Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh THCS trong cộng đồng huyện an dương thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC TRUNG

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CỘNG ĐỒNG HUYỆN AN DƯƠNG,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC TRUNG

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CỘNG ĐỒNG HUYỆN AN DƯƠNG,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành:

Giáo dục và phát triển cộng đồng

Mã số:

Thí điểm


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ NGỌC TÚ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Ngọc Tú người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên cứu đề
tài luận văn tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô trong Khoa Tâm
lý – Giáo dục học, trường ĐHSP Hà Nội, các đồng chỉ cùng công tác tại đơn
vị…., gia đình, bè bạn đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt
quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã dành nhiều thời gian, công sức và cố gắng rất nhiều, nhưng
do khả năng của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học
chưa nhiều nên luận văn tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, kính mong các
thầy, cô góp ý và chỉ bảo để em được tiến bộ và trưởng thành hơn về chuyên
môn cũng như về công tác nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Trung

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


GDTC

:

Giáo dục thể chất

HS

:

Học sinh

NXB

:

Nhà xuất bản

THCS

:

Trung học cơ sở

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người. Người có sức khoẻ thì có

hàng trăm, hàng ngàn ước mơ, còn người không có sức khoẻ chỉ có một ước mơ
duy nhất đó là: Có sức khoẻ. Một tâm hồn lành mạnh, một tư duy sáng suốt chỉ
có thể có ở trong một cơ thể cường tráng, đầy sinh lực. Muốn có một sức khoẻ
tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngoài yếu tố tư chất bẩm sinh, vấn để rèn
luyện để nâng cao sức khoẻ là yếu tố vô cùng quan trọng.
Lí tưởng về phát triển con người toàn diện được Các Mác và Ăng-ghen
xác định rõ nội dung cụ thể và gắn liền nó với thực tiễn đấu tranh cách mạng,
nhằm xây dựng một xã hội mới theo nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Học
thuyết về giáo dục toàn diện của Các Mác và Ăng-ghen được Lênin đi sâu
và phát triển sáng tạo. Đặc biệt, V.I.Lênin quan tâm sâu sắc đến tương lai
của thế hệ trẻ, đến cuộc sống của họ. Người nhấn mạnh: “Thanh niên đặc
biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần có thể thao lành mạnh, thể dục, bơi
lội, tinh thần học tập phân tích, nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các
hoạt động ấy với nhau” [13].
Ngay sau khi cách mạng Tháng tám thành công năm 1945, Đảng và Hồ
Chủ Tịch đã rất quan tâm đến thể dục thể thao, coi đó là một mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh thiếu niên. Ngày
30/01/1946, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nhà Thể dục Trung ương
thuộc Bộ Thanh niên; Nhà Thể dục có nhiệm vụ liên kết chặt chẽ với Bộ Y tế
và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương pháp thể dục Việt Nam và thực hiện
một chương trình thể dục riêng trong toàn quốc, hợp với hoàn cảnh và nền
kinh tế xã hội lúc bấy giờ. Đó là một văn kiện lịch sử về thể dục thể thao rất
quý giá. Ngay sau đó, ngày 27/3/1946 Hồ Chủ Tịch lại ra lời kêu gọi “Toàn
dân tập thể dục”. Trong thư, lần đầu tiên Người chỉ cho nhân dân ta thấy
rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng
3


cần có sức khoẻ mới thành công”. Và Người cũng chỉ rõ muốn có sức khoẻ
thì: “nên tập luyện thể dục” và coi đó là “bổn phận của mỗi người dân yêu

nước”. Tư tưởng của Bác đã, đang và vẫn luôn được cụ thể hoá trong các chỉ
thị và nghị quyết của Đảng, chính phủ về nâng cao chất lượng giáo dục thể
chất (GDTC) cho người dân Việt Nam mà đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ
nhân tương lai của đất nước.
Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại
điều 41 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục
thể thao, quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và
giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục thể thao tự nguyện của nhân
dân, tạo điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục
thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng
các tài năng thể thao”. Chỉ thị 17-CT/TW ngày 23/10/2002 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá IX) nêu rõ: “Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao ở
trường học. Tiến tới bảo đảm mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên
trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng
giáo dục thể chất; xem đây là một tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc
gia”. Luật Thể dục, Thể thao số 77/2006/QH11 được Quốc Hội Nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2006 quy định:
“GDTC là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp
kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và
trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”.
Học sinh Trung học cơ sở (THCS) là những học sinh có độ tuổi từ 1112 đến 14-15 tuổi. Ở giai đoạn này, chiều cao của các em tăng lên một cách
đột ngột, hàng năm có thể tăng từ 5 – 6 cm; trọng lượng cơ thể hàng năm có
thể tăng từ 2,4 – 6 kg; tăng vòng ngực…Đây là những yếu tố đặc biệt trong sự
phát triển thể chất của các em ở lứa tuổi này. Nói cách khác, đây là giai đoạn
vàng trong quá trình phát triển thể chất của mỗi cá nhân.

