Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn một số PHƯƠNG PHÁP GIÚP học SINH học tốt PHẦN THƠ HIỆN đại NGỮ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.76 KB, 24 trang )

1

1.TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN
THƠ HIỆN ĐẠI - NGỮ VĂN 9.
2. ĐẶT VẤN ĐỀ
2.1.Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu:
Có thể nói, thơ là loại hình tác phẩm được cấu trúc bởi một kiểu ngôn
ngữ đặc biệt, khác hẳn ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ văn xuôi. Thơ
thường bộc lộ ý thức tình cảm con người một cách trực tiếp; là tiếng nói của
tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động độc đáo - thơ trữ tình
đến với người đọc tự nhiên mà nồng nàn, giản dị mà sâu sắc, dễ dàng mà khó
quên, bất chợt để trường tồn, một chút xôn xao để rồi sâu lắng. Một cái nhìn,
một ánh mắt, một tiếng gọi trong thơ ta gặp một lần để rồi cứ ngân nga trong
ta mãi không thôi. Cái “tôi” trữ tình luôn cảm xúc thật sự, bộc lộ hẳn ra. Tiếng
nói trữ tình trở thành tiếng lòng thầm kín của mọi người. Quả thật nó là “lời
gửi của nghệ sĩ với cuộc đời”. Nói như nhà thơ Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói của
người nào đó đến với những người nào đó dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình,
tiếng nói đồng chí”.
Tuy nhiên có những bài thơ ta đọc một lần rồi sau đó để trong quên lãng
nhưng có những bài thơ ta đọc đi đọc lại mãi không muốn thôi. Hoặc lại cũng
có bài thơ, người này đọc thấy hay, thấy xúc động, người khác chẳng thấy gì
là thích thú. Đấy là do sức hấp dẫn từ bản thân tác phẩm và một điều vô cùng
quan trọng nữa là do hứng thú và khả năng cảm nhận ở mỗi người khi đến với
văn bản thơ. Năng lực cảm thụ của mỗi người không giống nhau, cũng không
phải tự nhiên vốn sẵn có mà phải qua quá trình tìm hiểu, được bồi dưỡng.
Nhất là đối với các em học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 9 lại có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Để các em có thể cảm nhận tốt các văn bản thơ, làm được
các bài nghị luận hay, chính xác đồng thời trau dồi những nhận thức và tình
cảm tốt đẹp, giúp các em tiếp tục nâng cao năng lực cảm thụ khi học văn ở
cấp Trung học phổ thông, hay những kì thi vào các trường chuyên, lớp chọn,


giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học nhằm kích thích sự hứng thú, phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.2 Những thực trạng liên quan đến vấn đề được nghiên cứu:
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy một số
thực trạng sau:
a. Về phía giáo viên:
Giáo viên chưa phân biệt rạch ròi giữa phương pháp dạy học truyền
thống với phương pháp dạy học mới. Người thầy đóng vai trò chủ động, tích
cực trong việc dạy học, giờ dạy học trên lớp giáo viên còn làm việc nhiều,
người thầy giảng bài, hướng dẫn, đưa ra các mẫu câu, học sinh tiếp nhận
chuyển thành kiến thức của mình, làm theo mẫu một cách thuần thục, ít tư
duy, sáng tạo, thầy giảng, trò nghe, ít thực hành, giao tiếp. Giờ học văn chỉ
đơn thuần là thầy giảng, trò nghe.
Giáo viên chưa phát huy tính tích cực chủ động trong việc dạy học, tiết
học diễn ra không sinh động, học sinh không muốn tư duy, sáng tạo để tham


2

gia tìm hiểu kiến thức mới. Trong giờ học, học sinh còn thụ động chưa mạnh
dạn bày tỏ ý kiến, cách làm, cách hiểu, cách đánh giá của mình về tác phẩm.
Trong khi đó phương pháp dạy học mới, người thầy chỉ đóng vai trò dẫn dắt,
hướng dẫn học sinh tự khám phá tiếp nhận kiến thức mà không đọc cho học
sinh chép. Để đạt được điều đó người giáo viên phải có tâm huyết, lòng nhiệt
tình, trang bị kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin thật nhuần nhuyễn vào
trong bài dạy của mình. Trong một năm học, giáo viên Ngữ văn đăng kí dạy
công nghệ thông tin còn hạn chế. Giáo viên cần phải nhận thức rằng: Nếu
trước đây giáo viên giảng cho hay, cho sâu, phân tích, cảm thụ hộ cho học sinh
thì theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy học bây giờ đã đổi khác:
“ Bài giảng của thầy, thầy giảng một nửa thôi

Còn một nửa để cho học sinh làm lấy”
( Chế Lan Viên )
Học sinh tham gia giờ học một cách sôi nổi, cởi mở, từ đó các em sẽ
cảm thấy thoải mái, tự tin hơn trong quá trình chiếm lĩnh tri thức của mình tạo
cho các em năng lực lắng nghe và thấu hiểu vấn đề một cách toàn diện. Từ đó,
các em biết đưa ra ý kiến của mình chính xác, tự tin, mạnh dạn, phong phú và
đúng đắn hơn. Lúc đó người thầy sẽ kích thích tối đa năng lực tư duy, sự sáng
tạo của học sinh, kích thích các em tự khám phá kiến thức mới, từ đó kiến
thức mà các em tiếp nhận được từ bài học có tính sâu sắc và bền vững hơn.
b. Về phía học sinh
- Học sinh ngày nay rất lười đọc văn bản, không hiểu và không biết được
cách hành văn, nhiều em không thuộc thơ mặc dù đó là bài thơ rất ngắn như
“Ánh trăng”, “Viếng lăng Bác”…
- Nhiều em bị cuốn hút vào các trò chơi điện tử, game online, ham chơi,
lười học không soạn bài, đến lớp nói chuyện, không phát biểu xây dựng bài.
- Nhiều em khi thầy cô kiểm tra bài cũ thì trả lời không đắn đo “Thưa cô,
em không thuộc”, bên cạnh đó có em không đem vở, khi giáo viên hỏi thì nói
là quên ở nhà.
- Học sinh không biết viết một đoạn văn cảm nhận, làm bài thì diễn đạt
ngô nghê. Ví dụ như em Nguyễn Anh Tài – học sinh lớp 9/6 (Năm học: 20152016) viết đoạn phân tích về bài thơ Viếng Lăng Bác: “Viễn Phương ra thăm
Bác Hồ, Bác Hồ đã hy sinh trong một lần tham gia chiến dịch”. Khi đọc câu
văn như vậy, người giáo viên không khỏi xót xa về sự thiếu hiểu biết của học
sinh về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thật là một lỗ hỏng kiến thức
quá trầm trọng trong nhận thức và trình độ của một học sinh lớp 9.
- Khi tìm hiểu bài, tiếp thu bài, học sinh không tư duy, sáng tạo, chủ yếu
dựa vào sách tham khảo hoặc bài viết của anh chị lớp trước để lại để đối phó,
không có khả năng tự học, không muốn suy nghĩ. Tóm lại đó là thực trạng
đáng báo động về tình hình học văn hiện nay, và là nỗi trăn trở lớn đối với
chúng ta – những giáo viên dạy văn.
* Nguyên nhân thực trạng:

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên như:
- Phương pháp giảng dạy của đội ngũ giáo viên còn bộc lộ nhiều hạn chế
và bất cập; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy chưa thực


