nổi
tiếng thế giới từ lâu với những sản phẩm cùng loại giá rẻ.

Tài liệu tham khảo :
1)


/>25


×