Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tang ma của người mường di cư ở xã hòa thắng, thành phố buôn ma thuột, tỉnh đắk lắk (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.72 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Bạch Mỹ Trinh

TANG MA CỦA NGƢỜI MƢỜNG DI CƢ Ở XÃ HÕA THẮNG
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: NHÂN HỌC
Mã số: 62 31 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

1- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
2- PGS.TS. Bùi Văn Đạo

Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Quang Hoan
Phản biện 2: PGS. TS. Khổng Diễn
Phản biện 3: TS. Hoàng Hữu Bình

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện


họp tại …………………………………………………………
Vào hồi……….giờ………phút, ngày...…tháng…….năm….…

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thƣ viện Quốc gia
- Thƣ viện Học viện Khoa học Xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Bạch Mỹ Trinh, Nghi thức tang ma của người Mường di cư ở xã
Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 374, 2015.
2. Bạch Mỹ Trinh, Vai trò của Mỡi trong đời sống tinh thần người
Mường Hòa Bình, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 373, 2015.
3. Bạch Mỹ Trinh, Các biểu tượng trong tang ma của người Mường
ở xã Hòa thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Tạp chí Văn hóa
Nghệ thuật, số 389, 2016.


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của luận án
Người Mường hiện có 1.268.963 người, cư trú đông nhất ở các tỉnh
Hòa Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa, Sơn La, Ninh Bình. Ngoài ra còn một bộ
phận người Mường sinh sống tại các tỉnh, thành phố ở phía nam của đất
nước, trong đó có Tây Nguyên.
Tỉnh Đắk Lắk là nơi tập trung đông nhất người Mường di cư từ phía
bắc vào Tây Nguyên. Theo Kết quả điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009, dân số của người Mường ở Tây Nguyên là 35.544 người, trong đó
Đắk Lắk có 15.510 người, riêng Thành phố Buôn Ma Thuột là 4.700 người.
Xã Hòa Thắng và xã Ea Kao là hai xã có số lượng người Mường sinh sống

đông nhất tại tỉnh Đắk Lắk, xã Ea Kao là 2.467 người, xã Hòa Thắng là
2.233 người. Dù trải qua thời gian dài thích nghi, tồn tại, giao lưu tiếp biến
với nhiều nền văn hóa, nhiều tộc người khác trên mảnh đất Tây Nguyên,
nhưng người Mường ở Đắk Lắk hiện nay còn bảo lưu được nhiều nét văn
hóa truyền thống của người Mường ở quê cũ.
Tang ma là sự kiện quan trọng trong đời sống tâm linh của bất kỳ một
dân tộc nào. Với người Mường, đây là dịp để người sống được tỏ rõ tấm lòng
hiếu nghĩa của mình với người đã chết và tổ tiên dòng tộc. “Nghĩa tử là
nghĩa tận”, xuất phát từ đạo lý sống ấy, người Mường bao đời nay cho rằng:
cuộc tiễn đưa hồn người chết tới thế giới bên kia là một hành trình vất vả,
trên con đường ấy, người sống phải thực hiện những nghi thức bắt buộc để
bảo vệ người chết, dẫn “hồn” người chết tới nơi an nghỉ cuối cùng. Chính từ
ý nghĩa này tang ma của người Mường không chỉ mang nặng yếu tố tâm linh
mà còn chứa đựng nhiều giá trị xã hội, lịch sử, nghệ thuật… sâu sắc như
những áng Mo dẫn đường cho người chết, những trò diễn, điệu múa tang ma
với nhiều cung bậc cảm xúc giúp người chết ra đi thanh thản ...
Trong bối cảnh chung hiện nay, khi các giá trị văn hóa truyền thống
của các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và người Mường ở Tây Nguyên nói
riêng đang đứng trước những biến đổi to lớn và có nguy cơ mai một nhanh
chóng. Nghi lễ tang ma của người Mường cũng đang đứng trước những
thách thức đó. Việc tìm hiểu nghi thức tang ma và những biến đổi của người
Mường ở xã Hòa Thắng sẽ góp phần bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị
văn hóa các dân tộc Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 Khóa
VIII năm 1998 và Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương (Khóa XI)
1


năm 2014 về xây dựng và bảo tồn văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Do vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tang ma của người Mường di

cư ở xã Hòa Thắng, Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk ” làm
luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học với mong muốn từ kết quả nghiên
cứu một trường hợp điển hình ở Tây Nguyên, sẽ đóng góp nguồn tư liệu
cần thiết không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong
bối cảnh đời sống văn hóa của các tộc người Tây Nguyên đã và đang có
nhiều biến đổi.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
- Nghiên cứu nghi thức tang ma truyền thống và biến đổi, đồng thời phân
tích, giải mã một số biểu tượng trong tang ma của người Mường ở xã Hòa Thắng,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- So sánh nghi thức tang ma của người Mường di cư ở xã Hòa Thắng
với nghi thức tang ma của người Mường ở quê cũ.
- Chỉ ra các yếu tố tác động đến sự biến đổi hoặc không biến đổi
trong nghi thức tang ma của người Mường ở xã Hòa Thắng, thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu tổng quan một số vấn đề về khái niệm, lý thuyết và
phương pháp nghiên cứu phong tục tang ma trong luận án.
- Chỉ rõ những đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội của người Mường di cư
ở xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Hệ thống và phân tích các biểu tượng trong tang ma của người
Mường ở xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Nghiên cứu thực trạng tang ma của người Mường ở xã Hòa Thắng
(nơi di cư) trong đối sánh với tang ma của người Mường ở Hòa Bình (nơi
xuất cư).
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tang ma của người Mường di cư
ở xã Hòa Thắng thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk từ truyền thống đến
biến đổi.

Phạm vi nghiên cứu của luận án là tang ma của người Mường ở xã
Hòa Thắng từ năm 1954, thời điểm người Mường bắt đầu di cư vào Tây
Nguyên đến năm 2015.
2


4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Tang ma là một thành tố quan trọng trong chu kỳ đời người, gắn liền
với những quan niệm, tín ngưỡng của tộc người. Vì vậy, trong quá trình
thực hiện luận án, tác giả vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam
làm định hướng nghiên cứu
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, tác giả luận án vận dụng
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành trong nghiên cứu
khoa học xã hội, trong đó phương pháp điền dã Dân tộc học là chủ yếu.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sinh còn kế thừa các tài liệu đã công bố
(sách, tạp chí) và báo cáo đánh giá của Trung ương và địa phương. Đây là
nguồn tư liệu để tác giả tham khảo sử dụng trong quá trình thực hiện luận
án. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh lịch đại, đồng đại
và tham vấn ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu về người
Mường và văn hóa Mường.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Về mặt khoa học:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoạch định chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống của tang ma và những mặt hạn chế không còn phù hợp trong bối
cảnh hiện nay.
- Về mặt thực tiễn:
Luận án góp phần cung cấp thêm những hiểu biết sâu sắc hơn về

người Mường nói chung, và sắc thái địa phương của cộng đồng người
Mường di cư vào Tây Nguyên, nhất là từ sau Đổi mới đến nay. Đặc biệt, luận
án đã chỉ ra những biến đổi trong tang ma của người Mường di cư vào Tây
Nguyên và nêu được những yếu tố tác động đến quá trình biến đổi của nó.
Đánh giá và phân tích hạn chế của tang ma trong bối cảnh đổi mới, phát triển
tộc người ở địa phương hiện nay. Trên cơ sở thực tiễn thu thập được, luận án
lý giải ý nghĩa của những biểu tượng trong tang ma của người Mường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận:
- Về mặt học thuật, luận án giải mã, phân tích các biểu tượng trong
tang ma của người Mường. Bên cạnh đó, cùng với việc sử dụng Thuyết
3


tương đối văn hóa, Thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa và lý thuyết nghi lễ
chuyển tiếp, luận án góp phần nhận diện những đặc điểm của tang ma
người Mường ở Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Từ
đó xác định những yếu tố tính tích cực cần duy trì trong xây dựng nông
thôn mới hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Luận án chỉ ra những yếu tố mới, tác động đến sự biến đổi trong
bối cảnh hiện nay, góp phần đề xuất các chính sách về bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá truyền thống trong tang ma của người Mường.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
án được bố cục như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, khái
quát về người Mường;
Chương 2: Nghi thức tang ma;
Chương 3: Các biểu tượng trong tang ma ;