3

sự phổ biến, hợp lý và đồng bộ; bên cạnh đó trong mỗi tiết học vẫn còn tình
trạng “đọc-chép” và “chiếu-chép” dẫn đến sự nhàm chán ở học sinh, nhiều
giáo viên còn sa vào “độc thoại”, “độc diễn” trên bục giảng… Trong mỗi giờ
dạy, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh tìm hiểu, đánh giá về cách cảm thụ
văn học, chưa đi sâu tìm hiểu tác phẩm bằng các phương tiện, biện pháp hỗ trợ
như: làm việc nhóm, nêu tình huống có vấn đề, sử dụng tư liệu, hình ảnh hay
chiếu phim văn học. Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh không muốn định hướng
cho con em mình theo học môn Ngữ văn vì sau này ít có điều kiện thi được
vào các trường kinh tế, tài chính, ngân hàng,… Vì thế, học sinh chỉ chú trọng
đầu tư cho các môn học tự nhiên như: Toán, Lý, Hóa,…. Học sinh thích học
những môn tự nhiên hơn, thậm chí có nhiều em học đều tất cả các môn, trong
đó môn Ngữ văn học rất tốt nhưng khi giáo viên đặt vấn đề gợi ý cho em đi
học bồi dưỡng và thi học sinh giỏi thì các em từ chối và chọn những môn tự
nhiên như: Toán, Lý, Hóa, Anh Văn … Bởi các em cho rằng học văn khó rồi,
viết văn càng khó hơn. Hơn nữa học sinh còn có quan niệm học lệch và học
tủ.
- Do không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì
học sinh sẽ không thể nắm bắt được, vì không thể nắm bắt được nên các em
cảm thấy mọi thứ đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng. Do đó, các em
đương nhiên không thể có hứng thú học và kết quả học tập luôn đi xuống là
điều dễ hiểu.
- Đôi khi không có hứng thú học cũng bắt nguồn từ công tác giảng dạy.
Chúng ta cần phải ý thức lại về việc giảng dạy. Giáo viên, trước hơn hết phải

là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến
thức của học sinh. Một cô giáo nổi tiếng nghiêm khắc, thì đương nhiên khó có
thể tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ sai mà
các em luôn phải duy trì trong suốt giờ học. Không những thế, ngày nay
chúng ta còn mắc một lỗi phổ biến khiến các em không hứng thú học đó là
thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy.
- Học sinh chưa có ý thức sưu tầm tư liệu có liên quan đến văn bản như
tranh ảnh, văn thơ, video để bổ sung bài học thêm phong phú.
- Bước đầu còn gặp khó khăn khi vận dụng phương pháp tích hợp và việc
gây hứng thú học tập cho học sinh .
- Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ đi làm ít quan tâm đến
việc học của con em, ảnh hưởng chất lượng học tập của học sinh.
2.3. Lý do chọn đề tài:
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề đã được đề cập bàn luận và
thực hiện trong nhiều năm qua, đặc biệt trong những năm gần đây với việc
thực hiện giảng dạy theo chương trình sách giáo khoa mới thì đổi mới phương
pháp dạy học càng được thúc đẩy và phát huy một cách có hiệu quả.
Định hướng phương pháp dạy học đã được thống nhất theo tư tưởng tích
cực hóa hoạt động của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Để
đạt được mục đích hoạt động đổi mới của phương pháp dạy học môn Ngữ văn
cũng như các môn học khác là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, bản
thân người giáo viên phải tự tìm tòi phương pháp thích hợp nhằm giúp học sinh


4

học tốt môn Ngữ văn. Đó là động cơ khiến người thầy tâm huyết phải tích cực
tìm tòi những phương pháp tối ưu trong môn Ngữ văn nói riêng và các môn học
nói chung.
Vậy làm thế nào để học sinh say mê, hứng thú trong giờ học Ngữ văn?

Làm thế nào để phát huy trí lực sáng tạo của học sinh trong giờ Ngữ văn?
Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu truyền đạt
khối lượng khổng lồ của tri thức và bên kia là số lượng thời gian thực học của
học sinh ngày càng ít đi do sự chi phối bởi nhiều nhu cầu của cuộc sống hiện
đại?
Phương pháp mới, sách giáo khoa mới ra đời đã bước đầu giải quyết
được mâu thuẫn đó, khi chú ý đến việc tự học của học sinh tức là thông qua tri
thức học mà dạy cho các em có thể tự học, giúp các em tiếp thu được nhiều
hơn, nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Cách học mới này sẽ tránh được sự nhàm chán,
đơn điệu, tránh được sự quay cóp, làm bài thiếu sự sáng tạo, cảm xúc khô cứng,
gượng gạo trong tâm hồn các em.
Từ lý do trên, người giáo viên muốn dạy văn hay và học sinh học văn
được tốt thì người dạy và người học phải có những nỗ lực nhất định để phát
huy khả năng của chính mình. Với tư cách là một giáo viên đứng lớp trực tiếp
giảng dạy môn Ngữ văn trong thời gian qua, bản thân tôi luôn trăn trở, tìm tòi
phương pháp tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh để các em yêu thích, say
mê với môn học.
Từ thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy được sự chán nản của học sinh khi
đến giờ Ngữ văn, các em không thích học văn đó là hệ lụy dẫn đến sự tiếp thu
kiến thức của học sinh còn nhiều hạn chế, còn lạm dụng quá nhiều vào sách
tham khảo, không muốn tư duy, sáng tạo, đa số dựa chủ yếu vào bài văn mẫu
dẫn đến học thuộc lòng, thụ động, không có thói quen đọc sách, không phát
biểu xây dựng bài, lỗi chính tả ngày càng phổ biến ngay cả học sinh giỏi và
đặc biệt không hứng thú khi đến giờ học văn vì thế kiến thức về văn học ngày
càng nghèo nàn, diễn đạt câu văn ngô nghê, khô khan, không có hồn, không
soạn bài ở nhà, tỏ ra thờ ơ với công việc quan trọng này. Sự giảm sút hứng thú
và ý thức học văn, sự nghèo nàn về kiến thức văn học là một trong những
nguyên nhân gây ra nhiều vụ bạo lực học đường, của những lời nói thô tục
thường ngày ở học sinh. Các em chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của
văn học là nhân học, học văn để học làm người, để hiểu cuộc đời và biết yêu

đời, yêu người và sống có ích. Bên cạnh đó nhiều giáo viên chưa chú trọng
đến việc đổi mới phương pháp dạy học dẫn đến thực trạng học sinh ngày
càng xao nhãng việc học. Điều này khiến tôi phải luôn trăn trở suy nghĩ và tìm
mọi cách để học sinh hứng thú hơn, hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo
hơn, có niềm say mê và thực sự bị hấp dẫn và lôi cuốn trong giờ học văn. Bên
cạnh đó, tôi thấy học sinh ngày nay có đủ điều kiện học tập, cùng với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin. Vì vậy, mỗi giáo viên
chúng ta phải biết tự học, tự bồi dưỡng, tự trang bị cho mình kiến thức và
phương pháp mới trong quá trình giảng dạy để đáp ứng nhu cầu học tập, để
giúp học sinh học tập tốt hơn. Ngoài việc ứng dụng công nghệ thông tin,
chúng ta cần tìm cách đổi mới phương pháp dạy học phù hợp. Vậy, việc học


5

văn và dạy văn trong nhà trường nếu làm thật tốt sẽ đem lại cho mỗi học sinh
một hành trang tinh thần quý giá, một đời sống tình cảm phong phú, một nhận
thức sâu sắc về con người và cuộc đời.
Chính vì tầm quan trọng trên và để nâng cao chất lượng bộ môn nên trong
quá trình dạy học, nghiên cứu phương pháp mới cùng với những ý kiến đóng
góp của đồng nghiệp, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Một số phương pháp
giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại - Ngữ văn 9.”
2.4 Phạm vi đề tài: Học sinh lớp 9 Trường THCS Nguyễn Trãi – Đại Lộc –
Quảng Nam.
3. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng thú
cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà
trường nói chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người
học nếu người dạy tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học. Người học văn
cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu ... khi có được sự

hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc khi cảm thụ. Cái khó của người dạy là
làm thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học. Trong nhà
trường phổ thông, đối tượng học sinh do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi thích tìm
hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để cảm thụ văn học, chưa
hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu văn, chưa có cảm xúc
thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả... Chính những thiếu sót trên học
sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là
phải tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết nhảy múa,
biết vẽ ra những khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội, phải đi vào tâm hồn các
em những tình cảm yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng, phải mở ra những cánh
cửa từ lâu được khóa chặt bằng sinh hoạt đời thường.
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn
Ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy học sinh,
mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc,
những khó khăn trong việc tìm hiểu phân tích. Người giáo viên không còn
giảng giải một cách say sưa khi không có phản hồi từ học sinh, các em được
làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề tài thảo luận, các
em có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề tài, về nhân
vật, về tác giả... Từ những cảm nhận đôi khi chưa chính xác, gây tranh cãi góp
phần rất lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, gây hứng thú cho các em và văn
học không xa lạ, không đóng khung trong Tháp ngà mà thật sự gần gũi biết
bao....
Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tích cực đến kết quả của các môn
khác, toát lên yêu cầu tăng cường thực hành, gắn với đời sống, góp phần hình
thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho lớp
trẻ ra đời hoặc tiếp tục học lên cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu
dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, có lòng nhân ái,
tôn trọng lẽ phải, công bằng, có lòng căm ghét cái ác, cái xấu, có tư duy sáng