4


Giáo dục thể chất cho học sinh THCS là quá trình tác động hướng vào

việc hoàn thiện tâm lí và thể lực cho học sinh, nhằm phát triển kĩ năng vận
động cơ thể, tạo nên cuộc sống tâm lí và thể lực lành mạnh và hình thành lối
sống cá nhân có văn hóa. Để có thể nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh
THCS cần có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà trường với cộng đồng.
An Dương là một huyện còn gặp nhiều khó khăn của thành phố Hải
Phòng, kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn… Trong
những năm gần đây, dưới sự quan tâm Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
thành phố Hải Phòng nói chung, huyện An Dương nói riêng, hoạt động GDTC
cho học sinh THCS trên địa bàn huyện ngày càng được đầu tư, phát triển, điều
đó mang lại những tác động tích cực trong quá trình phát triển thể chất của học
sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động GDTC cho
học sinh THCS trên địa bàn huyện còn tồn tại những hạn chế nhất định. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó nguyên nhân cơ bản có
liên quan đến những hạn chế trong việc tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh
THCS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bổ sung lí luận, đánh giá thực trạng và đề
xuất các biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh
THCS trong cộng đồng là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết. Đặc biệt cho đến nay ở
Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về vấn đề này.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tổ chức
hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh Trung học cơ sở trong cộng đồng
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng” để tiến hành nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi đi vào nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài, khảo
sát thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng.
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó đánh giá những ưu điểm,
nhược điểm và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu của hoạt động
này tại địa bàn nghiên cứu.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5



3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng
đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Công táctổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng chưa thực sự đạt hiệu quả. Nếu nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng, trên cơ sở đó đề ra những
biện pháp mang tính khoa học và hợp lý thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và
chất lượng công tác tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng
đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng..
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh
THCS trong cộng đồng.
5.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS
trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
5.3. Đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong
cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu lí luận, thực trạng và biện pháp tổ chức hoạt
động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố
Hải Phòng.
6.2. Về địa bàn nghiên cứu
Huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
6.3. Về khách thể khảo sát
- Tổng số khách thể khảo sát: 240 người
- Cán bộ quản lý: 20 người

6


- Giáo viên: 20 người
- Học sinh: 100 người
- Phụ huyng học sinh: 100 người
6.4.Về thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng phối hợp các
phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích, tổng hợp thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu có
trong các văn kiện, văn bản, tài liệu.
- Hệ thống hóa các khái niệm để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Mô hình hóa lí thuyết.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1.Phương pháp quan sát: Thu thập thông tin bằng việc quan sát
hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành
phố Hải Phòng
7.2.2. Phương pháp điều tra: Xây dựng và sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để thu thập ý kiến của các chuyên gia, cán bộ quản lí, giáo viên (GV), phụ huynh,
HS về thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng.
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn: Trò chuyện, phỏng vấn sâu để thu thập
những ý kiến đánh giá của các chuyên gia, cán bộ quản lí, GV, phụ huynh, HS về
các vấn đề có liên quan đến tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong
cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ của các trường THCS trên địa bàn
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

7.2.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia về các biện pháp tổ chức hoạt
động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố
7


Hải Phòng.
7.2.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
7.2.7. Phương pháp khảo nghiệm.
7.3. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu nghiên cứu.
8. Dự kiến cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận vềtổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS
trong cộng đồng.
Chương 2. Thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong
cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
Chương 3. Biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong
cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng

8


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CÔNG ĐỒNG
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục chuyên môn ở
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng các môn thể

thao trong chương trình nội khóa, ngoại khóa nhằm phát triển thể chất cho
học sinh, có sự đóng góp đáng trân trọng của các tác giả: Nguyễn Duy Quyết
(2012) [31], Mai Thị Thu Hà (2014) [10]... Các công trình nghiên cứu nêu
trên của tác giả đã ứng dụng thử nghiệm thành công chương trình “điền kinh
cho trẻ em” của Hiệp hội các Liên đoàn Điền kinh thế giới và chương trình
ngoại khóa môn thể dục Aerobic trong việc phát triển năng lực thể chất cho
học sinh tiểu học một số tỉnh khu vực phíaBắc.
Ngoài ra khi xem xét đến lĩnh vực nghiên cứu sự phát triển thể chất của
học sinh, các tác giả:
Hoàng Công Dân (2005) [6] đã tiến hành đánh giá được các chỉ số hình
thái, chức năng, tố chất thể lực của học sinh phổ thông dân tộc nội trú phát triển
theo quy luật, đồng thời xây dựng được các biện pháp phù hợp với đặc điểm
nhà trường phổ thông dân tộc nội trú về: môi trường, thời gian, không gian, đặc
điểm tâm lý, nhận thức, tư duy, nhu cầu TDTT và điều kiện đảm bảo; đáp ứng
mục đích, yêu cầu, nội dung đào tạo của nhà trường; hình thành ở học sinh các
năng lực cần thiết trong học tập môn thể dục và đem lại kết quả dương tính cho
sự phát triển thể chất của học sinh.
Tác giả Bùi Quang Hải (2007) [15] đã tiến hành theo dõi sự phát triển
thể chất của học sinh tiểu học (6 - 10 tuổi) bằng phương pháp theo dõi dọc, từ
đó đưa ra các phương thức dự báo sự phát triển thể chất của học sinh trong
những năm tiếp theo.
9