Chương 4: Tang ma của người Mường ở xã Hòa Thắng trong so sánh
với người Mường ở Hòa Bình và những vấn đề đặt ra.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI MƢỜNG
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về tang ma Mường của các học giả nước ngoài
Các công trình nghiên cứu về người Mường hiện có hơn một nghìn
đầu sách, tạp chí, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ và các báo cáo khoa học
ở nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ, lịch sử tộc người, hoạt động
kinh tế, văn hóa, tri thức địa phương... Những công trình nghiên cứu của
các học giả nước ngoài về người Mường đã gợi mở cho các nhà dân tộc học
và nhân học Việt Nam tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển. Đây là
những nguồn tư liệu tham khảo rất có giá trị, phản ánh rõ nét, chân thực
một giai đoạn lịch sử của người Mường.
1.1.2. Nghiên cứu về tang ma Mường của các học giả trong nước
Người Mường là một trong số ít các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu hiện nay. Từ các
nghiên cứu mang tính mở đường của cố giáo sư Từ Chi, đến những nghiên
4


cứu chuyên sâu của các nhà nghiên cứu: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thanh,
PGS.TS Nguyễn Thị Song Hà, Đặng Văn Lung, Bùi Thiện, Bùi Văn Nợi,
Bùi Thị Kim Phúc, Bùi Huy Vọng… đã đề cập đến người Mường một cách
chân thực, phong phú qua nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn ngữ, lịch sử
tộc người, hoạt động kinh tế, văn hóa, tri thức địa phương... Tuy nhiên
những công trình này phần lớn chưa chuyên sâu về tang ma của người
Mường di cư vào Tây Nguyên, cũng như có sự sự giải mã, phân tích sâu
các biểu tượng tang ma hay so sánh về người Mường ở hai vùng đất này.

Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây,
luận án đã tìm một hướng đi mới cho đề tài, đó là tiếp cận nghi thức tang
ma của người Mường ở Tây Nguyên dưới góc độ nhân học, đồng thời chỉ
ra những yếu tố biến đổi và không biến đổi, đặc biệt là bước đầu giải mã
các biểu tượng và tìm hiểu vai trò của thầy mo trong tang ma của người
Mường di cư ở Tây Nguyên. Qua đó có những nhìn nhận khách quan về vai
trò của tang ma trong đời sống tinh thần của người Mường hiện nay ở Hòa
Bình (nơi xuất cư) nói chung và Tây Nguyên (nơi định cư mới) nói riêng.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm
Luận án làm rõ những khái niệm cơ bản sau: Tang lễ, Tang ma, ma
chay, Văn hóa truyền thống; Nghi lễ; Kiêng kỵ; Di cư; Biến đổi xã hội;
Thuật ngữ biểu tượng. Các thuật ngữ này có mối quan hệ khá chặt chẽ với
nhau và với chủ đề nghiên cứu của luận án này. Tùy từng thuật ngữ, tác giả
luận án có những trích dẫn định nghĩa của các nhà khoa học đi trước, hoặc
từ các từ điển của ngành Nhân học hoặc từ điển tiếng Việt, từ đó, nêu chính
kiến của tác giả về những thuật ngữ ấy.
1.2. 2. Cơ sở lý thuyết
Luận án đã áp dụng những lý thuyết sau: thuyết tương đối văn
hóa, thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa, lý thuyết Nghi lễ chuyển tiếp.
Trong đó, Với lý thuyết tương đối văn hóa và giao lưu, tiếp biến văn hóa
luận án sẽ có cái nhìn khách quan khi so sánh, phân tích, đối chiếu nghi lễ
tang ma của người Mường ở xã Hòa Thắng với người Mường Hòa Bình, từ
đó hi vọng có bức tranh tổng quan về tang ma của người Mường cả ở vùng
quê cũ và vùng đất mới.
Với lý thuyết Nghi lễ chuyển tiếp được sử dụng nhằm luận giải tang
ma Mường, qua cuộc trở về mường ma của hồn người chết qua ba ngưỡng:
cách ly, chuyển tiếp và tái hợp. Bên cạnh đó dựa vào luận giải biến đổi xã
5



hội là một quy luật tự nhiên, luận án sẽ chỉ ra những biến đổi đang diễn ra
trong tang ma của người Mường là quy luật tất yếu, với việc xác định
những giá trị đã biến đổi và những thành tố chưa bị biến đổi, luận án còn
muốn đóng góp những kiến nghị, luận giải để giúp các nhà nghiên cứu, các
nhà hoạt động chính sách có chính sách phù hợp, bảo lưu các giá trị văn
hóa truyền thống độc đáo của người Mường.
1.3. Khái quát về ngƣời Mƣờng
1.3.1. Khái quát về người Mường ở Hòa Bình (nơi xuất cư)
1.3.1.1. Dân cư, dân số
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc của tổ
quốc, có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển tiếp từ đồng bằng lên
miền núi. Phía bắc Hòa Bình giáp tỉnh Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hà
Tây, phía tây giáp tỉnh Sơn La, phía nam giáp tỉnh Ninh Bình, Hà Nam và
Thanh Hóa. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, người Mường ở tỉnh Hòa
Bình có 501.956 người, chiếm gần 64% dân số của tỉnh, họ cư trú xen kẽ
với nhiều dân tộc, trong đó người Kinh có: 207.557 người; người Thái:
31.386 người; người Tày: 23.089 người và người Dao: 15.233 người.
1.3.1.2.Đặc trưng kinh tế
Người Mường ở Hòa Bình đã biết khai thác những thung lũng, đất
thấp để canh tác lúa nước. Canh tác lúa nước đã xuất hiện rất sớm và trở
thành nghề chủ yếu của người dân Hòa Bình. Nơi đây nổi tiếng với bốn
vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm là Mường Bi, Mường Vang, Mường
Thàng và Mường Động.
1.3.1.3. Đặc trưng về xã hội
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thiết chế xã hội điển hình
của người Mường là mối quan hệ khăng khít giữa xóm - mường - nhà lang.
Đơn vị tổ chức này được đặt dưới sự cai quản của nhà lang. Khi miền Bắc
được giải phóng, chế độ nhà lang không còn tồn tại trong xã hội Mường
nữa, tổ chức xã hội của người Mường hiện nay theo cơ cấu làng xã, huyện

tỉnh, xã hội được quản lý bởi hệ thống hành chính thống nhất trên toàn
quốc, có các tổ chức như Hội đồng nhân đân, ủy ban nhân dân...
1.3.1.4. Đặc trưng văn hóa
Nói tới những giá trị văn hóa đặc sắc của người Mường Hòa Bình,
phải kể đến trước hết là mo Mường. Bên cạnh Mo người Mường còn có
Mỡi, Nghệ thuật cồng chiêng...