6

tạo. Đó là những người biết cảm thụ cái hay, cái đẹp, biết hướng tới những giá
trị của chân, thiện, mỹ …
4. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trường THCS Nguyễn Trãi là một ngôi trường được tách ra từ trường
Trung học Đại Lộc sau năm 1975, trường cấp 1& 2 Đại phước là cơ sở của
trường Trung học Đại lộc cũ ở Khu 7 Thị Trấn Ái Nghĩa. Đến năm 1991, do
nhu cầu phát triển của giáo dục huyện nhà và thực hiện đề án trường Liên xã,
trường Trung học cơ sở Nguyễn Trãi được thành lập theo QĐ số 816/ QĐ-UB
ngày 01tháng 8 năm 1991 của Ủy ban nhân dân Huyện Đại lộc. Địa điểm
trường đặt tại Khu 4 Thị Trấn Ái Nghĩa. Đến năm 1997 do sự phát triển về số
lượng học sinh nên phải chia tách số học sinh xã Đại Hiệp về trường mới
( THCS Trần Phú). Hiện nay nhà trường chỉ còn học sinh của Thị Trấn Ái
Nghĩa và một bộ phận học sinh của xã Đại Nghĩa.
Trong những năm qua, nhà trường đã từng bước khẳng định được uy
tín, chất lượng của trường so với các trường trong địa bàn huyện. Nhà trường
đã xây dựng được đội ngũ giáo viên tương Đội ngũ thầy cô giáo trong nhà
trường tương đối đồng đều về chuyên môn, nghiệp vụ. Hằng năm, trường đều
có giáo viên tham gia Hội thi giáo viên giỏi cấp trường và huyện đạt thành
tích cao. Nhiều cán bộ, giáo viên được công nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua
các cấp. Đặc biệt, trong nhiều năm qua, nhà trường luôn có học sinh đạt giải
HS giỏi các cấp; tỷ lệ học sinh được công nhận xét tốt nghiệp THCS luôn đạt
từ 98% trở lên.
Không những thế, nhà trường có được đội ngũ giáo viên đoàn kết, nhiệt
tình, năng nổ, yêu nghề và dày dạn kinh nghiệm. Chính vì thế mà trong những
năm học 2014-2015; 2015-2016 trường đã đạt được những thành tích vượt
bậc trong dạy và học, đặc biệt là phong trào học sinh giỏi mũi nhọn đạt giải
nhất năm học 2015-2016, chất lượng giáo dục và học tập ở trường khá cao và

có uy tín trong cả huyện.
Riêng tổ Ngữ văn năm học vừa qua đạt thành tích khá cao trong công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp huyện – giải III toàn đoàn.
Bên cạnh những thành tích kể trên, trong những năm học trước chất
lượng học sinh giỏi Ngữ văn 9 và học sinh đỗ vào trường chuyên chưa cao.
Nhiều học sinh thi tuyển vào lớp chọn cũng không đạt bởi trong trường vẫn
còn nhiều học sinh chưa ngoan, chưa có ý thức tự giác trong học tập, mải
chơi, bị lôi cuốn vào các trò chơi điện tử, bị lôi kéo tham gia vào các hoạt
động làm mất trật tự trong trường học gây không ít phiền hà cho gia đình và
nhà trường. Đặc biệt là ở học sinh khối 9, điều đó đã làm ảnh hưởng đến chất
lượng học tập của các em.
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Vấn đề giúp học sinh học tốt trong giờ học Ngữ văn đi đôi với hiệu quả
có tính giáo dục cao. Học sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo dục
mới là mục đích mà người dạy cần đạt. Tôi xin trình bày một số phương pháp
đã áp dụng khi hướng dẫn học sinh tiếp xúc, tìm hiểu với văn bản thơ hiện đại
như sau:


7

1. Phương pháp 1: Đảm bảo nguyên tắc dạy học văn theo hướng tích
hợp, tích cực; phát huy năng lực của người học; giúp các em nắm vững kiến
thức tiếng Việt để vận dụng phân tích văn bản thơ trữ tình.
Phát hiện và phân tích bình giá các dấu hiệu nghệ thuật, sử dụng hệ
thống câu hỏi hướng dẫn phân tích bình giá, sử dụng phương pháp gợi tìm,
phương pháp nghiên cứu để giúp học sinh làm tốt các bài nghị luận về đoạn
thơ, bài thơ trong chương trình Ngữ văn 9.
Về chủ quan, các văn bản thơ trữ tình được đưa vào chương trình trong
thời điểm cụ thể từng bài, từng tuần đã đảm bảo tính tích hợp bởi đó là nguyên

tắc xây dựng chương trình giáo dục. Tích hợp giữa Văn - Tiếng Việt - Tập làm
văn (tích hợp ngang) và tích hợp dọc các nội dung, các kiểu văn bản đã học từ
lớp 6 đến lớp 9. Thực tế dạy - học tiếng Việt từ lớp 6 đến lớp 9 đã cung cấp cho
học sinh tri thức về các dấu hiệu nghệ thuật trong văn bản, nhất là văn bản thơ.
Các kiểu từ loại, các kiểu câu, cấu tạo câu, các biện pháp tu từ, tất cả đều có giá
trị sử dụng khi phân tích một văn bản thơ. Ứng dụng các kiến thức tiếng Việt,
các em sẽ phát hiện và phân tích bình giá các tín hiệu nghệ thuật ấy để cảm thụ
bài thơ sâu sắc hơn. Song các kiến thức tiếng Việt học đã lâu các em sẽ dễ dàng
quên. Vì thế trong các tiết “Tổng kết từ vựng” các em cần được ôn tập kĩ càng
để khắc sâu kiến thức. Sau mỗi bài dạy - học văn bản thơ cần có bài tập viết
đoạn trình bày cảm nhận để học sinh luyện về kiểu bài nghị luận về đoạn thơ,
bài thơ. Thông thường, phần luyện tập của mỗi bài đều có, song không nhất
thiết phải làm ngay trên lớp mà giáo viên có thể ra về nhà cho học sinh làm. Từ
đó, các em có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu kỹ hơn và cảm nhận sẽ sâu sắc
hơn.
Phần vì đảm bảo thời gian, phần vì để học sinh có độ “ngấm” sâu hơn
nên cho các em về nhà làm bài viết đoạn vào giấy và kiểm tra lại bằng cách yêu
cầu các em nộp lại cho giáo viên. Để làm được điều này giáo viên cần phải chịu
khó chấm bài để nắm được trình độ hiểu biết, mức độ hiểu bài và khả năng thực
hành của học sinh. Đồng thời để khuyến khích các em, giáo viên có thể cho
điểm thưởng với những em chăm làm, viết hay và có thể đọc trước lớp thay cho
phần kiểm tra bài cũ.
Phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng: người học – chủ thể hoạt động
– phải tự mình tìm ra kiến thức, với cách tìm ra kiến thức thông qua hành động
của chính mình. Chỉ có bằng hành động tự tìm hiểu khi các em tự nói ra những
điều mình cảm nhận được thì bài thơ sẽ sống mãi, và lúc đó quá trình cảm thụ
mới thật sự thành công.
Có một nhà sư phạm ví lớp học là một dàn nhạc, thầy giáo là nhạc
trưởng. Nhạc trưởng chỉ huy cả dàn nhạc cùng hoạt động, nhạc trưởng không
chơi đàn thay cho nhạc công. Sách giáo khoa hay văn bản, tác phẩm văn học,

học sinh đọc tìm hiểu văn bản là nguồn kiến thức mà giáo viên hướng dẫn.
Học sinh được giáo viên hướng dẫn sẽ hình thành kiến thức mới trên cơ
sở sách giáo khoa. Giáo viên có thể phát huy được năng lực trí tuệ của học
sinh, việc dạy văn thực sự là hoạt động rèn luyện con người một cách sáng
tạo.