Tác giả Trần Đức Dũng (2010) [7] đã đánh giá được diễn biến quá trình
phát triển thể chất cho học sinh bằng phương pháp theo dõi dọc trong suốt 12
năm (từ 6 đến 17 tuổi - học sinh lớp 1 đến học sinh lớp 12).
Tác giả Nguyễn Ngọc Việt (2011) [40], bằng phương pháp theo dõi
ngang, kết quả nghiên cứu của tác giả cũng đã đánh giá được đặc điểm diễn
biến các chỉ số hình thái, tố chất thể lực của học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp

5, đồng thời xây dựng được nội dung tập luyện TD,TT nội khóa, ngoại khóa
nhằm phát triển tầm vóc, thể lực cho học sinh.
Các tác giả Tạ Hồng Hải (2000) [14], Lương Thị Ánh Ngọc (2011) [27]
nghiên cứu phát triển thể chất, các năng lực thành phần cơ thể cho học sinh
phổ thông lứa tuổi 11 - 14, đã xây dựng được chương trình tập luyện thực
nghiệm ngoại khóa phù hợp với học sinh trung học cơ sở lứa tuổi 11 - 14 và
đánh giá là có tác dụng tích cực đến sự biến đổi về hình thái, chức năng, và
thể lực của nam, nữ học sinhTHCS.
Qua tổng quan nghiên cứu đề tài có thể rút ra một số nhận xét sau:
GDTC cho học sinh THCS nói riêng và học sinh nói chung luôn nhận
được sự quan tâm của các cấp, các ngành, các nhà trường và cộng đồng dân
cư. Đó cũng là vấn đề được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Cho đến nay, số lượng các công trình nghiên cứu về GDTC cho học
sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng khá phong phú, song chủ yếu đề
cập đến phương diện GDTC cho học sinh trong nhà trường, số lượng các
công trình nghiên cứu về tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong
cộng đồng còn ít được quan tâm nghiên cứu.
Theo hiểu biết của nhà nghiên cứu, cho đến nay, chưa có công trình nào
nghiên về “Tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng
huyện An Dương, thành phố Hải Phòng”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Tổ chức, hoạt động và tổ chức hoạt động
* Quan niệm về hoạt động [31;37]
10


Có nhiều quan niệm khác nhau về hoạt động.
- Về phương diện triết học, hoạt động là phương thức tồn tại của con
người trong thế giới.
- Về phương diện sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần

kinh và cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình.
- Về phương diện tâm lí, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa
con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới cả về
phía con người (chủ thể).
* Đặc điểm của hoạt động [31;38]
- Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng: Đối tượng của
hoạt động là cái mà con người tác động vào để thay đổi nó, biến nó thành
sản phẩm hoặc tiếp nhận nó vào não tạo nên một cấu trúc tâm lí mới, năng
lực mới.
- Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể: Hoạt động do chủ thể thực hiện,
chủ thể của hoạt động có thể là một hay nhiều người. Chủ thể luôn thể hiện
tính tích cực hoạt động.
- Hoạt động bao giờ cũng có mục đích: Mục đích hoạt động là làm biến
đổi thế giới và biến đổi bản thân chủ thể. Để đạt được mục đích, con người
phải sử dụng các điều kiện và phương tiện cần thiết.
- Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Khi hoạt động con
người tác động đến khách thể gián tiếp qua h ình ảnh tâm lí trong đầu, gián
tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động, gián tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ.
Chính hình ảnh tâm lí trong đầu, việc sử dụng công cụ lao động, việc sử dụng
ngôn ngữ tạo nên tính gián tiếp của hoạt động.
* Các dạng hoạt động [31;40]
Có nhiều cách phân loại hoạt động.
- Về phương diện cá thể: hoạt động vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp
với hoạt động xã hội.
11