6


1.3.2. Người Mường ở xã Hòa Thắng (nơi di cư đến)
1.3.2.1.Đôi nét về vị trí địa lý, dân cư, dân số
Hòa Thắng là một xã nằm ở phía đông - nam thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk, nằm dọc hai bên Quốc lộ 27 với chiều dài hơn 4km,
cách trung tâm thành phố 8 km. Phía đông giáp với phường Tân Hòa, xã
Hòa Đông, huyện Krông Pắk. Phía tây giáp xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma
Thuột. Phía nam giáp với xã Ea Tur và xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin. Phía
bắc giáp với phường Tân Lập và Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột
Với dân số toàn xã là 17.919 người; 4.489 hộ, gồm 11 dân tộc cùng
chung sống. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 71,4%, dân tộc Mường chiếm
13,47%, với 2.414 người; dân tộc Ê - đê chiếm 13,5%, các dân tộc khác
chiếm 1,63%.
1.3.2.2. Quá trình chuyển cư
Người Mường di cư vào Tây Nguyên (xã Hòa Thắng, thành phố Buôn
Ma Thuột) theo những thời điểm khác nhau, có thể chia ra hai thời điểm lớn sau:
- Giai đoạn sau năm 1954:
Một bộ phận nhỏ thuộc các dòng họ quý tộc nhà lang Mường đã dẫn
theo toàn bộ gia quyến và người giúp việc trong gia đình vào Tây Nguyên
mở đất, xây dựng cuộc sống mới.
- Giai đoạn sau 1975:

Sau năm 1975 người Mường ở Lạc Sơn di cư tự do vào Tây Nguyên,
họ đến xã Hòa Thắng xây dựng bản làng và định cư ở đó cho đến ngày nay
1.3.2.3. Một số đặc điểm kinh tế
Người Mường ở xã Hòa Thắng sinh sống dọc theo quốc lộ 27, vốn là
tuyến đường trọng điểm của thành phố Buôn Ma Thuột. Việc sinh sống gần
trung tâm thành phố đã tạo cho người Mường ở đây phong cách sống linh
hoạt, nhanh nhẹn, bên cạnh tư duy nông nghiệp truyền thống là một trí tuệ
sắc bén, biết tận dụng vào yếu tố thuận lợi: gần đường - gần chợ để kinh
doanh. Người Mường tại Hòa Thắng không chỉ sinh sống bằng nghề nông
như trồng cây cà phê, cao su, sầu riêng… mà họ còn biết kinh doanh, buôn
bán nhỏ để kiếm thêm thu nhập cho gia đình.
1.3.2.4. Một số nét về xã hội - văn hóa
Trong tổ chức làng xóm của người Mường ở xã Hòa Thắng, đứng
đầu làng không phải là lang đạo (như trước đây) mà là một ông chủ làng
(người có nhiệm vụ kêu gọi toàn dân đoàn kết, đóng góp hay thực hiện
những công việc chung của làng). Nhân vật thứ hai không thể không nhắc
tới là thầy mo trong các nghi lễ vòng đời của người Mường.
7


Nhắc tới các đặc trưng văn hóa truyền thống của người Mường ở xã
Hòa Thắng, không thể không kể tới các nghi lễ như nghi lễ chữa bệnh cho trẻ
em, nghi lễ cưới hỏi...
Người Mường ở Hòa Thắng đã xây dựng một cuộc sống mới, trở
thành một bộ phận dân cư quan trọng trong xã hội và cộng đồng người bản
địa nơi đây. Cho tới nay, những tập quán sinh hoạt truyền thống của người
Mường vẫn được người dân nơi đây lưu giữ và bảo tồn khá nguyên vẹn.
Đặc biệt với các lễ hội truyền thống của người Mường, ở Hòa Thắng hiện
nay vẫn còn lưu giữ khá nguyên vẹn, được tổ chức hàng năm như: lễ Khai hạ
(ngày mồng 7 tháng Giêng hàng năm); lễ Xuống mùa (ngày 15 tháng 3), lễ

Rửa lá lúa (ngày 15 tháng 7) lễ Hạ điền (ngày mồng 3 tháng 3); lễ Thượng
điền (ngày 15 tháng 7); lễ Cơm mới (ngày 15 tháng 10)...
Tiểu kết chƣơng 1
Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, cho thấy các nghiên cứu
về người Mường được thể hiện ở nhiều lĩnh vực của đời sống tộc người và
được công bố dưới dạng sách, bài tạp chí hoặc luận án, luận văn, đây là
nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu sinh tham khảo trong quá trình thực
hiện đề tài luận án của mình. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu chuyên
sâu nào về “Tang ma của người Mường di cư ở xã Hòa Thắng, Thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk”.
Để phân tích về tang ma của người Mường ở xã Hoà Thắng, luận án
vận dụng một số quan điểm của 3 lý thuyết: thuyết tương đối văn hoá, lý
thuyết giao lưu và tiếp biến văn hoá, lý thuyết nghi lễ chuyển đổi. Cụ thể,
luận án vận dụng thuyết tương đối văn hoá; lý thuyết giao lưu và tiếp biến
văn hoá để giải thích các nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của tang ma và
quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa ở cộng đồng người Mường trong bối
cảnh hiện nay. Luận án cũng vận dụng lý thuyết nghi lễ chuyển đổi để nhận
diện các nghi lễ tang ma và ý nghĩa của những nghi lễ đó.
Để có các nhìn tổng quan về người Mường luận án đã trình bày những
nét chính về vị trí địa lý, dân số, dân cư, đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa của
người Mường ở Hoà Bình và người Mường ở xã Hoà Thắng nhằm có cái nhìn
toàn diện về địa bàn và đối tượng nghiên cứu của luận án. Dù ở quê gốc hay
nơi di cư đến, người Mường đều xây dựng cho mình một cuộc sống ấm no,
đầy đủ, và vẫn bảo lưu được bản sắc riêng của dân tộc mình.

8


CHƢƠNG 2
NGHI THỨC TANG MA

2.1. Quan niệm về “hồn vía”, cái chết và thế giới bên kia
2.1.1. Quan niệm về “hồn, vía”
Nhà dân tộc học Từ Chi khi nói về hồn, vía (wại) của người
Mường, cho rằng: người Mường quan niệm người sống có nhiều hồn: bốn
mươi hồn bên phải, năm mươi hồn bên trái (Pộn mươi wại pên đăm, đăm
mươi wại bên chiêu) dù là nam hay nữ, lớn tuổi hay nhỏ tuổi đều có chín
mươi hồn... Bên cạnh phát hiện này còn có một quan điểm khác về hồn,
vía người Mường, đó là quan điểm của Jean Cuisinier - một trong những
nhà khoa học mở đường cho các nghiên cứu về người Mường sau này, bà
cho rằng: mỗi người sống đều có ba hồn, hồn ở đây là hồn chính, ngoài ra
còn thêm bẩy bịa (vía, hay hồn phụ) trường hợp là nam giới, còn nữ giới
thì chín vía.
Trong quan niệm về “hồn”, “vía”, người Mường ở Hòa Thắng cho
rằng: đối với đàn ông thì có bẩy vía, và đàn bà thì có chín vía, họ sợ nhất
khi cơ thể bị lạc mất một vía, bởi khi đó họ không còn là chính mình nữa,
dễ bị ma quỷ sai bảo và làm những việc xấu. Trong trường hợp có người
bị lạc mất vía, người Mường sẽ làm bùa phép để gọi vía còn lại của người
đó quay về với cơ thể.
Người Mường ở đây cũng tin vào sự tồn tại của một thế giới khác - thế
giới của người chết (mường ma) và một cuộc sống khác sau khi con người
chấm dứt cuộc sống ở trần gian. Quá trình đó diễn ra như sau: khi cơ thể con
người chấm dứt nhịp sống sinh học của mình ở trần gian, phần hồn sẽ thoát ra
khỏi xác, trở về mường ma đoàn tụ với tổ tiên, bắt đầu cuộc sống mới.
2.1.2. Quan niệm về cái chết và thế giới bên kia
Theo quan niệm truyền thống của người Mường ở Hòa Thắng, cái chết
chỉ là sự kết thúc một chuyến đi, một cuộc du ngoạn ở trần gian. Sau khi chết
cơ thể con người sẽ chấm dứt nhịp sinh học của mình: ngừng thở, ngừng nói,
ngừng các hoạt động vật chất… nhưng phần linh hồn của người đó vẫn tiếp
tục cuộc hành trình trong một thế giới khác - thế giới mường Ma.
Như vậy, có thể nói người Mường ở Hòa Thắng có cách nhìn riêng

về cuộc sống và cái chết. Chết là quy luật tất yếu của con người, họ đón
nhận chuyện đó một cách bình thản. Với con cháu trong gia đình việc
chuẩn bị cho tang lễ là nghĩa vụ phải thực hiện, còn với người sắp ra đi, đó