8

Từ nhận thức trên, tôi đưa ra một số kinh nghiệm tích hợp trong việc dạy
văn bản thơ như sau:
a. Quan điểm tích hợp:
Tích hợp là quan điểm dạy học hiện đại đang được vận dụng rộng rãi trên
thế giới. Ở nước ta cũng đang trên con đường vận dụng quan điểm tích hợp
vào việc xây dựng chương trình sách giáo khoa, bồi dưỡng giáo viên, đổi mới
phương pháp dạy học, dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh. Môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn gọi
chung là môn Ngữ văn. Ba môn này đều nhằm vào mục đích hình thành cho
học sinh năng lực phân tích, bình giá, cảm thụ văn học nghệ thuật một cách
chủ động, hình thành bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Giáo viên hướng dẫn
học sinh phân tích, bình giá và cảm thụ văn học. Đó chính là hướng phấn đấu
theo quan điểm dạy theo hướng tích hợp, lấy học sinh làm trung tâm của quá
trình dạy học. Dạy như thế nào để phối hợp được các tri thức, kỹ năng thuộc
từng phân môn. Tích hợp có thể xem là nguyên tắc tổng quát để xây dựng
chương trình, định hướng phương pháp giảng dạy cho người giáo viên.
Vậy quan điểm tích hợp là phương hướng phối hợp một cách tối ưu các
quá trình học tập của các môn học, phân môn khác nhau để đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể.
b. Mức độ, phạm vi tích hợp:
Theo tôi, người giáo viên cần xác định được mức độ tích hợp và phạm vi

tích hợp. Vấn đề là phải biết chọn nội dung gì, ở phần nào để tích hợp là điều
không đơn giản. Chúng ta cần phải chú ý đến nội dung từng bài học trong
sách giáo khoa để vận dụng vào bài dạy. Chúng ta thấy các tác giả soạn sách
giáo khoa đã sắp xếp bài học có ý đồ tích hợp, nhưng không phải bài học nào
cũng có. Vì vậy, chúng tôi phải dựa vào chương trình, sách giáo khoa và thực
tiễn, trình độ học sinh, lượng thời gian…để xác định mức độ phạm vi tích
hợp, cần chọn nội dung, khía cạnh thích hợp, không được gò ép hoặc chăm
chú vào tích hợp. Nghĩa là ta phải tích hợp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức.
c. Quá trình tích hợp:
c.1: Tích hợp thông qua việc kiểm tra bài cũ:
Kiểm tra bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức các hoạt động
dạy học. Mục đích của hoạt động này là kiểm tra lại việc học bài ở nhà và
mức độ tiếp thu kiến thức, hiểu bài của học sinh. Đây cũng là hoạt động có
tính chất kết nối giữa bài cũ và bài mới. Nên kiểm tra bài cũ là cần thiết và
thuận lợi cho việc dạy bài mới.
Ví dụ: Dạy bài “Đồng chí” (tiết 2) tôi tiến hành kiểm tra bài cũ như sau:
+ Đọc thuộc lòng 7 dòng thơ đầu bài thơ “Đồng chí” - Chính Hữu?
+ Nêu nội dung chính của đoạn thơ vừa đọc?
+ Cơ sở nào hình thành tình đồng chí cao đẹp?
+ Biện pháp nghệ thuật nào chủ yếu được sử dụng? Tác dụng?
( Tích hợp Văn học - Tiếng Việt)
c.2: Tích hợp thông qua việc giới thiệu bài mới:
Giới thiệu bài mới là thao tác đầu tiên giúp học sinh hiểu được tên bài
học, chiếm một lượng thời gian nhỏ khoảng 2 - 3 phút nhưng không phải bài


9

học nào ta cũng giới thiệu. Công việc này có ý nghĩa trong việc chuẩn bị hứng
thú trước khi học bài mới cho người học.

Ví dụ 1: Khi dạy bài thơ “Bếp lửa” - Bằng Việt.
Giáo viên hỏi: Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, em đã được học
bài thơ nào viết về hình ảnh người bà? Của tác giả nào? Nội dung của bài thơ
đó? Sau đó giáo viên chốt nội dung và đặc sắc nghệ thuật, dẫn vào bài mới.
(Tích hợp ngang - dọc)
Ví dụ 2: Khi dạy bài thơ “Ánh trăng” - Nguyễn Duy.
Giáo viên tổ chức trò chơi “Đuổi hình bắt chữ” (Nhìn hình đoán tục ngữ,
thành ngữ) để tạo hứng thú cho học sinh trước khi học và sau đó hỏi các em:
Tục ngữ, thành ngữ nào nói lên được đạo lý sống ân nghĩa thủy chung cao quý
của dân tộc ta? (Uống nước nhớ nguồn).
Giáo viên động viên các em bằng cách cho các em trả lời đúng chọn
phần thưởng. Giáo viên chuẩn bị ba phần thưởng ứng với ba hộp quà: điểm
10, hộp kẹo và tràng pháo tay.
Giáo viên chốt dẫn vào bài mới: Tại sao tác giả trong bài thơ hôm nay
chúng ta học lại nhắc nhở với chính mình và với mọi người như vậy, các em
sẽ được tìm hiểu trong bài học hôm nay.
c.3: Tích hợp thông qua tìm hiểu chú thích, bố cục:
Đây là phần dễ dàng nhất cho tích hợp ngang, liên hệ kiến thức Văn
- Tiếng Việt - Tập làm văn thông qua các dạng câu hỏi:
- Xác định giọng điệu văn bản.
- Xác định thể loại văn bản, xác định ngôi, trình tự văn bản (Tích hợp
Tập làm văn)
- Giải thích từ khó (Tích hợp tiếng Việt)
- Câu hỏi về tác giả, tác phẩm có liên quan (Tích hợp ngang, dọc)
c.4: Tích hợp thông qua câu hỏi tìm hiểu bài:
Trong dạy học Ngữ văn hình thức nêu câu hỏi - đáp đóng vai trò
quan trọng, thể hiện tính tích cực chủ động của người học cũng như vai trò
chủ động của giáo viên. Đây là hoạt động mang tính linh hoạt, nghệ thuật. Tôi
đã lồng ghép thông qua hệ thống câu hỏi tích hợp Văn - Văn, Văn - Tiếng
Việt, Văn - Tập làm văn.

Ví dụ: Dạy bài Mùa xuân nho nhỏ - Tiết 116 (Ngữ văn 9). Tôi đã tích
hợp Văn - Tiếng Việt thông qua các câu hỏi.
- Hình ảnh mùa xuân thiên nhiên được phác họa bằng những chi tiết
nào? Cấu tạo ngữ pháp trong hai câu đầu có gì đặc biệt? Tác dụng?
- Ở hai câu tiếp theo tác giả sử dụng kiểu câu gì? Cảm xúc của tác
giả?
- Trong hai câu cuối của khố thơ đầu, em hiểu “giọt long lanh” ở đây
là giọt gì?
- Hãy xác định biện pháp nghệ thuật trong hai câu đó? Tác dụng?
- Bức tranh mùa xuân hiện lên như thế nào?
- Trong chương trình, em đã cảm nhận bức tranh xuân trong bài thơ
nào? So sánh để thấy sự khác nhau?


10

Thông qua hệ thống câu hỏi tích hợp, giáo viên đã cùng học sinh cảm
nhận được bức tranh mùa xuân thiên nhiên của bài thơ, đảm bảo đặc trưng
của một văn bản nghệ thuật qua những biểu hiện nghệ thuật để thể hiện nội
dung văn bản, hơn nữa còn góp phần mở rộng cho học sinh những kiến thức
văn học có liên quan khi các em cảm nhận thơ văn.
c.5: Tích hợp thông qua tiểu kết từng phần hay tổng kết giờ học:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu khám phá kiến thức, tích hợp
qua lời giảng, có ý nghĩa khái quát lại vấn đề hoặc chuyển tiếp nếu là tiểu kết,
nếu hết bài thì tổng kết. Tôi có thể liên hệ so sánh, đối chiếu.
c.6: Tích hợp thông qua bài tập:
Để đánh giá kiến thức đã tiếp thu bài học, giúp học sinh nắm chắc
kiến thức, nhớ lâu bằng cách làm các bài tập trong sách giáo khoa. Giáo viên
gọi học sinh lên bảng làm, học sinh ở dưới nhận xét bổ sung, nếu câu khó cho
các em cùng thảo luận tổ và cử đại diện lên bảng ghi kết quả trả lời.