- Về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần), có hai loại hoạt
động, hoạt động thực tiễn -> tạo ra sản phẩm vật chất và hoạt động lí luận ->

tạo ra sản phẩm tinh thần.
Ngoài ra hoạt động còn có thể được phân thành bốn loại, bao gồm: hoạt
động biến đổi: hoạt động nhận thức; hoạt động định hướng giá trị; hoạt động
giao lưu.
* Vai trò của hoạt động đối với sự phát triển tâm lí người [31;40]
Hoạt động là nhân tố trực tiếp giải quyết sự hình thành và phát triển nhân
cách thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa. Thông qua hoạt
động con người lĩnh hội được kinh nghiệm lịch sử - xã hội để hình thành nhân
cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản
chất” vào xã hội “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác,
trong xã hội.
Tuy nhiên, không phải bất cứ hoạt động nào cũng có vai trò tích cực
trong việc hình thành nhân cách cá nhân, mà hoạt động phải được tổ chức
khoa học, phải dựa trên những kinh nghiệm, những tiền đề nhất định và phải
được thúc đẩy bởi những hoạt động cao đẹp. Trong công tác giáo dục, cần chú
ý thay đổi theo hướng làm phong phú nội dung, hình thức, cách thức tổ chức
hoạt động sao cho thực sự lôi cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào hoạt
động đó. Hoạt động của con người luôn mang tính xã hội, tính cộng đồng,
nghĩa là hoạt động luôn đi với giao tiếp; do đó, đương nhiên giao tiếp cũng là
một nhân tố cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách.
1.2.2. Cộng đồng
* Khái niệm
Cộng đồng (community) được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ
thể sống/ cơ quan/ tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với các
khác”. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là
“cơ thể sống”, có sự “tương tác” của các thành viên. Dấu hiệu/ đặc điểm để
phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác có thể là bất cứ cái gì thuộc về
12



con người và xã hội loài người, màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, ngôn ngữ,
nhu cầu, sở thích nghề nghiệp… nhưng cũng có thể là vị trí địa lý của khu vực
(địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như làng xã, quận huyện, quốc
gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính là những ranh giới để phân chia
cộng đồng. Tuy nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm này không chỉ cụ
thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là các loại thực vật,
cũng có thể là các loại động vật, cũng có thể là con người – cộng đồng người.
Cộng đồng là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành
viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết (gia đình, tình
bạn cộng đồng yêu thương) được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người
cảm thấy có tính cội nguồn. Và cộng đồng được xem là một trong những khái
niệm nền tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó mô tả những hình thức quan hệ
và quan niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính toán lợi ích có tính riêng
lẻ và được thỏa thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về
tinh thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu thế về giá trị.
Cộng đồng người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các
cộng đồng sinh vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng có
nhiều tuyến nghĩa khác nhau đồng thời cộng đồng cũng là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: xã hội học, dân tộc học, y học…
Khi nói tới cộng đồng người, người ta thường quy vào những “nhóm xã
hội” có cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm
chung của những thành viên trong cộng đồng.
Nhà xã hội học người Mỹ J. Fichter trong tác phẩm “Những khái
niệm cơ bản của Tâm lí học xã hội” [11] cho rằng cộng đồng bao gồm
bốn yếu tố sau đây:
- Sự tương quan mật thiết giữa các cá nhân (mặt đối mặt).
- Sự liên hệ về mặt xúc cảm, tình cảm giữa các cá nhân trong quá trình
thực hiện vai trò xã hội và các nhiệm vụ được giao.

13



- Sự dâng hiến về mặt tinh thần đối với những giá trị mà tập thể cho
là cao cả.
- Sự đoàn kết, hợp tác giữa cá nhân với người khác và với tập thể.
Theo quan điểm Mác – Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các
cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các
thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác
của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực
cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt
động.
Quan niệm về cộng đồng theo quan điểm Mác – Xít là quan niệm rất
rộng, có tính khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc
trưng chung của nhóm người trong cộng đồng này chính là “điều kiện tồn tại
và hoạt động”, là “lợi ích chung”, là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”. “giá
trị”chung…Thực chất đó là cộng đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Theo từ điển xã hội học của Harper Collins, cộng đồng được hiểu là
mọi phức hợp các quan hệ xã hội được tiến hành trong lĩnh vực kinh cụ thể,
được xác định về mặt địa lý, hàng xóm hay những mối quan hệ mà không hoàn
toàn về mặt cư trú, mà tồn tại ở một cấp độ trừu tượng hơn.
Theo UNESCO: Cộng đồng là một tập hợp người có cùng chung một lợi
ích, cùng làm việc vì một mục đích chung nào đó và cùng sinh sống trong
một khu vực xác định. Những người chỉ sống gần nhau, không có sự tổ chức
lại thì đơn thuần chỉ là sự tập trung của một nhóm các cá nhân và không thực
hiện các chức năng như một thể thống nhất.
Tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là một danh từ chung chỉ tập
hợp người nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan trọng: 1/ họ cùng tương tác
với nhau; 2/ họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với nhau) một hoặc một vài
đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó.