9


là một phần của cuộc hành trình trở về đoàn tụ với tổ tiên, theo quy luật
vĩnh hằng của tạo hóa.
Theo Arnold van Gennep trình tự đám tang được phân chia thành ba
giai đoạn trước, trong và sau ngưỡng. Theo lý thuyết nghi lễ chuyển đổi
đám tang của người Mường ở Hòa Thắng diễn ra như sau:
2.2. Nghi thức trƣớc khi phát tang
2.2.1. Chuẩn bị quan tài (khăng)
Ngày nay, do nhiều yếu tố chi phối, với người Mường ở Hòa Thắng
việc chuẩn bị quan tài đã không còn cầu kỳ như trước, họ thường đi mua
quan tài đóng sẵn tại các cửa hàng chuyên về đồ tang lễ.
2.2.2. Báo tang
Báo tang cho họ hàng thân thích: Báo tang là công việc đầu tiên của
đám ma, sau khi người nhà tới thông báo với ông trưởng họ nội và họ
ngoại, ông trưởng họ sẽ tập trung anh em họ tộc để họp họ, cắt bữa, chia
việc.
Báo tang cho hội đình làng: Khi có người mất, gia đình tang chủ
cũng phải đi trình báo quan viên chức sắc trong hội đình làng, thường là
một trong 3 người: ông chủ đình, ông chủ trì hoặc ông cai làng/trùm phe.
Đi mời thầy Mo, thầy Chuốc: Nhân vật không thể thiếu trong đám
tang của người Mường là các thầy Mo, do ông cổ họ nội đích thân đi mời
đón về sau khi đã họp họ, ấn định độ dài của đám tang. Việc mời thầy Mo
nào và mời bao nhiêu thầy còn tùy thuộc vào dòng họ của người chết. Khi
mời thầy Mo, gia đình còn phải mời thêm thầy Chuốc, là người hầu hạ bát

hương người chết và hầu thầy Mo khi hành lễ.
2.2.3. Họp họ, cắt bữa, chia việc
Qua việc họp họ gia đình tang chủ sẽ có sự phân công các việc cụ
thể mà mội thành viên trong gia đình phải đảm nhiệm trong những ngày
diễn ra tang lễ.
Là anh cả trong gia đình và cháu đích tôn của cả họ, người con trai
trưởng phải gánh vác nhiệm vụ quan trọng là tổ chức bữa cơm đi và lo toan
nhiều việc chính trong những ngày diễn ra tang lễ.
2.2.4. Quy định về tang phục
Người Mường có những quy định khác nhau về tang phục tuỳ theo
quan hệ huyết thống, họ hàng, theo dòng họ và theo cái chết. Thông thường,
tang phục có màu trắng, vải tang phục là vải xô do người Mường tự dệt. Con
trai, con gái, con dâu mặc cơ bản giống nhau, gồm: áo dài, quần trắng, khăn
10


thắt ngang đầu để thành hai đuôi. Nếu cha mẹ đều đã chết thì họ thắt hai đuôi
khăn bằng nhau. Con rể không mặc áo dài, khăn chỉ quấn tròn có một đuôi
gọi là khăn dọc, phủ tang ở hai vai. Tang phục hàng cháu chắt cũng có chút
khác biệt. Cháu nội đội mũ rơm, khăn tang thắt đến ngang vai, bên tai có
thêm một miếng vải xẻ làm ba xọc, cháu gái đội mũ mấn. Cháu ngoại quấn
khăn tròn, phủ tang hai vai. Chắt nội thắt khăn ngang, có điểm đỏ ở giữa trán,
còn khăn vàng không có điểm đỏ là chắt ngoại.
2.3. Các nghi thức từ khi phát tang đến lúc cử hành chôn cất
ngƣời quá cố
2.3.1. Khâm liệm
Khi bắt đầu khâm liệm, người ta đặt thi hài người chết nằm trên
giường hoặc trên sập, đắp chăn và phủ lên mặt người chết một chiếc khăn.
Chiếc khăn che mặt cũng được chia ra làm nhiều loại phụ thuộc vào dòng
họ của người chết. Theo phong tục, các dòng họ quý tộc (Đinh, Quách,

Bạch, Hà…) che khăn gấm đỏ, các dòng họ bình dân nhưng có chức sắc
trong làng xã thì che khăn gấm màu vàng, còn lại che khăn trắng. Thi hài
nằm với tư thế hai tay bỏ lên bụng hoặc ngực, hai ngón tay cái và hai ngón
chân cái buộc vào nhau bằng một dây vải gọi là dây ban chân, ban tay.
2.3.2. Lễ cúng thắt nghỉ
Người Mường quan niệm rằng khi con người vừa chết đi, hồn và xác
vẫn chưa gặp được nhau nên cần phải thực hiện lễ thắt nghỉ để dẫn hồn về
với xác, không bị hồn tan phách lạc.
2.3.3. Lễ quét khăng
Trong lễ quét khăng, thầy làm phép bằng cây riềng vừa lấy ở rừng về,
hành động như sau: Thầy Mo đặt cây riềng (có cả củ, cả rễ và lá) vào trong
quan tài, đọc bài mo kể chuyện cái cây làm quan tài mọc ở đâu, lớn như thế
nào, chết như thế nào, tại sao phải như thế. Cây lớn như thế thì dứt khoát là cây
cả bóng to ở rừng già, dứt khoát nó phải có ma có quỷ. Thầy tước cây riềng,
cầm quét đi, quét lại trong lòng quan tài rồi ném ra ngoài cửa sổ, ý là đã mời
(đuổi) ma quỷ ra ngoài, sau đó cầm quạt gọi vía người sống (vía của con cháu,
những người đi đục đi đẽo làm nên quan tài vì mến cái cây mà còn ở lại) ra
ngoài nốt, cuối cùng mới đưa vía người chết vào trong.
2.3.4. Lập bàn thờ người chết và nghi thức con trai trưởng
Sau khi nhập quan xong, khi thực hiện phát tang, người nhà tiến
hành dựng bàn thờ hồn người chết, tiếng Mường gọi là bàn hương, chường
thờ, hay là “trường nhường ăn nhường uống”. Vị trí đặt bàn thờ nằm ngang
11


trên đầu quan tài sát vách nhà, cạnh mé ngoài cửa sổ gian giữa nhà, trong
tiếng mường cửa sổ này được gọi là “boóng tôông”. Khi phát tang, đợi
người thân trong nhà mặc quần áo tang xong, con trai cả đeo bắp dao đi lên
cửa sổ gian đặt bàn thờ tổ tiên, rút dao chặt ba nhát lên thành của như để
nói rằng người thay mặt gia đình thờ cúng tổ tiên nay không còn nữa, công