Giáo viên nhận xét và chốt lại ý đúng.
Ví dụ: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về ước nguyện của nhà
thơ Thanh Hải trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, trong đó có khởi ngữ, gạch
dưới khởi ngữ (Tiết 93). Tích hợp Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn.
c.7: Tính tích hợp liên môn:
Dạy học tích hợp liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao
thoa giữa các môn học, là con đường tích hợp những nội dung từ một số
môn học liên quan với nhau. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong
dạy học Ngữ văn nói chung và phân môn văn học nói riêng, đây là một
quan điểm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh
để nâng cao chất lượng giáo dục. Dự án dạy các văn bản thơ hiện đại
Ngữ văn 9 có sự tích hợp rộng rãi với các môn học GDCD, Nhạc, Họa,
Lịch sử, Địa lý...
-Môn GDCD:
+GDCD 6: Bài Biết ơn (Liên quan đến các bài: Ánh trăng; Bếp lửa;
Viếng lăng Bác; Con cò; Nói với con)
+GDCD 8: Tình bạn trong sáng, lành mạnh (Liên quan đến các bài:
Đồng chí; Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
+ GDCD 9: Lý tưởng sống của thanh niên; Trách nhiệm của
thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc ( liên quan đến các bài: Đồng chí; Bài thơ về
tiểu đội xe không kính; Đoàn thuyền đánh cá; Khúc hát ru những em
bé trên lưng mẹ; Mùa xuân nho nhỏ; Nói với con ).


11

-Môn Nhạc:
Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như Đồng chí của Chính
Hữu, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Khúc hát ru những em bé trên

lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Viếng
lăng Bác của Viễn Phương nếu cho học sinh thưởng thức sẽ có tác dụng rất
lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học sinh về văn bản mà
mình được học. Công việc này cùng với việc đọc diễn cảm văn bản thơ có khả
năng đánh thức cảm xúc về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó
các em cảm nhận những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai
điệu đó.
Cụ thể:
+ Đồng chí. ( Liên quan đến bài Đồng chí.)
+ Bài ca người lái xe ( Liên quan đến bài Bài thơ về tiểu đội xe
không kính)
+ Bà tôi (Liên quan đến bài Bếp lửa)
+ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ (Liên quan đến bài Khúc
hát ru những em bé trên lưng mẹ)
+ Mùa xuân nho nhỏ ( Liên quan đến bài Mùa xuân nho nhỏ)
+ Viếng lăng Bác ( Liên quan đến bài Viếng lăng Bác)
-Môn Họa:
Vận dụng kiến thức, kĩ năng của môn Họa để vẽ tranh cảm nhận
về hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ; cảm nhận về vẻ đẹp của biển và hình ảnh người lao động
trên biển; cảm nhận về hình ảnh người bà, người mẹ, người cha thể hiện
qua các bài thơ mà các em vừa học, cảm nhận về bức tranh thiên nhiên
của mùa xuân, cảm nhận về bức tranh giao mùa từ hạ sang thu, về hình
ảnh đoàn người vào viếng lăng Bác.
- Môn Lịch sử:
Một tác phẩm văn học thường phản ánh một sự kiện, một bối
cảnh, một giai đoạn lịch sử nhất định và thông qua đó tác giả nói lên
suy nghĩ, tình cảm, quan điểm của mình. Kiến thức lịch sử góp phần
làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, sinh động, nâng cao hứng thú học tập



12

cho học sinh. Ở một tác phẩm, giữa văn học và lịch sử có mối liên quan
chặt chẽ với nhau nên việc tích hợp văn học với lịch sử trong dạy học
văn là cần thiết.
Cụ thể:
+Lịch sử lớp 9: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950) (Liên quan đến bài Đồng chí)
+ Lịch sử 9: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh
chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam ( 1954 – 1965)
(Liên quan đến bài Đoàn thuyền đánh cá)
+ Lịch sử 9: Cả nước trực tiếp chiến đấu chống Mĩ, cứu nước
(1965 – 1973) (Liên quan đến bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính,
Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ)
+ Lịch sử 9: Việt Nam sau cuộc chiến tranh chống Mỹ
(Liên quan đến bài Ánh trăng, Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu, Nói với
con, Viếng lăng Bác)
- Môn Địa lý:
Dạy văn không chỉ tích hợp kiến thức với môn GDCD, nhạc, họa,
lịch sử mà còn có thể kết hợp được với môn địa lý. Việc xác định vị trí
địa lý trên bản đồ và tìm hiểu về địa danh cũng góp phần làm cho
phong phú tiết học, hướng các em nên tìm đến tận nơi để cảm nhận sâu
sắc và đầy đủ hơn hình tượng và ý nghĩa của hình tượng thơ trong tác
phẩm.
Cụ thể:
+ Địa lý lớp 8: Địa hình Việt Nam (Liên quan đến bài Đồng Chí,
Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Khúc hát ru những em bé trên
lưng mẹ, Mùa xuân nho nhỏ)
+ Địa lý lớp 9: Trung du và miền núi phía Bắc (Liên quan đến bài

Đoàn thuyền đánh cá)
2. Phương pháp 2: Ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong
tiết học thông qua cách thiết kế trò chơi, sử dụng tranh ảnh, video.


13

Để thực hiện phương pháp dạy học hiện đại là phải nói đến phương pháp
trò chơi học tập như: Đối đáp; đoán ô chữ; nhận biết tranh; kim tự tháp; ai
nhanh hơn; trắc nghiệm vui; trò chơi đổi chỗ; mật thư; thi sắp xếp từ ngữ...
Tác dụng lớn nhất của phương pháp trò chơi là kích thích nhu cầu học
tập, tạo hứng thú, không khí sôi nổi trong giờ học, khắc sâu kiến thức hướng
đến mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả học tập. Đồng thời đây là hoạt động
quan trọng trong dạy học Ngữ văn giúp học sinh dễ tiếp thu, giờ học sinh động,
các em cảm thụ văn học tốt hơn.
Muốn có phương tiện dạy học, giáo viên tìm tòi, nghiên cứu, chuẩn
bị trước, công phu, biết đầu tư tri thức, công sức, vật chất, vận dụng một cách
thích hợp.
Ví dụ : Tổ chức trò chơi sau khi dạy văn bản: “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh
Hải)
- Câu 1: Thanh Hải quê ở đâu?
- Câu 2: Thái độ của tác giả thể hiện qua động từ “hứng” là gì?
- Câu 3: Hãy nêu cảm xúc của nhà thơ ở khổ thơ thứ nhất?
- Câu 4: Trong khổ 4, khung cảnh thiên nhiên như thế nào?
- Câu 5: Ước nguyện của nhà thơ được biểu hiện ra sao?
- Câu 6: Ước nguyện của nhà thơ được ghi lại qua từ nào?
- Câu 7: Làn điệu dân ca xứ Huế được viết trong bài là gì?
- Câu 8: Vì sao bài thơ dễ đi vào lòng người?
Ô chữ bí mật: Tên nhạc sĩ phổ nhạc bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh
Hải?

Tìm ô chữ hàng dọc được 10 điểm. Với mỗi hàng ngang, giáo viên đưa ra từ
khóa quan trọng. Và trả lời đúng ô chữ hàng ngang sẽ được một phiếu chọn
hộp quà may mắn.
Qua đây, tôi cũng đã giúp học sinh vừa khắc sâu kiến thức, vừa cảm
thấy giờ học bớt nặng nề hơn, hứng thứ sôi nổi, hoạt động tích cực hơn.
Ngoài ra, để tiết dạy thực sự sôi động, học sinh thực sự bị lôi cuốn, trong
giờ dạy các văn bản thơ, tôi chuẩn bị chân dung các nhà thơ giúp học sinh có
cái nhìn sâu hơn khi cảm nhận hồn thơ của mỗi tác giả. Bên cạnh đó việc sử
dụng tranh ảnh, video đã có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao năng lực cảm
thụ ở học sinh và đặc biệt những văn bản thơ trong chương trình Ngữ văn 9
thật sự là những tác phẩm có giá trị lớn cả về nội dung lẫn nghệ thuật và trở
thành bài ca đi cùng năm tháng. Tuy nhiên, để một bài dạy thực sự có hiệu quả
giáo viên cần phải đầu tư, biết phân bố thời gian hợp lý, không nên đưa quá
nhiều tranh ảnh làm cho giờ dạy bị loãng, không trọng tâm.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Đồng chí” - Chính Hữu, tôi đã cho các em quan sát
một số hình ảnh thể hiện tình đồng chí, đồng đội của những người chiến sĩ để
từ đó giúp các em thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người lính ở mọi
thời đại. Đồng thời các em cũng cảm phục, mến yêu và biết ơn những anh bộ
đội cụ Hồ đã quên mình, đem lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam.
Ví dụ 2: Khi dạy bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến
Duật, tôi cho học sinh quan sát hình ảnh những chiếc xe không kính khi phân


