Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.18 KB, 12 trang )

BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Chủ đề: Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp theo quy định

của pháp luật hiện hành
A.

MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu xây dựng gia đình của con

người ngày càng trở nên quan trọng. Một trong những yếu tố tạo nên gia
đìnhchính là quan hệ cha, mẹ, con. Chính vì điều này mà các nhà làm luật đã
nghiên cứu thực tiễn và lí luận để xây dựng những quy định về quan hệ giữa
cha, mẹ, con trong luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong đó, bao gồm
những quy định liên quan đến căn cứ pháp luật phát sinh quan hệ cha, mẹ,
con; quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con… Việc xác
định quan hệ cha, mẹ, con được pháp luật quy định tiến hành theo hai hình
thức: hành chính và tư pháp. Trong bài nhóm này, nhóm xin phân tích những
quy định của pháp luật về việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp.
B.
I.

NỘI DUNG
Khái quát về xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp
1. Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật hiện hành
1.1.
Thế nào là xác định cha, mẹ, con?
Hiện nay, khái niệm xác định cha, mẹ , con chưa được quy định một

cách cụ thể. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này.
Dưới góc độ sinh học thì xác định cha, mẹ, con được hiểu là việc
nghiên cứu, tìm kiếm, nhận diện một quan hệ huyết thống trực hệ giữa hai thế


hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ. Tuy nhiên, khái niệm này còn
nhiều hạn chế, nhất là việc sinh con theo biện pháp hỗ trợ kĩ thuật sinh sản
Dưới góc độ pháp lí thì xác định cha, mẹ, con là tổng thể các quy định
của pháp luật về nghĩa vụ của chủ thể trong mối quan hệ xác định cha, mẹ,
con. Với định nghĩa này thì cha, mẹ, con vừa là mộ sự kiện pháp lí, vừa là
một quan hệ pháp luật, một chế định pháp lí.
1


Xác định quan hệ cha, mẹ con được hiểu là một hành vi pháp lý do các
cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thừa nhận hoặc không thừa nhận quan hệ cha –
con, mẹ - con về mặt pháp lý, nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm ddứt
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con cái và ngược lại, con cái với cha mẹ.
1.2.

Căn cứ xác định quan hệ cha, mẹ, con

Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc xác định cha, mẹ, con có
các căn cứ sau:
Thứ nhất, quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ, con phát sinh dựa trên sự
kiện sinh đẻ, bao gồm: Trường hợp sinh con tự nhiên; Trường hợp sinh con
mà vợ chồng hoặc người phụ nữ độc thân sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
Trường hợp mang thai vì mục đích nhân đạo
Thứ hai, sự kiện nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha, mẹ, con.
Thứ ba, quan hệ giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng cả vợ hoặc chồng
và quan hệ giữa cha mẹ chồng với con dâu, giữa cha mẹ vợ với con rể.
1.3.

Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ, con


Việc xác định cha, mẹ, con có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để xác định
mối quan hệ cha – con, mẹ - con, từ đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
nhân thân, tài sản liên quan. Và đây cũng là căn cứ pháp lý để Tòa án giải
quyết tranh chấp về việc xác định cha, mẹ, con trong thực tế, đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của người là cha, mẹ, con.

2.

Xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp
2.1.
Cơ sở xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp
2


Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc xác
định quan hệ cha mẹ con được thực hiện theo hai hình thức.
Trong trường hợp không có tranh chấp thì việc xác định cha, mẹ, con
được tiến hành tại cơ quan hành chính tại nơi cư trú của người có yêu cầu và
tiến hành theo thủ tục hành chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền
xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp
không có tranh chấp”. Việc xác định quan hệ cha mẹ con theo thủ tục hành
chính xảy ra trong hai trường hợp: khi cha mẹ tồn tại quan hệ hôn nhân và khi
cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân. Cơ quan có thẩm quyền đăng kí khai
sinh (khai nhận quan hệ cha, mẹ, con) là ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của mẹ đứa trẻ; trường hợp có yếu tố nước ngoài thì thuộc về Sở tư pháp hoặc
cơ quan đại diện.
Trường hợp có tranh chấp xảy ra trong việc xác nhận quan hệ cha, mẹ,
con sẽ được tiến hành theo thủ tục tư pháp và cơ quan có thẩm quyền giải

quyết là Tòa án khi có yêu cầu của các bên liên quan. Cơ sở pháp lý của việc
xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp theo quy định của pháp luật được
quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể:
“Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết
và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ
quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các
bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên
quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
2.2.