việc đó từ nay do con trai cả đảm nhận.
2.3.5. Lễ kẹ
Lễ kẹ được tiến hành ngay dưới sân nhà tang chủ, lễ thức đơn giản chỉ
với hai mâm cúng, mỗi mâm đặt trên một giá bằng tre cao ngang ngực người.
Ý nghĩa của lễ kẹ là để chữa bệnh cho người chết, để người chết về thế giới
mường ma hoàn toàn khỏe mạnh, không mang bệnh tật như lúc còn sống.
2.3.6. Các đêm mo
Đám hiếu (đám ma) của người Mường là điểm hội tụ văn hoá, là nơi
lưu giữ những nét văn hoá truyền thống hết sức tiêu biểu, trong đó, các đêm
mo chính là phần đặc sắc nhất. Đối với người Mường ở xã Hòa Thắng, nghi
thức tang ma hiện nay cơ bản được tổ chức theo nếp sống mới, thời gian tổ
chức thông thường rút ngắn lại còn bốn ngày ba đêm như sau:
Đêm thứ nhất: mo kể chuyện sử thi Đẻ đất đẻ nước;
Đêm thứ hai: mo nhìn họ, dẫn linh hồn người quá cố đi nhận họ
hàng, huyệt mộ;
Đêm thứ ba: mo lên Trời hoặc mo kể chuyện sự tích bánh chưng
bánh giầy.
2.3.7. Múa quạt ma
Múa quạt là một trong những nghi lễ độc đáo nhất trong tang ma của
người Mường, múa quạt được múa trong lễ dâng ăn uống, khi kể chuyện
“Vườn hoa núi cối” hay trong phần tế ngoài trời, lễ rước nhà xe. Người
thực hiện điệu múa này là toàn bộ hàng dâu trong gia đình, trừ vợ (nếu
người chết là đàn ông) và các bà dâu là bề trên của người chết (chẳng hạn
em dâu phải múa quạt nhưng chị dâu thì không). Đội hình múa được sắp
xếp theo thứ tự từ em dâu, con dâu đến cháu dâu, và từ dâu cả đến dâu út,
cứ theo vị trí cao thấp mà đứng quạt.
2.3.8. Lễ viếng
Kể từ lúc phát tang, gia quyến, dòng họ nội ngoại của người chết sẽ
làm công việc đón tiếp người đến phúng viếng với tư cách cá nhân hoặc tổ
chức. Nếu đi viếng thành đoàn thì có cỗ chầu, gia đình đón nhận, cúng

xong là mời đoàn ở lại dùng bữa cơm hiếu cùng gia đình. Người Mường ở
12


Hòa Thắng không có quy định về trình tự người đến viếng, tuy vậy, họ đặc
biệt lưu ý đến đoàn viếng của sưu gia, thông gia và đoàn viếng của hội đình
làng khác.
2.3.9. Chọn đất và đào huyệt
Chọn khu chôn cất là công việc hệ trọng của thầy Mo. Dù người
Mường ở Hòa Thắng hiện nay thường đem quan tài ra nghĩa trang chôn
nhưng việc chôn ở đâu vẫn được phân chia rõ ràng theo khu vực của từng
dòng họ, chi nhánh.
Để biết giờ chôn cất và hướng chôn khi đào huyệt, thầy Mo sẽ xem
tuổi người chết để biết nên đặt người chết ở hướng nào, cung gì. Khi chôn
sẽ chôn vào khung giờ nhất định thường là hai khung giờ sinh phước đức
hoặc sinh phú quý.
Việc đào huyệt không cần phải xem giờ, chỉ xin thổ thần, thổ địa rồi
tiến hành công việc. Người Mường ở Hòa Thắng rất kiêng kỵ việc đào
huyệt trước, chỉ khi có người chết thì họ mới đào huyệt và phải làm trước
lúc di quan.
2.3.10. Di quan
Sau khi dùng bữa cơm đi (bàn tất bất việc), thầy Mo thay bát nước,
đĩa trầu quả cau, một chai rượu trên bàn thờ người chết và làm lễ nhập hồn
(năm vong - năm pao troong cay) cho người đã khuất để mời hồn từ trên
bàn thờ về nhập lại với xác rồi mới động quan. Thầy Mo đọc lời khấn thỉnh
mời vong quay lại quan tài để tránh việc hồn một nơi, xác một nước. Sau
khi đã mời được vong về nhập với xác, người nhà mới được phép di quan.
2.3.11. Lễ hạ huyệt
Khi đến khu nghĩa địa, đoàn đưa quan tạm dừng lại. Người nhà sẽ
chờ thầy Mo đi ba vòng bốc đất niệm chú thả vào huyệt để yểm bùa, trừ tà,

sau đó mới đưa quan tài xuống huyệt để chôn cất.
2.4. Nghi thức sau khi đƣa tang
2.4.1. Lễ mở cửa mả
Sau khi chôn người chết được ba ngày, thầy Mo sẽ làm lễ mở cửa mả
ngay trên khu mộ.
2.4.2. Lễ chia của
Khi đã làm lễ mở cửa mả xong, từ mộ gia đình tang chủ mời vong
quay về, làm lễ chia của.
2.4.3. Lễ mát nhà

13


Lễ mát nhà có ý nghĩa như lễ tẩy uế sau đám tang. Người Mường thực
hành lễ này để rửa sạch những hồn trâu, bò, gà, vịt... chết trong quá trình làm
bữa cúng, và rửa sạch cái hơi người chết còn phảng phất trong nhà.
2.4.4. Lễ vía lại
Lễ vía lại (vái lại) thật ra nằm ngoài lệ của đám tang, là lễ cảm ơn họ
hàng tổ tiên đã giúp đỡ gia đình tang chủ trong lúc đau thương mất mát, cùng
gánh vác nỗi đau quá lớn về tinh thần và vật chất với gia đình tang chủ.
2.4.5. Làm nhà mồ
Theo đúng phong tục truyền thống của người Mường, khi mộ đã
được đắp xong, sau ba ngày cho phơi nắng, phơi mưa thì mới úp nhà mồ
lên. Nhà mồ của người Mường ở Hòa Thắng không cầu kỳ. Hiện nay,
người Mường ở Hòa Thắng không còn đợi ba ngày nữa, nhà mồ được làm
ngay khi người quá cố được chôn xuống huyệt mộ
2.4.6. Tổ chức giỗ cho người chết
Người Mường không lấy ngày mất của người chết làm ngày giỗ hàng
năm như người Việt, thay vào đó, họ lấy ngày giỗ là ngày đưa quan xuống
huyệt. Phong tục đó xuất phát từ niềm tin cho rằng linh hồn những người

chết của dòng họ ba đời trước đó đều tập trung trong ngày chôn cất người
chết. Ngày giỗ vì thế là ngày tưởng nhớ tới tổ tiên của cả gia đình lớn.
Người Mường có tổ chức lễ cúng cho người đã khuất như 10 ngày, một
tháng, 49 ngày và 100 ngày, ngoài ra còn có giỗ 1 năm và giỗ 27 tháng.
2.4.7. Để tang và kiêng kỵ
Việc để tang cho người đã khuất cũng là một hành động để người
còn sống, người trong họ tộc bày tỏ tấm lòng kính trọng với người đã khuất
nên hình thức để tang và những kiêng kỵ sau tang ma là một trong những
việc làm vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện của con cháu,
họ tộc với người đã mất.
2.5. Vai trò của thầy Mo trong đám tang
Thầy mo có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người
Mường ở Hòa Thắng. Với nghi thức tang ma, thầy mo còn là người trực
tiếp đứng ra lo liệu, cắt việc trong đám tang, từ các nghi thức ban đầu như
phát tang, nhập quan, khâm liệm, chia của, lễ làm mát…tất cả đều phải
nghe theo sự phân việc của thầy mo
2.6. Vai trò của anh em, họ hàng với gia chủ trong tang ma
Khi có chuyện mất mát, đau thương không may xảy ra, người Mường
sẽ cùng nhau tương trợ, chia sẻ, vượt qua hoàn cảnh tang tóc bằng cách cùng
14