14

tích khổ 1 để từ đó các em sẽ thấy được sự trần trụi, biến dạng của những
chiếc xe.
Qua những hình ảnh này các em sẽ cảm nhận tốt hơn và từ đó sẽ hiểu rõ
hơn về phẩm chất hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi của người lính lái
xe trên tuyến đường Trường Sơn rực lửa. Với những hình ảnh ấy, các em phần

nào hiểu được sự ác liệt ở chiến trường, từ đó không những giáo viên khắc sâu
kiến thức cho học sinh mà chúng ta còn giáo dục cho các em lòng cảm phục,
nhớ ơn các anh hùng đã ngã xuống vì nền độc lập dân tộc. Đồng thời các em
còn cảm nhận được trong gian khổ ác liệt ấy, tình đồng đội, đồng chí càng gắn
bó keo sơn và họ vẫn lạc quan, yêu đời - một phẩm chất tốt đẹp của người
lính, sức mạnh làm nên chiến thắng.
Ví dụ 3: “Viếng lăng Bác” - Viễn Phương, tôi đưa vào một số hình ảnh từng
dòng người vào viếng Bác sau khi phân tích khổ thơ thứ hai. Thông qua hình
ảnh này giúp học sinh thấy được tấm lòng của dân tộc Việt Nam luôn luôn ghi
nhớ ơn Người. Từ đó giáo dục cho các em truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn” và tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phong trào “ Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Bên cạnh việc sử dụng chân dung tranh ảnh, tôi còn sử dụng video trước
hoặc sau khi kết thúc bài học. Bởi đối với những văn bản thơ đã được phổ
nhạc như “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Đồng chí” của Chính Hữu,
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, “Viếng lăng Bác”
của Viễn Phương, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, nếu cho học sinh
thưởng thức sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những cảm xúc mạnh mẽ
của học sinh về văn bản.
Vì tầm quan trọng ấy cho nên tôi đã tự trang bị thêm đĩa CD chép lại các
bài nhạc để sử dụng hoặc lên mạng tải bài hát, đoạn phim liên quan để soạn
giảng trình chiếu powerpoint khi dạy bài học có liên quan. Nội dung của các
phần trình chiếu có liên quan được sắp xếp theo trình tự bài học:
1. “Đồng chí” và đoạn video bài hát “Chúng tôi là chiến sĩ Bác Hồ”.
2. “Bài ca người lái xe” hoặc “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”.
3. “Đoàn thuyền đánh cá”.
4. “Mùa xuân nho nhỏ”.
5. “Viếng lăng Bác”.
6.Video ngày ra đi của Bác Hồ.
Với các nội dung cần trình chiếu có liên quan, tôi có thể cho học sinh

thưởng thức trước hoặc sau khi học. Khi dạy “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” tôi cho học sinh xem đoạn phim việc Mỹ ném bom trên dải đường
Trường Sơn. Hay với thước phim tư liệu về ngày Bác mất, khi phân tích khổ
thơ thứ 3 bài thơ “Viếng lăng Bác”, nói về nỗi đau của tác giả trước sự ra đi
của Người… tôi sẽ chiếu cho học sinh xem những đoạn đó.
6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua thực hiện các phương pháp đã nêu, tôi nhận thấy các em học sinh
có nhiều tiến bộ rõ rệt khi tìm hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm, học sinh khắc sâu các kiến thức về tiếng Việt, biết cách áp dụng


15

kiến thức tiếng Việt vào làm bài nghị luận văn bản thơ… Hơn nữa, các em yêu
thích học văn, hăng hái phát biểu, không còn những giờ văn giáo viên luôn
thuyết giảng mà hiệu quả không như ý muốn. Từ các bài làm của học sinh
trong khi kiểm tra một tiết và các bài thi học kỳ, thi tuyển sinh. Tôi nhận thấy
sự tiến bộ rõ nét trong việc các em dùng từ, đặt câu, nêu cảm nghĩ, phân tích
đánh giá. Học sinh đã có ý kiến cá nhân, nêu những điều các em nghĩ chứ
không bị áp đặt. Ví dụ như trong bài thi học kỳ II năm học 2015 – 2016 tỉ lệ
chất lượng được nâng cao rõ rệt tỉ lệ 100% TB trở lên và hơn nữa trong kì thi
vào trường chuyên của Tỉnh Quảng Nam (ngày 7-8 tháng 6 năm 2016) các em
đều đạt điểm cao so với những năm qua.
So sánh các lớp khi chưa áp dụng phương pháp tích hợp, chưa sử dụng
giáo án điện tử, tranh ảnh, video thì tỉ lệ học sinh hiểu bài đạt tỉ lệ thấp, lớp
học buồn tẻ, thụ động, học sinh ít tham gia phát biểu xây dựng bài, kĩ năng
đọc, nói, viết, rời rạc. Chất lượng bài kiểm tra thấp hơn.
Khi áp dụng phương pháp này thì lớp học trở nên sôi động, giáo viên
hướng dẫn nêu vấn đề, học sinh tự tìm hiểu, tư duy sáng tạo, phát biểu xây
dựng bài, học sinh tham gia thảo luận nhóm, tổ, học sinh khá, giỏi, giúp đỡ

học sinh yếu tiếp thu kiến thức, từ đó dẫn đến hình thành thói quen trong học
tập. Lớp học trở nên sinh động, tỉ lệ học sinh đạt yêu cầu hiểu bài trên 90%.
Qua những năm áp dụng “phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ
hiện đại – Ngữ văn 9” của cá nhân người học trong giờ học Ngữ văn, tôi rút ra
được một số kinh nghiệm nhỏ góp phần dạy tốt môn học theo hướng tích cực
như sau:
* Đối với giáo viên:
Giáo viên phải biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của học sinh, xem
các em là những chủ thể tích cực trong việc xây dựng bài học, không nên
thuyết giảng nhiều mà dành thời gian cho các em làm việc nhóm (làm việc
nhóm ở lớp và cả ở nhà), để các em tự tìm hiểu, khám phá tri thức, nội dung
bài học. Từ đó, kiến thức mà các em tiếp thu được sẽ có tính chất sâu sắc và
bền vững hơn.
Giáo viên phải chuẩn bị bài thật kỹ, giả định mọi tình huống khi các em
xây dựng bài, nên sử dụng hài hòa và đa dạng các phương pháp dạy học tích
cực để không gây nhàm chán trong giờ học của học sinh.
Khi sử dụng các trò chơi cần lưu ý tính hiệu quả của nó và phải phân
biệt trò chơi khởi động, giới thiệu bài cần ngắn gọn, trò chơi luyện tập cần
phong phú, đúng mục đích, trong thi đua cần nghiêm túc, công bằng, không
gây mất trật tự.
Cảm thụ văn học là một điều khó, không vội vàng yêu cầu cao trong
tiết học, có thể những tiết học sau đó mới đánh giá được sự tiến bộ của các
em .
Giáo viên phải luôn tìm hiểu tham khảo các tài liệu liên quan đến
chương trình, phải có kiến thức phổ thông trên nhiều lĩnh vực trong đời sống
để tích hợp liên môn, giáo dục học sinh qua thực tế cuộc sống của các em.
Giáo viên phải nhận thức đầy đủ về dạy học tích hợp trong môn Ngữ
văn, đó là sự kết hợp các tri thức, kỹ năng của ba phân môn Văn - Tiếng Việt -