Đặc điểm của việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư
pháp

3


Thứ nhất, về trường hợp áp dụng: Khác với thủ tục hành chính được áp
dụng khi các bên tham gia vào việc xác định cha, mẹ, con hoàn toàn tự
nguyện về ý chí thì thủ tục tư pháp dược áp dụng khi giữa các bên tham gia
vào việc xác định cha, mẹ, con xảy ra tranh chấp.
Thứ hai, về chủ thề áp dụng pháp luật: vì đối với việc xác định cha, mẹ,
con bằng thủ tục tư pháp, vì xảy ra tranh chấp giữa các bên nên theo quy định
của Điều 29, 35 Bộ luật TTDS 2015 thì đây là một vụ án dân sự, cho nên
thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc về Tòa án.
Thứ ba, về trình tự thủ tục thực hiện: Văn bản quy phạm quy định nó là
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và một số ít trong luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 2014; Nếu như việc xác định cha, mẹ, con bằng thủ tục hành
chính làm phát sinh quan hệ pháp luật hành chính giữa bên yêu cầu và bên có

thẩm quyền giải quyết thì xác định cha, mẹ, con bẳng thủ tục tư pháp làm phát
sinh quan hệ pháp luật dân sự giữa các bên tham gia vụ việc; Việc yêu cầu
bằng chứng là bắt buộc; Hòa giải là giai đoạn bắt buộc trong việc xác định
cha, mẹ, con bằng thủ tục tư pháp; Trong thủ tục tư pháp, khi có kháng nghị
của các bên đương sự thì sẽ được áp dụng tại các cấp xét xử cao hơn từ phiên
tòa sơ thẩm đến phiên tòa phúc thẩm.
Thứ tư, về kết quả pháp lý: kết quả của việc xác định cha, mẹ, con thoe
thủ tục tư pháp chính là bản án của Tòa án có thể là sơ thẩm hoặc phúc
thẩm… Dựa trên những quyết định, bản án này mà làm phát sinh những
quyền và nghĩa vụ khác nhau đối với cha – con, mẹ - con. Đây chính là căn cứ
pháp lý mà hệ quả của nó làm phát sinh những mối quan hệ đó.

II.

Quy định về của pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ, con theo
thủ tục tư pháp
4


Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc xác định cha, mẹ, con được
quy định cụ thể trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và một số luật
khác liên quan như Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Nghị định hướng dẫn của
Chính phủ… Theo đó, việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp được
thực hiện nếu xảy ra các trường hợp sau:
1.

Trường hợp người chồng không nhận con do vợ có thai hoặc
sinh ra trong thời kì hôn nhân là con mình.

Trong trường hợp người chồng đã được khai là cha của con nhưng cho

rằng người con đó không phải là con của mình thì có quyền yêu cầu tòa án
giải quyết (quy định tại khoản 2 Điều 89:" Người được nhận là cha, mẹ của
một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con
mình."). Tuy nhiên, người chồng phải đưa ra những chứng cứ nhằm chứng
minh họ tuy là chồng của mẹ đứa trẻ nhưng không phải là cha của đứa trẻ.
Những chứng cứ có thể là: Trong thời gian người vợ có thể thụ thai đứa trẻ thì
người chồng đi công tác xa; trong thời gian người vợ có thể thụ thai đứa trẻ
thì người chồng bị ốm đau bệnh tật nặng mà không thể có con hoặc người
chồng bị vô sinh. Đối với những trường hợp này phải có giấy chứng nhận của
cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên. Ngoài ta, người chồng có thể yêu cầu tòa án
giám định AND để làm cơ sở giải quyết. Quyết định của Tòa án về xác định
cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy
định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự (đoạn 2 khoản 2 Điều 101).
Như vậy, trường hợp này, người chồng cần làm hồ sơ nộp cho Tòa án
nơi cư trú hoặc làm việc yêu cầu xem xét để công nhận việc không nhận đứa
bé là con của mình. Tòa án xem xét đơn, nếu có đủ căn cứ chứng minh người
chồng không phải là cha đứa bé thì Tòa án ra quyết định công nhận yêu cầu
của người chồng.
5


2.