giúp đỡ nhau về tinh thần, tài chính và nhân lực. Đây cũng là cơ hội để người
Mường sum họp, củng cố tính cố kết cộng đồng của dòng họ mình.
2.7. Vai trò của cộng đồng trong tang ma
Đã thành tục lệ nhiều đời, người Mường khi có việc tang lễ thường
huy động ít nhất mỗi gia đình một người đến giúp tang chủ, ngoài ra, mỗi
gia đình phải đóng góp cho tang chủ 150.000đ và 02 kg gạo, với những
trường hợp là trẻ em chết trẻ từ 8 - 13 tuổi thì được nhận 50% định mức
trên, tức là 75.000đ và 01 kg gạo.

2.8. Các trường hợp tang ma đặc biệt
Với những cái chết không bình thường, tức không phải là chết cho
già yếu, người Mường ở Hòa Thắng có những thực hành tang ma khác
nhau cho từng cái chết.
2.9. Đám tang của người Mường theo Phật giáo, Công giáo
Tại Hòa Thắng hiện nay có một bộ phận nhỏ người Mường theo Phật
giáo, Công giáo. Tang lễ của những gia đình theo đạo có những điểm khác
biệt so với tang lễ truyền thống của người Mường.
Tiểu kết chƣơng 2
Tang ma là một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần người
Mường, qua tang ma người Mường thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó,
đoàn kết cùng cộng cảm giúp đỡ lẫn nhau của cả một cộng đồng với gia
đình tang chủ. Trong phạm vi gia đình, tang ma là cơ hội để các thành viên
trong gia đình, con cháu họ hàng cùng san sẻ nỗi đau, cùng thể hiện tấm
lòng hiếu nghĩa với người đã khuất và thực hiện các nghĩa vụ của mình.
Đối với xã hội, cộng đồng tang ma còn là cơ hội để toàn thể đồng
tộc, họ hàng làng xóm xum tụ lại với nhau cùng vượt qua nỗi đau, tiến về
phía trước. Cùng với những nghi thức cầu kì của tang lễ, các giá trị văn hóa
độc đáo của người Mường đã và đang đươc bảo lưu một cách nguyên vẹn
qua các thế hệ người Mường tại xã Hòa Thắng.
Là một thành phần không thể thiếu của văn hóa truyền thống người
Mường cũng như trong tang ma, các thầy mo không chỉ là người trực tiếp
thực hành các nghi lễ, làm sống lại các nghi thức truyền thống này mà trên
hết, họ còn là những pho từ điển sống vô giá cho các nhà nghiên cứu văn hóa
sau này để khai thác và tìm hiểu về văn hóa truyền thống của người Mường.
Trong vai trò là những người đi khai hoang, mở đường ở vùng đất
mới, người Mường ở Hòa Thắng đã bảo lưu và thích ứng một cách nhanh
15



nhậy với cuộc sống và văn hóa của nơi đất mới. Không bị hòa tan, vẫn giữ
vững những tinh hoa của văn hóa truyền thống dân tộc, bên cạnh sự cạnh
tranh và xâm lấn của các nền văn hóa ngoại lai, văn hóa bản địa, người
Mường nơi đây đã thành công trong việc gìn giữ và phát huy các giá trị đặc
sắc của văn hóa dân tộc. Chính yếu tố này đã giúp cho cộng đồng người
Mường nơi đây có sự cố kết, cộng cảm cao, tạo thành một khối đoàn kết,
vững chắc, phát triển bền vững trong một môi trường sống mới, có nhiều
yếu tố biến đổi và giao lưu mạnh mẽ.
CHƢƠNG 3
CÁC BIỂU TƢỢNG TRONG TANG MA
Đám tang của người Mường ở Hòa Thắng có nhiều biểu tượng, để dễ
phân tích, diễn giải tác giả xin được tạm chia thành các nhóm biểu tượng
chính như sau:
3.1. Các biểu tƣợng trƣớc khi phát tang
3.1.1. Biểu tượng báo nhà có tang
Khi trong nhà có người chết, người Mường sẽ tiến hành các nghi
thức: chống gầm sàn, tháo vách nhà để báo trong nhà đang có tang.
3.1.2. Biểu tượng “thang linh hồn”
Các biểu tượng thang linh hồn trong tang ma của người Mường phải
nói tới: biểu tượng cây tre, Màn ráp - màn rì và Màn Đôộc màn Đôồng.
3.2. Các biểu tƣợng từ khi phát tang đến lúc cử hành chôn cất
ngƣời quá cố
3.2.1. Biểu tượng bắc mả
Sau khi khâm liệm xong, người ta trải chiếu, mắc màn cho thi hài nằm.
3.2.2. Biểu tượng ban (buộc) chân tay cho linh hồn
Ngay khi người chết được đưa vào quan tài người nhà sẽ dùng dây
vải trắng buộc hai ngón chân cái của người quá cố lại với nhau sao cho hai
thành bàn chân úp gần nhau, kéo tay lên bụng thi hài cho buộc hai ngón tay
cái lại với nhau.
3.2.3. Biểu tượng sào quần áo ma

Sào quần áo ma được treo trên quan tài, ở độ cao khoảng 1,5m, cùng
quần áo, váy, khăn… những đồ người chết đã dùng và những đồ mới do
con cháu họ hàng dâng cúng.
3.2.4. Biểu tượng cắt đứt sự sống và chữa bệnh cho hồn

16


Lễ kẹ trong tang ma của người Mường trước hết là để chữa bệnh cho
người chết, để người chết về thế giới mường ma hoàn toàn khỏe mạnh,
không mang bệnh tật như lúc còn sống, thứ hai là để hồn cắt đứt hoàn toàn
sợi dây liên hệ với thế giới người sống.
3.2.5. Biểu tượng chim, hươu và cá
Chim và hươu là hai biểu tượng được nhắc đến nhiều trong các bài mo
tang lễ. Còn hươu và cá là hai biểu tượng quan trọng trong tang ma Mường.
3.2.6. Biểu tượng lễ vật của thông gia
Trong đám tang của người Mường ở Hòa Thắng, phái đoàn thông gia
đến viếng bao giờ cũng đem theo nhiều lễ vật, trong đó thường có: một con
lợn nguyên con, một mâm gạo sống, một mâm bánh nhiều tầng, một phong
bì đựng tiền (thay cho ba viên bạc trắng xưa kia).
3.2.7. Biểu tượng nhà xe
Nhà xe của người Mường rất khác biệt, được chia ra làm nhiều loại
khác nhau tùy thuộc vào dòng họ của người chết.
3.2.8. Biểu tượng đội cầu vải
Đây là nghi thức dành cho các con dâu, con gái, cháu gái trong nhà
tang chủ.
3.3. Các biểu tƣợng sau khi đƣa tang
3.3.1. Biểu tượng nước
Nước gắn bó với cuộc sống con người và là một trong những thành
tố quan trọng nhất tạo nên sự sống. Khi người ta chết, nước cũng là một

trong những thứ thiết yếu được dâng cúng.
3.3.2. Biểu tượng lửa
Trong tang ma Mường, lửa luôn hiện diện và đi theo suốt quá trình
hành lễ từ khi con người trút hơi thở cuối cùng, đến khi về thế giới mường
ma “mồ yên mả đẹp”.
3.3.3. Biểu tượng đá
Đá được người Mường dùng làm hòn mồ, vừa là để đánh dấu nơi
chôn cất người chết, vừa là ranh giới lãnh thổ của ngôi mộ, đồng thời cũng
là hàng rào bảo vệ cho người chết qua bao năm tháng không bị xâm hại,
đặc biệt với thời gian, những hòn đá mộ này còn là minh chứng rõ ràng
nhất về thời gian người chết đã ra đi. Còn với người sống, hòn đá mộ còn
mang ý nghĩa như những vật hiến tế, như bức trướng, vòng hoa của người
thời hiện đại.