* Phân loại cộng đồng
14


Tùy theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại cộng đồng theo
những dấu hiệu khác nhau. Trong một số tài liệu, người ta lại chia cộng đồng
theo 2 nhóm như sau [22]:
- Nhóm cộng đồng theo địa vực: thôn xóm, làng bản, khu dân cư,
phường xã, quận huyện, thị xã, thành phố, khu vực, châu thổ cho đến cả quả
địa cầu của chúng ta. Ở nước ta, ở quy mô tỉnh, thành phố thì chúng ta có 63
tỉnh, thành phố, theo quy mô xã phường thì chúng ta có trên chục ngàn xã,
phường, ở quy mô thôn xóm, khu dân cư (nhỏ hơn xã phường) thì chúng ta có
hàng trăm ngàn cộng đồng.
- Nhóm cộng đồng theo nền văn hóa: nhóm này bao gồm: cộng đồng
theo hệ tư tưởng, văn hóa, tiểu văn hóa, đa sắc tộc, dân tộc thiểu số… Nhóm
này cũng có thể bao gồm cả cộng đồng theo nhu cầu và bản sắc như cộng
đồng người khuyết tật, cộng đồng người cao tuổi.
- Nhóm cộng đồng theo tổ chức: được phân loại từ các tổ chức không
chính thức như tổ chức gia đình, dòng tộc, hội hè cho đến những tổ chức
chính thức chặt chẽ hơn như các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị, tổ
chức hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, xã
hội… từ phạm vi nhỏ ở một đơn vị hoặc trong phạm vi quốc gia cho đến
phạm vi quốc tế.
Cũng có thể phân loại cộng đồng theo đặc điểm khác biệt về kinh tế xã hội:
- Cộng đồng khu vực đô thị.
- Cộng đồng nông thôn.
Trong bối cảnh Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một chỉnh thể thống
nhất bao gồm những người dân (dân cư) sinh sống trong đơn vị hành chính cơ
sở: xã (địa bàn nông thôn), phường (địa bàn thành thị) hay đơn vị hành chính
dưới xã, phường, đó là thôn/ làng, bản (địa bàn nông thôn/ nông thôn miền

núi) và tổ dân cư/ khu dân cư (địa bàn thành thị) cùng với hệ thống các đoàn
thể, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề nghiệp… mà
15


những người dân đó là thành viên dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí
của Nhà nước.
Như vậy, cộng đồng là một đơn vị hành chính, kinh tế - xã hội có tính
độc lập tương đối so với các cộng đồng khác trong một quốc gia. Trong mỗi
cộng đồng có các thành viên cộng đồng là các cá nhân hoặc gia đình đang
sinh sống trên địa bàn, có những tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức xã hội
mà các thành viên cộng đồng tham gia sinh hoạt trên địa bàn dân cư, các tổ
chức kinh tế, dịch vụ mà thành viên cộng đồng tham gia làm việc (cũng có thể
thành viên không làm việc ở đó).
Ở Việt Nam ngày nay, các tổ chức chính trị - xã hội đó có thể là các tổ
chức trong khối Mặt trận tổ quốc xã phường: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh phường/ xã; Hội/ Chi hội Phụ nữ; Hội/ chi hội người cao tuổi; Hội/
chi hội Cựu chiến binh; Hội nông dân (đối với địa bàn nông thôn); tổ chức tôn
giáo (nếu có)… Tổ chức chính quyền: Ủy ban nhân dân; Hội đồng nhân dân;
một số tổ chức kinh tế địa phương: Hợp tác xã nông nghiệp; Hợp tác xã thủ
công, Doanh nghiệp… Các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn có Trạm Y tế xã/
phường; bệnh viện, trường học; tổ chức Đảng, chi bộ Đảng.
1.2.2. Giáo dục và giáo dục thể chất
1.2.1. Giáo dục
Giáo dục theo từ tiếng Hán thì giáo nghĩa là dạy, là rèn luyện về đường
tinh thần nhằm phát triển tri thức và huấn luyện tình cảm đạo đức, dục là
nuôi, là săn sóc về mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự rèn luyện con người
về cả ba phương diện trị tuệ, tình cảm và thể chất. Theo phương Tây thì
education vốn xuất phát từ chữ educare của tiếng La tinh. Động từ educare là
dắt dẫn, hướng dẫn để làm phát khởi ra những khả năng tiền tàng. Sự dắt dẫn

này nhằm đưa con người từ không biết đến biết, từ xấu đến tốt, từ thấp kém
đến cao thượng, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh “Giáo dục là quá trình tác động có
mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa
16


học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục
nhằm hình thành nhân cách cho họ” [30].
Theo tác giả Nguyễn Lân “Giáo dục là một quá trình có ý thức có mục
đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu tranh và
sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể có đầy
đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã hội” [18].
Theo tác giả Nguyễn Sinh Huy “Giáo dục là sự hình thành có mục đích
và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành
thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa
rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu
tố khác tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng
yêu cầu của kinh tế xã hội” [17].
Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy:
Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một
cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa
người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những
kinh nghiệm xã hội loài người.
Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là
quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục.
Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo
dục để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo
đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục.
Giáo dục không bó hẹp ở phạm vi là người được giáo dục đang trong tuổi