Trường hợp Cha (mẹ) yêu cầu xác định một người là con
mình, người mẹ yêu cầu xác định một người là cha của con
mình, người con yêu cầu xác định một người là cha hoặc mẹ
của mình.


Về người có quyền yêu cầu Tòa án xác định quan hệ cha, mẹ, con:
Người đàn ông chưa được khai là cha của con có quyền yêu cầu Tòa án xác
định mình là cha của người con đó; người mẹ chưa được khai là mẹ của con
có quyền yêu cầu Tòa án xác định mình là mẹ của người con đó; người con đã
thành niên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự mình yêu cầu
Tòa án xác định một người đàn ông là cha hoặc một người đàn bà là mẹ của
mình; người mẹ, người cha hoặc người giám hộ của người con chưa thành
niên hoặc của con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, Hội Liên
hiệp Phụ nữ, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước
về trẻ em có quyền yêu cầu Tòa án xác định một người là cha hoặc một người
là mẹ của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất năng lực
hành vi dân sự.
Về thẩm quyền giải quyết: theo Khoản 2 Điều 35 và Khoản 10 Điều 29
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết những yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Về trình tự thủ tục tư pháp được thực hiện: xác định cha, mẹ, con theo
thủ tục tư pháp được áp dụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự, được giải quyết
theo trình tự, thủ tục của một vụ án dân sự. Xác định quan hệ cha, mẹ, con tại
Tòa án phải trên cơ sở có đơn yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
yêu cầu xác định (người có quyền khởi kiện). Cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu
cầu Tóa án xác định cha, mẹ, con phải cung cấp chứng cứ nhằm chứng minh
mối quan hệ cha, mẹ, con. Chứng cứ là một yêu cầu bắt buộc do các bên
không có sự tự nguyện về ý chí, chính sự không tự nguyện này đã làm phát
sinh những tranh chấp mà để Tòa án có thể giải quyết và đưa ra những kết
6


luận thấu đáo và chính xác thì yếu tố chứng cứ là không thể thiếu nên đây là
căn cứ pháp lý quan trọng để Tòa án xác định cha, mẹ, con. Bên cạnh các căn

cứ đã được xác định trong các văn bản pháp luật, việc chứng minh mối quan
hệ cha, mẹ, con còn có thể thực hiện bằng việc giám định gen nếu thấy cần
thiết. Người có yêu cầu giám định gen phải nộp lệ phí giám định.
3.

Tranh chấp trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản và mang thai hộ.
Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con

bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ.
Trong trường hợp cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản, khi con được sinh ra, người chồng(vợ) vô sinh đã được khai là cha(mẹ)
của đứa trẻ nhưng sau đó lại yêu cầu Tòa án xác định mình không phải là
cha(mẹ) của đứa trẻ đó thì căn cứ vào Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của họ. Do đó, chồng (vợ) vô sinh vẫn
là cha (mẹ) của đứa trẻ. Trường hợp cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản, sau đó người khác nhận là cha (người cho tinh trùng) hoặc là mẹ
(người cho noãn) của đứa trẻ thì về nguyên tắc đứa trẻ vẫn là con của cặp vợ
chồng vô sinh này. Nếu người nhận con yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án
không chấp nhận yêu cầu của họ.
Trong trường hợp mang thai hộ, về nguyên tắc, đứa trẻ sinh ra là con
của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, nếu xảy ra trường hợp nhờ
bên mang thai hộ không nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa
án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Trong trường hợp chưa giao đứa trẻ
mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc hoặc mất năng lực hành
vi dân sự thì bên mang thai hộ có quyền nhận nuôi đứa trẻ. Nếu bên mang thai
hộ không nhận nuôi đứa trẻ thì việc giám hộ và cấp dưỡng đối với đứa trẻ
được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và Bộ luật dân
sự.
7



Trong trường hợp sau khi sinh con, bên mang thai hộ không giao con
cho bên nhờ mang thai như đã cam kết thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu
cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con cho mình.
4.