16

Tập làm văn, phải dựa vào chương trình sách giáo khoa, giáo viên tổ chức cho
học sinh tiếp nhận kiến thức.
Tích hợp ngang là tích hợp liên môn theo từng thời điểm, đây là hướng
tiếp cận kiến thức từ việc khai thác giá trị các tri thức có mối liên hệ giữa kỹ
năng của ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập Làm Văn, phải dựa vào chương
trình sách giáo khoa, giáo viên tổ chức cho học sinh tiếp nhận kiến thức một
cách chính xác và đầy đủ. Giáo viên phải nghiên cứu soạn bài, hệ thống câu
hỏi thích hợp và chuẩn bị các phương tiện dạy học như : Tranh ảnh, bảng phụ
sử dụng một cách hợp lý.
Tích hợp dọc là tích hợp đồng tâm theo từng vấn đề trong từng phân
môn, dạy bài “Tổng kết từ vựng” liên hệ kiến thức ở lớp 6, 7, 8. Mối liên hệ
kiến thức được kết nối theo chiều dọc, kiểu xâu chuỗi, móc xích chặt chẽ.
Tích hợp mở rộng giữa các kiến thức trong bài học Ngữ văn với kiến
thức bộ môn Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội.
Không phải bài nào ta cũng tích hợp, giáo viên phải biết lựa chọn thời điểm
tích hợp để bài giảng không gượng ép. Tổ chức cho học sinh thực hành luyện
tập, khắc sâu kiến thức.
Để truyền niềm đam mê yêu thích học văn thì cần phải đổi mới về việc
dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường để học sinh từng bước thay đổi tư
duy và cách thức khi học văn. Muốn có được tiết dạy văn hay, trước hết giáo
viên phải đem cái “tâm” của nghề để truyền “lửa” cho các em, sau đó mới
tính đến chuyện giảng dạy những cái hay, cái đẹp trong từng con chữ, từng
bài văn, câu thơ, từng hình tượng văn học, nhân vật… để gieo vào tâm hồn
các em học sinh. Giáo viên cần đầu tư thời gian không chỉ cho việc soạn bài
mà còn phải đưa ra các phương pháp giảng dạy phù hợp để kích thích tối đa
năng lực tự học của học sinh; sưu tầm hình ảnh, phim tư liệu, phim văn học…
nhằm có được bài giảng hay và có chất lượng thu hút sự chú ý của các em.
Bên cạnh đó cần kết hợp dạy học tích cực để tạo tâm thế tốt cho các em dễ đi

sâu vào nội dung kiến thức bài học, không quá gò bó và lệ thuộc vào giáo án.
Phát huy tính đối thoại và giao lưu trao đổi, làm việc nhóm trong học tập để
tạo nên những giờ học tích cực, ý nghĩa. Điều đó sẽ tạo được sự hứng thú,
giúp học sinh tiếp thu kiến thức môn học một cách nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Tuy nhiên, theo khung phân phối chương trình học môn Ngữ văn hiện
nay, giáo viên phải tận dụng hết quỹ thời gian của một tiết học thì mới có thể
truyền tải nội dung trong sách giáo khoa. Do đó, giáo viên cần kết hợp linh
hoạt các khâu lên lớp để tiết học đạt hiệu quả tối ưu nhất.
* Đối với học sinh:
Học sinh phải được giáo viên giao việc chuẩn bị học bài cũ, soạn bài
mới ở nhà, học sinh chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học là chủ
thể tích cực trong quá trình học tập của mình. Học sinh tích cực tham gia hoạt
động dưới sự hướng dẫn của thầy giáo như cùng trao đổi, làm việc nhóm, tổ,
lớp học… tuy tốn nhiều thời gian và công sức nhưng đem lại hứng thú cho
người học lẫn người dạy. Học sinh hào hứng tham gia tìm hiểu, tiếp thu kiến
thức sẽ hạn chế được thái độ học đối phó của học sinh.


17

Học sinh hình thành thói quen tốt, tự học, tự nghiên cứu, vận dụng kiến
thức bài học vào thực tế nói và viết văn của chính mình.
Vận dụng phương pháp tích hợp và ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy môn Ngữ văn là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao
chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, giúp các em hứng thú và học tốt trong
giờ học Văn và sẽ giúp ích cho các em rất nhiều không chỉ khi còn đi học mà
còn là hành trang khi các em bước vào đời.
Dạy học theo phương pháp tích hợp và sử dụng công nghệ thông tin
hiệu quả sẽ giúp cho học sinh hứng thú, tiếp thu kiến thức, phát triển tư duy,
có khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức một cách linh hoạt trong học

tập và trong thực tế cuộc sống.
Tuân thủ nguyên tắc kế thừa và phát triển, chương trình Ngữ văn Trung
học cơ sở chia làm hai vòng. Vòng 1 lớp 6 và lớp 7, vòng 2 lớp 8 và lớp 9, các
nhà viết sách chọn văn bản, các đơn vị học cũng đã sắp xếp tích hợp giúp cho
người dạy và học dễ tiếp cận.
Để thực hiện có hiệu quả đòi hỏi người dạy và người học phải có vốn
sống, kinh nghệm thực tế, ham hiểu biết, học sinh phải say mê học đọc văn,
nghiên cứu tìm hiểu tác giả, tác phẩm, soạn bài, tư duy sáng tạo linh hoạt,
tránh gượng ép, tích cực tham gia các hoạt động trên lớp.
Kinh nghiệm dạy Ngữ văn theo hướng tích hợp và ứng dụng công nghệ
thông tin nhằm rèn luyện năng lực sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm, phát
huy tính tích cực trong học tập, tăng cường luyện tập, thực hành cho các em
học sinh. Điều ấy sẽ kích thích sự sáng tạo tư duy của học sinh gây hứng thú
trong học tập, lớp học sôi nổi sinh động, kiến thức các em tiếp thu được trở
nên sâu sắc và toàn diện hơn.
7. KẾT LUẬN
Trước tình hình học sinh không ham thích học văn và các môn xã hội
nói chung, việc gây hứng thú trong giờ dạy Ngữ văn là rất quan trọng. Để đạt
được kết quả như mong đợi cần có thời gian, trước mắt khi áp dụng chương
trình, sách giáo khoa mới đòi hỏi người giáo viên ngoài việc nghiên cứu
chương trình, sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo còn phải suy nghĩ tìm ra
phương pháp dạy học thích hợp cho từng tiết dạy, thực hiện phương châm:
“Lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy học”.
Việc giúp học sinh học tốt trong giờ học bước đầu cả giáo viên và học
sinh đều phải làm việc tích cực, thời gian chuẩn bị bài nhiều hơn, học sinh
phải hoạt động, làm việc nhiều hơn trong quá trình học tập của mình, sẽ có
những thiếu sót, vấp váp, e ngại lúc mới áp dụng khi học sinh phải đi từ cách
học thụ động: nghe giảng, ghi chép sang cách học tích cực: phát biểu ý kiến,
tham gia thảo luận, làm việc nhóm, tham gia các trò chơi ... Tôi tin tưởng rằng
những phương pháp đã nêu sẽ thành công không chỉ trong giờ dạy văn bản

thơ mà còn trong giờ dạy Ngữ văn Trung học cơ sở, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục bộ môn.


18

8. ĐỀ NGHỊ: Nhà trường cần trang bị thêm cơ sở vật chất: máy tính
cùng các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông
tin của cá nhân.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Minh Nguyệt

9. PHỤ LỤC
1. Một số hình ảnh:
-Học sinh bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước.
- Những chiếc xe không kính.
- Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ và anh giải phóng quân.
- Chân dung các nhà thơ.
2. Các sản phẩm học sinh nghiên cứu, tích hợp với môn lịch sử:
Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, hay Chiến dịch Léa theo cách
gọi của người Pháp, là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại
Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương. Chiến dịch này được xem là chiến
thắng lớn đầu tiên của phe Việt Minh trong cuộc chiến, làm thất bại chiến
lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp.Chiến dịch này đã ghi dấu thất
bại của Pháp trong việc tiêu diệt đầu não kháng chiến và quân chủ lực của
Việt Minh. Sau khi được tham gia chiến dịch có ý nghĩa quan trọng đối với sự
lớn mạnh của quân đội Việt Nam, cảm xúc dâng trào về tình đồng chí, đồng
đội đã giúp Chính Hữu gặt hái được nhiều thành công qua bài thơ Đồng Chí.
Vai trò của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ

1954 – 1960: Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân
dân ta tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nhằm đưa