học (dưới 25 tuổi) và giáo dục không chỉ diễn ra trong nhà trường. Ngày nay,
chúng ta hiểu giáo dục là cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không
gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng bằng các phương tiện
khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, truyền
thanh, video, trực tuyến qua inernet,…) với các hình thức đa dạng, phong phú.
Ngoài ra quá trình giáo dục không ràng buộc về độ tuổi giữa người giáo dục với
17


người được giáo dục.
1.2.2. Giáo dục thể chất
2.2.2.1 Khái niệm
Thể dục được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Thể dục theo nghĩa
rộng bao gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo dục vệ sinh giữ gìn sức
khỏe. Rèn luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh
giữ gìn sức khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Thể dục theo nghĩa hẹp, chủ
yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao.
Giáo dục thể chất là sự tác động có mục đích, có nội dung, có phương
pháp, có tổ chức của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm nâng cao
sức khỏe, hình thành và phát triển các yếu tố thể chất cho họ.
Việc giáo dục thể chất có thể tiến hành theo nội dung chương trình môn
Thể dục ở nhà trường, cũng có thể tiến hành rèn luyện liên tục trong cuộc
sống cá nhân. Vì vậy giáo dục thể chất không chỉ chú ý đến việc rèn luyện
hay giáo dục giữ gìn sức khỏe mà phải chú ý đến giáo dục ý thức, thái độ rèn
luyện để tạo nên một thói quen, một nếp sống văn minh của con người hiện
tại. Việc rèn luyện thể chất, giữ gìn sức khỏe của mỗi người vừa là trách
nhiệm vừa là nghĩa vụ, nó không chỉ vì lợi ích của cá nhân mà còn vì lợi ích
cộng đồng và xã hội.
2.2.2.2. Ý nghĩa của giáo dục thể chất
Sức khỏe là vốn quý giá nhất của mỗi con người. Người có sức khỏe có

hàng trăm, hàng ngàn ước mơ, còn người không có sức khỏe thì chỉ có một
ước mơ duy nhất là mình có sức khỏe. Một tâm hồn lành mạnh chỉ ở trong
một cơ thể cường tráng. Muốn có một sức khỏe tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, ngoài yếu tố tư chất bẩm sinh, vấn đề rèn luyện và giữ gìn sức khỏe là
hết sức quan trọng.
Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
giáo dục phát triển toàn diện. Thể dục là biện pháp quan trọng để nâng cao
sức khỏe người dân, tăng cường thể chất nhân dân, làm phong phú đời sống
18


văn hóa xã hội, nâng cao sức sản xuất xã hội. Như trên đã nói, thể dục bao
gồm rèn luyện sức khỏe và giữ gìn vệ sinh, rèn luyện sức khỏe. Hiện nay
ggthể chất trong nhà trường phải chú ú làm tốt cả rèn luyện thể dục và vệ sinh
giữ gìn sức khỏe. Giáo dục thể chất trong nhà trường còn có ý nghĩa quan
trọng:
- Giáo dục thể chất có thể thúc đẩy học sinh phát triển thân thể khỏe
mạnh, tăng cường thể chất cho học sinh. Thanh thiếu niên đang ở thời kì thân
thể phát triển, do đó thể dục là hoạt động giáo dục không thể thiếu bảo đảm
cho sự phát triển tâm sinh lí lành mạnh của các em. Nhà trường căn cứ vào
đặc điểm và quy luật phát triển tâm sinh lí học sinh để tiến hành rèn luyện
một cách có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch theo phương pháp khoa học
nhằm giúp các bộ phận, cơ quan trên cơ thể phát triển khỏe mạnh, hài hòa và
tăng cường thể chất. Thường xuyên vận động thể dục sẽ phát triển thể chất tốt
như tăng cường năng lực làm việc của hệ thần kinh, não, tim, có thể làm tăng
hoạt lượng khí của phổi, tăng cường sức mạnh cơ bắp, tăng chiều cao, cân
nặng v.v… Thông qua giáo dục thể chất để giáo dục các mặt khác của nhân
cách đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ…
- Giáo dục thể chất là bộ phận không thể thiếu nhằm thúc đẩy sự phát
triển toàn diện của học sinh, là bộ phận hợp thành quan trọng của nền giáo