Trường hợp xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu
cầu chết.
Căn cứ quy định tại Điều 90, 91 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì

Con có quyền nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết
và cha, mẹ có quyền nhận con , kể cả trong trường hợp con đã chết. Như
vậy, người con có quyền nhận được nhận cha. Mặc khác, trong trường hợp có
tranh chấp về việc xác định cha mà người cha đã chết thì người thân thích có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết căn cứ quy định tại Điều 92 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014: “Trong trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ,
con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người này có quyền
yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết.”. Về thủ
tục giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu
cầu chết sẽ được tiến hành theo Khoản 2 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình
2014 và Điều 30, Điều 31 Luật Hộ tịch 2014. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền
giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc
người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp người có yêu cầu chết. Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và xét xử
theo thủ tục tố tụng thông thường. Quyết định của Tòa án về xác định cha,
mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định
của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân, Tòa án nhân
dân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản
kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến Ủy ban nhân dân nơi đã
đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch; trường hợp nơi đăng ký hộ
8


tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ
quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch. Ngay sau khi nhận được thông báo, công
chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi vào Sổ hộ tịch theo bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, theo quy định của pháp luật nói chung và theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 nói riêng có thể xác định cơ bản các trường hợp xác
định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp. Là cơ sở háp lí để các bên có liên quan
thực hiện đúng nghĩa vụ, quyền hạn của mình, là cơ sở phân định quyền hạn,
thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong việc xác định quan hệ cha, mẹ,
con. Cũng từ đó, bảo vệ tối ưu nhất về quyền của các bên liên quan.
III.

Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xác định cha, mẹ, con

theo thủ tục tư pháp ở nước ta thời gian qua
1.
Thực trạng của việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư
pháp trong thời gian qua ở nước ta
Chế định xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 là một chế định tiến bộ, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm lợi
ích của đứa trẻ sinh ra, bảo đảm duy trì hạnh phúc gia đình cũng như cho sự
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xã hội, cuộc sống luôn vận động liên tục và
phức tạp, việc áp dụng các quy định về xác định cha, mẹ, con trong thực tiễn

vì thế mà bộc lộ ra những khúc mắc, hạn chế.
Thứ nhất, là về thời hiệu. Luật hiện hành không quy định thời hiệu đối
với các vụ tranh chấp về quan hệ cha, mẹ, con. Có vẻ như theo người làm
luật, do quan hệ cha, mẹ, con dựa trên sự thật sinh học mà việc ấn định thời
hiệu khởi kiện tranh chấp về quan hệ này là không hợp lý. Tuy nhiên, sự thật
có thể bị thời gian che phủ: đến một lúc nào đó việc dựng lại sự thật về quan
hệ cha, mẹ, con sẽ rất khó khăn (nếu không muốn nói là không thể được).
Làm thế nào để đánh giá chứng cứ cung cấp bởi một tự nhận là con ruột của
vua X? Nếu các đương sự đều đã chết, thì làm thế nào để đánh giá chứng cứ
cung cấp bởi một người tự xưng là con của một người cần phải được công
9


nhận là con của một danh nhân lịch sử của thế kỷ trước? Dẫu sao, nếu người
yêu cầu không có bằng chứng thuyết phục để hỗ trợ cho yêu cầu của mình, thì
Toà án sẽ bác yêu cầu.
Thứ hai, về căn cứ chứng minh. Khác biệt lớn nhất giữa xác định cha,
mẹ, con theo thủ tục tư pháp và thủ tục hành chính là quá trình xác định đó có
xảy ra tranh chấp hay không. Luật quy định khi có tranh chấp trong việc xác
định cha, mẹ, con thì phải có chứng cứ và được toà án chấp nhận. Về chứng
cứ để chứng minh giữa bị đơn và nguyên đơn có quan hệ cha, mẹ, con thì có
rất nhiều song chứng cứ có tính xác thực nhất vẫn là giám định gien tốn kém
rất nhiều chi phí, điều này vượt quá khả năng chứng minh của những nguyên
đơn có khó khăn về tài chính. Những chứng cứ khác như: Thời gian chung
sống với nhau trước khi thụ thai, quan hệ với người thứ ba, dư luận… Những
chứng cứ này chỉ mang tính chất chứng minh gián tiếp, tính thuyết phục
không cao trừ trường hợp người bị kiện thừa nhận. Một vấn đề khác nếu
người bị kiện không còn sống, pháp luật lại không đặt ra việc thừa kế và
quyền và nghĩa vụ tố tụng đối với quyền nhân thân, điều này càng khiến quá
trình chứng minh, xác định cha, mẹ, con gặp khó khăn.