17


3.4. Giải mã các biểu tƣợng trong tang ma
Qua một số điểm tương đồng và những khác biệt riêng về vai trò và
ý nghĩa của những biểu tượng quen thuộc trong văn hóa, tín ngưỡng của
một số dân tộc trên thế giới và Việt Nam, có thể thấy việc người Mường sử
dụng các biểu tượng như một thành tố quan trong của tang ma để biểu thị
những tầng ý nghĩa sâu sắc khác nhau. Với người Mường chết không phải
là hết, đó mới là sự chấm dứt một cuộc sống trên trần gian, còn một cuộc
sống khác để tiếp tục, đó là thế giới mường ma, nơi người Mường được
đoàn tụ với tổ tiên, họ hàng, cùng về sinh sống ở mường ma, và phù hộ cho
con cháu trên cõi trần. Để hoàn thành chuyến đi vất vả của hồn, người chết
có nhiều nghi thức: cắt đứt cuộc sống trần gian của hồn, chữa bệnh để hồn
được mạnh khỏe sang thế giới bên kia, chia của cải, đồ dùng cho hồn, tạo
thàng dẫn đưa hồn sang thế giới bên kia, soi sang hồn bằng ánh lửa, cùng

trên cùng đường ấy người nhà còn tiến hành nhiều thủ tục bày tỏ cảm xúc
của mình: tế quạt, mắc màn, treo quần áo…
Tiểu kết chƣơng 3
Nhìn một cách khái quát nghi thức tang ma Mường là một nghi lễ
cầu kỳ của những người sống đối với người đã khuất, ngoài việc tiễn hồn
về mường ma bằng các nghi thức như mo dẫn đường, điệu múa tế hồn, các
mâm cúng… thì các biểu tượng trong tang ma cũng là một nghi thức quan
trọng của người sống dâng lên hồn người đã khuất. Để người đã khuất đoàn
tụ với tổ tiên, người Mường chuẩn bị chu toàn cho cuộc sống ở thế giới bên
kia của hồn bằng những vật dụng cần thiết: nước để uống, thức ăn để ăn,
vật để dẫn đường; làm thang để hồn qua cầu; đồ chơi cho hồn trong lúc giải
lao trên chặng đường dài vất vả… những vật cúng tế này được thể hiện cụ
thể qua các biểu tượng trong tang ma như: thang linh hồn, quả còn, nhà
bông nhà hoa, cây bông cây hoa, nhà xe…
Mỗi biểu tượng được nêu trên đây đều có những vai trò riêng trong
tang ma, cùng với nghi thức tang ma, chúng trở thành những biểu tượng
văn hóa độc đáo không chỉ riêng ở người Mường mà còn góp phần làm
phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam nói chung.
Với 13 biểu tượng giới thiệu trong luận án, tiếp nối những nghiên
cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, cùng với sự luận giải của các thầy mo
và cá nhân, tác giả luận án muốn thông qua việc lý giải những biểu tượng
trên để có cách nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về tang ma của người Mường.
18


CHƢƠNG 4
TANG MA CỦA NGƢỜI MƢỜNG Ở XÃ HÕA THẮNG TRONG SO
SÁNH VỚI NGƢỜI MƢỜNG Ở HÕA BÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
4.1. Những điểm tƣơng đồng và khác biệt
Chương này nghiên cứu sinh chọn so sánh người Mường ở Mường

Vang, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình với người Mường ở Hòa Thắng .
4.1.1. Những điểm tương đồng
4.1.1.1. Trong quan niệm và nhận thức: niềm tin vào sự tồn tại của
thế giới bên kia không thay đổi
Người Mường dù sinh sống ở địa bàn nào cũng vậy (Hòa Thắng hay
Hòa Bình) vẫn giữ vững niềm tin vào một thế giới bên kia, vào sự tồn tại
của các thần linh, niềm tin ấy đã được duy trì từ thế hệ những người lớn
tuổi đến các thế hệ người Mường trẻ sau này.
4.1.1.2. Trong một số nghi lễ của đám ma
Qua sáu điểm đã nêu trong luận án, nghiên cứu sinh đã chỉ ra
những điểm tương đồng trong nghi thức tang ma giữa người Mường ở Hòa
Thắng và Hòa Bình.
4.1.2. Những điểm khác biệt
4.1.2.1. Trong quan niệm và nhận thức
Người Mường ở Hòa Thắng và Hòa Bình ngày nay đều có nhiều thay
đổi trong nhận thức về tang ma và cách tổ chức nghi lễ tang ma.
4.1.2.2. Trong tổ chức, điều hành đám ma
Ở cộng đồng người Mường ở Lạc Sơn, Hòa Bình tang ma không
phải là chuyện riêng của một gia đình, một dòng họ mà là của cả cộng
đồng. Theo sự hướng dẫn của thầy Mo, trưởng xóm là người chịu trách
nhiệm phân công các công việc như: tiếp khách, công tác hậu cần hoặc
bưng bê, làm cỗ… Trong khi đó, ở cộng đồng người Mường xã Hòa Thắng,
tuy sự giúp đỡ của cộng đồng trong đám tang cũng có vai trò rất lớn, quy tụ
được hầu hết các thành viên của xóm làng, dòng họ, nhưng sự giúp đỡ này
không hoàn toàn theo sự chỉ đạo của những “cánh tay nối dài” của chính
quyền địa phương như trưởng xóm, trưởng thôn hay các vị Chủ tịch, Bí thư
đoàn thể..., mà là dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổ chức hội đình - hàng phe.
Quy định về việc lập ra tổ sở tại, trách nhiệm của tổ trưởng, cai làng và việc
quản lý chi tiêu, đóng góp chặt chẽ khiến cho sự tương trợ trong tang ma ở
Hòa Thắng vì thế diễn ra rất quy củ và có tính chất lặp lại; trong khi ở


19


người Mường Lạc Sơn, Hòa Bình, sự tương trợ đã mang tính tự nhiên hơn
và mức độ có sự khác biệt tùy hoàn cảnh.
4.1.2.3. Trong một số nghi lễ của đám ma
Thực hiện nếp sống mới, nghi thức tang ma của người Mường ngày
nay cũng có nhiều thay đổi từ cách tổ chức, các đêm mo, cho đến các nghi
lễ như: tục lăn đường làm cầu cho cha mẹ, việc chôn hòn mồ, việc sử dụng
biểu tượng thang linh hồn, biểu tượng lửa… đều có những khác biệt.
4.1.3. Nguyên nhân của sự khác biệt
Sự khác biệt giữa nghi thức tang ma của người Mường ở Hòa Bình
với người Mường ở Hòa Thắng có nhiều nguyên nhân: nguyên nhân lịch
sử, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự giao thoa văn hóa…
4.2. Những vấn đề đặt ra trong tang ma
4.2.1. Những yếu tố tác động đến nghi thức tang ma hiện nay
4.2.1.1. Tác động từ chính sách của Đảng và Nhà nước
Một trong những nguyên nhân sâu sắc gây biến đổi trong tang ma
hiện nay phải kể tới sự tác động của các chủ trương, chính sách, đường lối
của Đảng và Nhà nước.
4.2.1.2. Tác động từ nền kinh tế thị trường
Cùng với sự phát triển về kinh tế, sự biến đổi về tư duy cũng tác
động tới người Mường hiện đại, Vẫn là quan niệm có thờ có thiêng, có
kiêng có lành, vẫn nhớ ơn tổ tiên dòng họ nhưng niềm tin vào một đáng
siêu linh tối cao không còn như trước nữa, họ có niềm tin, có tín ngưỡng
nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định chứ không tin hoàn toàn một cách
mù quáng.
4.2.1.3. Tác động từ sự giao thoa văn hóa
Qua quá trình tiếp nhận những nền văn hóa mới, người Mường có