19

miền Bắc vào thời kỳ mới, thời kỳ cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế và
văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã làm rõ hơn những
nội dung cụ thể về đường lối, nhiệm vụ chiến lược và mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược đồng thời tiến hành ở hai miền trong cuộc đấu
tranh đòi thực hiện đúng những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ. Người
nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì đấu tranh thống nhất
nước nhà nhất định thắng lợi”. Trong không khí khẩn trương trong việc thực
hiện nhiệm vụ mới, nhà thơ Huy Cận đã có chuyến đi thực tế vào năm 1958
tại vùng biển Quảng Ninh . Bài thơ ra đời trong một thời kì sôi nổi : miền Bắc
nước ta xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa . Cho nên đây là một áng thơ
hay, nổi bật lên đời sống lao động. Nói lên một hành trình khép kín của một
chuyến ra khơi đánh cá và trở về. Hình ảnh thơ kì vĩ, lớn lao, nhịp điệu khỏe
khoắn, vươn dài, giọng thơ lãng mạn tự tin, say sưa thể hiện được tâm hồn
tình cảm của con người lao đông xã hội chủ nghĩa mới.
3. Các sản phẩm học sinh nghiên cứu, tích hợp với môn Địa Lý:
Thông qua nghiên cứu bản đồ địa lí, ta thấy Quảng Ninh là trung tâm
kinh tế quan trọng của trung du và miền núi phía Bắc. Có nghành khai thác
than đá phát triển nhất trong cả nước. Là cụm cảng nối liền hầu hết các thành
phố,thị xã ở trung du và miền núi Bắc Bộ với các thành phố ở đồng bằng sông
Hồng, nhất là thủ đô Hà Nội. Có Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là
di sản thiên nhiên thế giới. Hoạt động du lịch và khai thác thủy hải sản phát
triển đã giúp Quảng Ninh trở thành tỉnh có thế mạnh và tiềm năng lớn nhất
vùng. Từ đây, ta có thể hiểu được tại sao Huy Cận lại có thể tìm được nguồn
cảm hứng về thiên nhiên và con người kì vĩ như thế nào và ông đã thật sự

thành công trong việc tái hiện nó thông qua tác phẩm của mình.
4. sản phẩm học sinh nghiên cứu, tích hợp với môn GDCD:
Học sinh liên hệ trách nhiệm của mình sau khi học xong các bài thơ:
“Đồng chí” là bài thơ ngắn, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị nhưng
mạch nguồn cảm xúc thì vẫn tuôn trào không nguôi về một tình cảm thiêng
liêng, cao đẹp của người lính cách mạng. Bài thơ phản ánh chân thật những
biểu hiện cảm động của tình đồng đội được hình thành trong gian khó của
chiến tranh đồng thời ghi lại được hình ảnh hào hùng đẹp đẽ của anh vệ quốc
quân đã một thời hy sinh tất cả để cầm súng chiến đấu cho nền độc lập, tự do
của Tổ quốc. Hành trình của bài thơ trong cuộc sống đã hơn nửa thế kỉ nhưng
sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi mãi đã khẳng định được những giá trị lớn lao
của nó. Ngày nay, đọc bài thơ “Đồng chí” chúng ta hiểu biết được thêm về
cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta, từ đó chúng ta học tập những phẩm chất
đẹp đẽ ấy để tu dưỡng đạo đức nhằm cùng mọi người xây dựng cuộc sống
mới văn minh, tốt đẹp sao cho xứng đáng với sự hi sinh của các anh trong
cuộc kháng chiến đã qua.
Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những
con người anh hùng trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn


20

mỗi khi ta đối diện từng trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ
này.
Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học
Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ
tượng đài những chiến sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ
XX”. Chiến công của họ đẹp và phi thường như huyền thoại trên tuyến đường
Trường Sơn ấy. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Trường Sơn đông nắng,

tây mưa, ai chưa đến đó như chưa rõ mình". Hôm nay, trên con đường
Trường Sơn hiện đại, rộn rã đi lên trong nhịp sống mới, đang đòi hỏi thế hệ
chúng ta hãy mang sức lực và trí tuệ ra sức khai thác tiềm năng dồi dào phía
tây của Tổ quốc, để đưa đất nước, quê hương ngày càng trở nên giàu đẹp,
phồn vinh ...
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều,
nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm
tuổi thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm.
Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu ấy được tác giả làm sống dậy trong bài thơ "Bếp
lửa". Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất
nước. Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng,
những kỷ niệm và những con người không thể nào quên được. Bằng Việt đã
có được một tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông
đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu
lắng, hình ảnh thơ gợi cảm và giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là
món quà quý giá mà Bằng Việt gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng
giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với
những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn
mỗi con người.
10. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ Văn (Bộ giáo
dục và Đào tạo ) - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2007.
2. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn THCS
(Nguyễn Thúy Hồng - Nguyễn Quang Ninh) - Nhà xuất bản Giáo dục Năm 2008.
3. Dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp (GS.TS Lê A (Chủ biên) - Lê Minh
Thu - Nguyễn Thị Thúy ) - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
4. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9 (Nhà xuất bản giáo dục 2002).
5. Tạp chí “ Dạy và học ngày nay” của Bộ GD.
6. Tài liệu BDTX cho giáo viên THCS chu kỳ 3 (2004-2007) Ngữ văn - vụ
giáo dục trung học.

7. Tài liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn (Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam).
8. Giáo trình lý luận văn học (Nhà xuất bản giáo dục - 2006).
11. MỤC LỤC


21

1. Tên đề tài………………………………………………………...Trang 1
2. Đặt vấn đề ………………………………………………………Trang 1
2.1. Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu …………………Trang 1
2.2 Những thực trạng liên quan đến vấn đề nghiên cứu ………… Trang 1
2.3 Lý do chọn đề tài …………………………………………. Trang 5
2.4. Phạm vi đề tài ........................................................................ Trang 6
3. Cơ sở lý luận …………………………………………………... Trang 7
4. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………….....Trang 8
5. Nội dung nghiên cứu ………………………………………….....Trang 9
6. Kết quả nghiên cứu………………………………………….......Trang 20
7. Kết luận …………………………………………......................Trang 24
8. Đề nghị……………………………………………………...... Trang 24
9. Phụ lục………………………………...................................... ...Trang 24
10. Tài liệu tham khảo………………………………………….....Trang 26
11. Mục lục.........................................................................................Trang 26
12. Phiếu đánh giá xếp loại sáng kiến kinh nghiệm:

Mẫu SK1

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NĂM HỌC 2016-2017
CỦA HĐKH TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRÃI

1. Tên đề tài: ..............................................................................................
2. Họ và tên tác giả: ..................................................................................
3. Chức vụ: ....................................... Tổ: ................................................
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm: ...................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................


22

b) Hạn chế:......................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường THCS Nguyễn Trãi
thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định:
(Ký, ghi rõ họ tên)

Chủ tịch HĐKH
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)

...........................................ký .....................

...........................................ký .....................

Mẫu SK2

(Tờ số 1)

PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2015-2016
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC
Đề tài:................................................................................................
Họ và tên tác giả: ............................................................................
Đơn vị:..............................................................................................
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần

Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài

Điểm
tối đa

1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề

1

3. Cơ sở lý luận

1


4. Cơ sở thực tiễn

2

5. Nội dung nghiên cứu

9

Điểm
đạt
được


23

6. Kết quả nghiên cứu

3

7. Kết luận

1

8.Đề nghị
9.Phụ lục
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục
12.Phiếu đánh giá xếp loại

1

1

Thể thức văn bản, chính tả

1

Tổng cộng

20đ
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
(Người thứ nhất, ký và ghi rõ họ tên)

Mẫu SK2

(Tờ số 2)

PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2016-2017
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC
Đề tài: ............................................................................................................
Họ và tên tác giả: .........................................................................................
Đơn vị:..........................................................................................................
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần

Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài

Điểm

tối đa

1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề

1

3. Cơ sở lý luận

1

4. Cơ sở thực tiễn

2

5. Nội dung nghiên cứu

9

Điểm
đạt
được


24

6. Kết quả nghiên cứu

3


7. Kết luận

1

8.Đề nghị
9.Phụ lục
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục
12.Phiếu đánh giá xếp loại

1
1

Thể thức văn bản, chính tả
Tổng cộng

1
20đ

Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
(Người thứ Hai, ký và ghi rõ họ tên)



×