Thứ 3, khó khăn trong việc xác định cha, mẹ, con khi người được xác
định đó đã chết. Khoản 1 Điều 90 và Khoản 1 Điều 91 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 lần đầu tiên quy định về trường hợp này, là một điều khoản
tiến bộ nhưng để thực tế thực hiện rất khó khăn. Ví dụ như trường hợp người
cha đã chế và người con kiện, đòi xác nhận quan hệ cha, con. Trường hợp này
muốn xác định quan hệ thì làm thế nào? Căn cứ nào để chứng minh? Không
thể khai quật mộ người cha vì đó là hành động trái đạo đức xã hội, khó có ai
có thể chấp nhận. Còn cách giám định gien của anh em bị đơn nhưng về phía
anh em bị đơn lại không muốn. Điều này đã gây khó xử cho phiên toà giải
quyết vì không thể giải quyết thoả đáng vụ án.
2.

Giải pháp hoàn thiện trong thời gian tới
10


Mặc dù xác định cha, mẹ, con trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 là một chế định tích cực, có nhiều điểm tiến bộ và có ý nghĩa quan trọng
trong thực tiễn cuộc sống, tuy nhiên, nó vẫn còn tồn tại một vài điểm hạn chế
như đã nêu. Vậy để khắc phục những hạn chế đó, chúng em xin đưa ra một số
giải pháp hoàn thiện hóa như sau:
Thứ nhất, bởi việc đánh giá tính chính xác của các bằng chứng chứng
minh quan hệ cha, mẹ, con đến một thời điểm nào đó sẽ là rất khó khăn: khi
các đương sự đã chết, khi các bằng chứng đều có thể bị thời gian làm phai
mờ... Cho nên, để giới hạn khoảng thời gian khởi kiện tranh chấp quan hệ cha,
me, con, các nhà làm luật nên cân nhắc việc đưa vào đây một điều luật quy
định về thời hiệu khởi kiện để tạo thuận lợi cho cơ quan điều tra cũng như
đảm bảo được tính chính xác, công bằng tối đa.
Thứ hai, luật quy định khi có tranh chấp trong việc xác định cha, mẹ,
con thì phải có chứng cứ và được Tòa án chấp nhận, tuy nhiên, lại chưa có dự

liệu về chứng cứ đó như thế nào? Vì vậy, luật Hôn nhân và gia đình 2014 và
các văn bản liên quan cần bổ sung những quy định cụ thể về chứng cứ nhằm
xác định cha, mẹ, con chính xác và khách quan.
Thứ ba, đối với khoản 1 điều 90 và khoản 1 điều 91, cần có văn bản
hướng dẫn thi hành một cách cụ thể xác định căn cứ chứng minh quan hệ cha,
mẹ, con khi một trong ba đối tượng này đã chết.
Thứ tư, cần tuyên truyền, giáo dục cho người dân về thủ tục xác định
cha, mẹ, con nhằm giúp họ tự chủ trong việc quyết định nhận cha, mẹ, con
của mình cũng như giúp họ có cái nhìn tích cực hơn. Thực tế, những người có
con ngoài giá thú thường rất ngại làm thủ tục nhận con vì sợ điều tiếng xã hội.
Vì thế, khi làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con thì Tòa án cần thụ lý giải
quyết nhanh gọn, hợp tình hợp lí, tránh rườm rà, thậm chí giữ bí mật thông tin
cá nhân cho các bên để đảm bảo lợi ích cho họ.
C.

KẾT LUẬN
11


Như vậy, thông qua việc nghiên cứu và tìm hiểu những quy định của
pháp luât Việt Nam hiện hành nói chung và Luật hôn nhân gia đình 2014 nói
riêng về việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp giúp cho chúng ta có
cái nhìn tổng quan về bản chất pháp lí, điều kiện áp dụng cũng như các trường
hợp áp dụng thủ tục tư pháp để xác định cha, mẹ, con. Có ý nghĩa là cơ sở
pháp lí để tiến hành tư vấn, giải quyết các vụ việc dân sự xảy ra trong thực tế.
Bên cạnh đó, có những đánh giá khách quan về những thành tựu cũng như
những bất cập, vướng mắc trong các quy định về xác định cha, mẹ, con theo
thủ tục tư pháp để có những định hướng hoàn thiện trong tương lai.

12




×