dục phát triển toàn diện. Thân thể khỏe mạnh là điều kiện cơ sở vật chất để
thực hiện các nhiệm vụ giáo dục khác. Giáo dục thể chất liên hệ mật thiết với
đức dục, trí dục, mĩ dục và lao động kĩ thuật. Thông qua vận động thể dục có
thể bồi dưỡng cho học sinh các phẩm chất tốt đẹp như: dũng cảm, chăm chỉ
lao động, tôn trọng kỉ luật, đoàn kết, nhân ái… Thể dục là đảm bảo quan
trọng để học sinh học tập tri thức văn hóa, khoa học. Rèn luyện thân thể có
thể duy trì đầu óc tỉnh táo, nâng cao năng lực làm việc của não, khi học tập có
thể tập trung sức chú ý cao và kéo dài, quan sát nhanh nhạy, tư duy sắc bén,
nâng cao chất lượng học tập. Luyện tập thể dục có thể nâng cao vẻ đẹp cho cơ
thể do chúng được phát triển hài hòa, cân đối. Thể dục còn làm cho tình cảm
19


thẩm mĩ của con người trong sáng hơn. Thể dục thể thao cung cấp điều kiện
tố chất sức khỏe cho giáo dục lao động kĩ thuật và tạo cơ sở hình thành thao
tác, kĩ năng cho nhiều hd khác.
- Giáo dục thể chất không những có thể bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
cho học sinh như tính trung thực, cao thượng… mà còn làm cho tinh thần con
người minh mẫn, có cuộc sống lạc quan, vui vẻ, tạo nên hành vi và thói quen
văn minh như tôn trọng kỉ luật, trách nhiệm với tập thể, yêu thích tuân theo
trật tự công cộng, giữ gìn môi trường sạch đẹp, giữ gìn vệ sinh…
2.2.2.3 Nhiệm vụ và nội dung của giáo dục thể chất
* Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục thể chất trong nhà trường
Giáo dục thể chất trong nhà trường có một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tăng cường thể chất, tăng cường sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho
học sinh rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ thể học sinh phát triển bình thường,
tăng cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát triển toàn diện năng lực
hoạt động cơ bản của cơ thể cũng như nâng cao thể chất: tố chất tốc độ, độ
nhạy cảm, sức mạnh, độ dẻo dai,… (các phẩm chất của vận động như nhanh,
mạnh, bền, khéo) hay các năng lực vận động cơ bản như chạy, nhảy, leo trèo,

mang vác… nâng cao năng lực thích ứng với môi trường tự nhiên cho học
sinh. Nói tóm lại, thể dục trước hết là hình thành các loại hình vận động và
các phẩm chất vận động cho học sinh.
- Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của
vận động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một
cách thường xuyên, khoa học, có hệ thống, trên cơ sở đó hình thành thói quen,
ý thức rèn luyện thân thể, tạo ra một lối sống khoa học, hợp lí và lành mạnh.
- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen
vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường
sức khỏe, phát triển tâm sinh lí tương ứng với các giai đoạn phát triển cơ thể.
- Thông qua thể dục tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức xã hội chủ
nghĩa, giúp học sinh tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng.
20


* Nội dung của giáo dục thể chất
Nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường được xác định theo nhiệm
vụ cụ thể của nhà trường và đặc điểm lứa tuổi học sinh, nội dung này bao gồm
vận động thể dụcthể thao và vệ sinh nhà trường.
- Vận động thể dụcthể thao: Đây là nội dung chủ yếu của thể dục nhà
trường, là phương pháp chủ yếu bảo đảm sự phát triển khỏe mạnh của tâm
sinh lí học sinh bao gồm vận động điền kinh, thể thao, các loại vận động với
bong, bơi lội, trò chơi, võ thuât… và hoạt động thể dục trong giáo dục quốc
phòng, tận dụng điều kiện tự nhiên để rèn luyện thân thể…
Vận động điền kinh: Đây là loại hình hoạt động do các hoạt động trong
đời sống sinh hoạt thường xuyên của con người tạo thành như đi, chạy, nhảy,
leo trèo, … Các môn điền kinh có quan hệ mật thiết đối với đời sống con
người, với quá trình lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Điền
kinh lại là nền tảng cho các môn thể dục khác, vì thế vận động thể dục nhà
trường có nội dung chủ yếu là vận động điền kinh.

Thể thao có rất nhiều loại: thể thao cơ bản và thể thao thi đấu. Đặc
điểm của nó là: nội dung phong phú, khả năng tiếp thu thực hiện tốt bài giảng
về vệ sinh sinh lí, vệ sinh học đường, nâng cao tính tự giác giữ vệ sinh cho
học sinh.
- Nhà trường cần xây dựng chế độ học tập, sinh hoạt hợp lí, kiểm soát,
khống chế chặt chẽ khối lượng hoạt động của học sinh trong nhà trường, bảo
đảm thời gian sinh hoạt, nghỉ ngơi và ngủ hợp lí, tạo nên thói quen sinh hoạt
tốt, có kỉ luật. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra
vào, hướng ánh sáng, độ phản quang của bảng, đèn chiếu sáng… đều đòi hỏi
phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng phát triển cơ thể của học sinh.
Cần làm cho học sinh hiểu rõ tri thức vệ sinh học tập, tạo nên thói quen
học tập tốt, tạo tư thế ngồi, đi, đứng, viết… đúng tư thế, đảm bảo cho cơ thể
học sinh phát triển bình thường, cân đối, đẹp. Bảo vệ thị lực cho học sinh
đang là vấn đề nổi cộm hiện nay, phải kiên trì bảo vệ sức khỏe đôi mắt, giúp
21