cách cách tân, cải tiến nền văn hóa truyền thống của dân tộc để cho phù
hợp với xu hướng của thời đại mà không đánh mất giá trị riêng của mình.
4.2.2. Phát huy giá trị tích cực, giảm bớt yếu tố lỗi thời, tiêu cực
Một số nghi thức nên bảo tồn và giải thích cho người dân cùng hiểu
để giữ gìn, trân trọng vốn quý của văn hóa dân tộc như : đọc mo cho hồn
người chết, còn có thể rút bớt các nội dung và đêm mo theo điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình; Việc múa quạt cho cha mẹ; Việc đội
cầu vải tiễn đưa cha mẹ; Các nghi thức từ lúc người chết tắt hơi thở và
được đưa ra ngoài mộ; Các nghi thức để tang, kiêng kỵ, các lễ chấm dứt

20


tang ma; Các biểu tượng trong tang ma: từ báo tang đến làm cầu, làm nhà
cho hồn sang thế giới mường ma.
Như vậy các phần có thể rút gọn là các đêm mo, chỉ mo những phần
chính, phần cố định, không nên giữ thi hài quá lâu trong nhà, nên rút ngắn
các ngày tổ chức tang lễ như hiện nay là khá phù hợp.
4.2.3. Vấn đề giao lưu tiếp biến văn hóa trong tang ma
Người Mường từ bao đời nay vẫn sống với văn hóa truyền thống của
họ, nhờ văn hóa truyền thống của họ được bảo lưu khá mạnh mẽ mà thanh
niên mường đã tự tạo được bản lĩnh vượt qua những cám dỗ, sa ngã của các
tệ nạn xã hội, cùng đoàn kết chống lại kẻ thù dưới nhiều hình thức, trong đó
nguy hiểm nhất là kẻ thù tư tưởng.
4.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của tang ma
Với Mo tang lễ cần có sự sưu tầm, ghi chép thành văn bản, việc sưu
tầm nghiên cứu này cần làm ngay, cả ghi âm ghi hình, trong đó có ý kiến
diễn giải của các thầy mo và những người thạo tiếng Mường cổ ra tiếng Kinh
(tiếng phổ thông). Với nghi thức tang ma Mường, khi nói về bảo tồn, phát
huy các giá trị trong tang ma Mường ở cuộc sống đương đại thì cần bảo tồn

yếu tố gì? Phát huy cái gì?
Trước hết đó là đạo lý sống: hiếu nghĩa với tổ tiên, cha mẹ; kính trên
nhường dưới của anh chị em trong cùng một dòng tộc; uống nước nhớ
nguồn của con cháu với ông bà, cha mẹ. Chính vì thế bảo tồn nghi thức
tang ma truyền thống không chỉ giúp người mường bảo lưu văn hóa dân
gian độc đáo của dân tộc mình, mà trên hết nó còn là dịp để giáo dục thanh
niên mường có cách sống đúng đắn, đẹp đẽ với cha ông, với dòng tộc.
Tiểu kết chƣơng 4
Tang ma đối với người Mường dù ở vùng đất nào, thời kỳ nào cũng
vậy, đều là một nghi thức quan trọng . Đây là cơ hội để người sống bầy tỏ
tấm lòng với người đã khuất, cũng như thể hiện uy tín, gia thế của dòng tộc,
gia đình tang chủ với cộng đồng làng xóm. Việc tổ chức tang lễ xuất phát
từ quan niệm sống cao đẹp của họ: nghĩa tử là nghĩa tận, con người lúc
sống dù được đối xử như thế nào thì khi trở về thế giới mường ma, họ vẫn
được người thân, cộng đồng mường bản đưa đón bằng những nghi thức
trang trọng nhất, cả về mặt tinh thần lẫn vật chất.
Tang ma của người Mường là một bức tranh tổng hợp trong đó có
nhiều nghi lễ cầu kỳ, phức tạp, đi sâu vào phân tích các điểm giồng và khác
21


nhau của bức tranh tang ma giữa người Mường ở Hòa Thắng và Hòa Bình,
luận án đã chỉ ra những yếu tố biến đổi và không biến đổi trong nghi thức
tang ma của người Mường ở vùng xuất cư và định cư mới.
Hiện nay văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị mai một,
biến mất, nghi thức tang ma truyền thống của người Mường cũng nằm
trong nguy cơ đó. Với việc áp dụng lý thuyết về biến đổi và giao lưu văn
hóa, luận án đã làm rõ những nguy cơ gây biến đổi và tác động đến nghi
thức tang ma của người Mường hiện nay.
Qua đó xác định những biện pháp thích hợp để bảo tồn những nghi lễ

độc đáo trong tang ma của người Mường, cũng như có thái độ đúng đắn trong
việc bảo tồn mo, bảo tồn nền văn hóa truyền thống của dân tộc Mường.
KẾT LUẬN
1. Người Mường hiện cư trú đông nhất ở các tỉnh Hòa Bình, Phú
Thọ, Thanh Hóa, Sơn La, Ninh Bình. Ngoài ra, còn một bộ phận người
Mường sinh sống tại các tỉnh phía nam của đất nước và vùng Tây Nguyên.
Tỉnh Đắk Lắk là nơi tập trung đông nhất người Mường di cư từ phía
Bắc vào Tây Nguyên. Trải qua thời gian dài thích nghi, tồn tại, giao lưu
tiếp biến với nhiều nền văn hóa, nhiều tộc người khác trên mảnh đất Tây
Nguyên, nhưng người Mường ở Hoà Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột
hiện là một trong số ít cộng đồng còn bảo lưu nhiều nét văn hóa truyền
thống của người Mường cổ.
2. Tang ma là sự kiện quan trọng trong đời sống tâm linh của bất kỳ
một dân tộc nào. Với người Mường đây là dịp để người sống được tỏ rõ
tấm lòng hiếu nghĩa của mình với người đã chết và tổ tiên dòng tộc. “Nghĩa
tử là nghĩa tận” xuất phát từ đạo lý sống ấy, người Mường bao đời nay cho
rằng, cuộc tiễn đưa hồn người chết tới thế giới bên kia là một cuộc hành
trình vất vả, trên con đường ấy, người sống phải thực hiện những nghi thức
bắt buộc để bảo vệ người chết, dẫn “hồn” người chết tới nơi an nghỉ an
toàn. Chính từ ý nghĩa này tang ma của người Mường không chỉ mang
nặng yếu tố tâm linh mà còn chứa đựng nhiều giá trị xã hội, lịch sử, nghệ
thuật… sâu sắc như những áng mo dẫn đường cho người chết đi đúng
đường, những trò diễn, điệu múa tang ma với nhiều cung bậc cảm xúc giúp
người chết ra đi thanh thản...
3. Người Mường ở Hoà Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột đã xây
dựng một cuộc sống mới, trở thành một bộ phận dân cư quan trọng trong xã
22



×