học sinh hiểu về vệ sinh mắt. Khi sắp xếp chỗ ngồi phải chú ý điều tiết thị lực
học sinh. Cũng cần làm cho học sinh hiểu về vệ sinh vận động, luyện tập theo
khoa học.
Thiết bị thể dục và sân bãi cần phù hợp với yêu cầu luyện tập và bảo
đảm an toàn, vệ sinh sạch sẽ. Cần tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho học
sinh, làm tốt công tác phòng và trị bệnh để đảm bảo cho học sinh phát triển
mạnh khỏe.
Tóm lại, thể dục trong nhà trường bao gồm vận động thể dục và vệ sinh
giữ gìn sức khỏe với tôn chỉ là tăng cường thể chất, giữ gìn sức khỏe cho học
sinh. Thông qua giáo dục thể chất, tăng cường sức khỏe cho học sinh để giáo
dục các phẩm chất đạo đức, phát triển trí tuệ, tăng cường khả năng thẩm mĩ,
giáo dục lao động…
* Các con đường giáo dục thể chất

Cũng như các nội dung khoa học khác, giáo dục thể chất cũng có thể
thông qua nhiều con đường khác nhau. Trước hết và quan trọng nhất là thông
qua dạy học môn giáo dục thể chất trong nhà trường. Sở dĩ xem môn giáo dục
thể chất là con đường quan trọng nhất vì đó là hoạt động có nội dung, có
phương pháp khoa học, có hệ thống và do những người có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ đảm nhiệm. Môn giáo dục thể chất không chỉ tiến hành rèn
luyện thể chất cho học sinh mà còn cung cấp những hiểu biết cần thiết để các
em rèn luyện có hiệu quả, nâng cao sức khỏe bản thân.
Có thể giáo dục thể chất cho học sinh thông qua con đường lao động
sản xuất. Lao động có thể rèn luyện cho học sinh các kĩ năng vận động cũng
như các phẩm chất vận động. Thông qua lao động để tăng cường sức khỏe
cho các em như rèn luyện tính dẻo dai, tính chính xác, tính linh hoạt…
Vui chơi giải trí cũng là một con đường quan trọng để giáo dục thể chất
cho học sinh. Vui chơi giải trí vừa tạo ra sự thoải mái, hưng phấn cho học
sinh vừa rèn luyện được nhiều kĩ năng vận động cũng như phẩm chất vận
động.
22


Ngày nay khi có rất nhiều phương tiện hỗ trợ tập luyện thì việc khuyến
khích học sinh tự giác rèn luyện ở mọi nơi, mọi lúc có thể, đặc biệt là ở gia
đình cũng là một con đường quan trọng để rèn luyện thể chất cho các em
2.2.2.4. Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh Trung học cơ
sở trong cộng đồng
Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh Trung học cơ sở trong
cộng đồng là quá trình huy động mọi nguồn lực cộng đồng, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tổ chức có hiệu quả các hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh
THCS, góp phần củng cố và phát triển những kết quả giáo dục thể chất đã đạt
được trong các nhà trường.
1.3. Một số đặc điểm của học sinh Trung học cơ sở

Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em bao gồm những em từ 11,12
tuổi đến 14,15 tuổi, đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS. Trên thực
tế đa số các em học sinh THCS đã bước vào lứa tuổi thiếu niện nên người ta
gọi lứa tuổi này là lứa tuổi thiếu niên.
Thời kì này có một vị trí hết sức quan trọng và đặc biệt, vì đặc biệt là thời
kì chuyển từ cuối nhi đồng sang lứa tuổi thiếu niên. Sự chuyển tiếp này tạo
nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù về mọi mặt ở thời kỳ này, được
biểu hiện như sau:
* Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lí ở lứa tuổi học sinh Trung học cơ sở
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đều về mặt cơ thể. Tầm
vóc của các em lớn lên trông thấy. Sự phát triển của hệ xương mà chủ yếu là
sự phát triển của các xương tay, xương chân rất nhanh nhưng ương ngón tay,
ngón chân phát triển chậm. Vì thế ở lứa tuổi này các em không mập béo, mà
cao, gầy và thiếu cân đối, các em có vẻ lóng ngóng, vụng về của mình mà cố
gắng che giấu nó bằng điệu bộ không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra mạnh bạo, can
đảm để người khác không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình.
Sự phát triển của hệ tim mạch cũng không cân đối; tuyến nội tiết bắt đầu
hoạt động hoạt động mạnh, thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh.
23


×