Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

luận văn Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS từ thực tiễn quận Lê Chân –thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.36 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lòng yêu nước là tài sản, là truyền thống quý báu mà cha ông ta trao lại, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử, đó là giá trị cao quý luôn được Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta trân trọng, giữ gìn. Những giá trị tinh thần vô cùng quý
báu của dân tộc được hình thành từ buổi đầu sơ khai dựng nước, được kết tinh từ
nền văn minh độc đáo của người Việt được nuôi dưỡng và phát triển trong các
thế hệ trở thành một truyền thống quý báu thấm sâu vào lòng đồng bào, làm nên
sức mạnh dân tộc Việt Nam.
Khái quát vai trò của lòng yêu nước, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tinh thần
yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong
bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương,
trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý, kín đáo ấy đều
được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức
lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [33, tr.171-172]. Lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh : ‘‘Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta....’’ [49, tr 25]. Niềm tự hào
luôn cháy trong tim của hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam ở trong nước và hơn 4
triệu kiều bào ta ở nước ngoài.
Giáo dục lòng yêu nước là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng
của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN. Mục
đích là nhằm nâng cao hơn nữa tinh thần yêu nước, yêu chế độ CNXH, tinh thần
bất khuất, kiên cường trong chống giặc ngoại xâm cũng như tinh thần hiếu học,
cần cù sáng tạo trong lao động.
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh
niên nói chung, thanh niên học sinh nói riêng. Nghị quyết Trung ương 7, khoá X
của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò to lớn đó: “Thanh niên là lực lượng xã hội
1



to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân
tộc... công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc” [18, tr.35-36]. Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác truyền thống yêu nước cho thanh
niên, học sinh nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị,
xây dựng những lớp người kế tục trung thành với lý tưởng của Đảng và của cách
mạng Việt Nam “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Báo cáo chính trị tại
Đại hội X của Đảng khẳng định: “Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh khát vọng
mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai
của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh bản lĩnh, phẩm chất và lối sống
của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”.
Để tăng cường hơn nữa công tác giáo dục lòng yêu nước cho học sinh,
sinh viên, năm 2014, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các cơ sở giáo
dục mầm non, phổ thông; các ĐH, học viện, trường ĐH, CĐ và TCCN dạy nghề
triển khai thực hiện nghiêm túc việc hát Quốc ca tại lễ chào cờ, đảm bảo 100%
học sinh, sinh viên hát đúng nhạc và lời Quốc ca, tạo điều kiện cho trẻ mầm non
được nghe Quốc ca thường xuyên nhằm giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc.
Trong giáo dục phổ thông trung học, giáo dục truyền thống yêu nước là
một phần không thể thiếu để hình thành và phát triển đạo đức, nhân cách của học
sinh và được diễn ra dưới nhiều hình thức tổ chức giáo dục như: tổ chức các buổi
nói chuyện chuyên đề cho học sinh, tổ chức các buổi thăm qua di tích lịch sử,
viện bảo tàng, các buổi gặp gỡ bà mẹ Việt Nam anh hùng, các cựu chiến binh...
Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa, đã trang bị thêm cho học sinh kiến
thức về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và đạo đức cách mạng trong tình hình
mới, giúp học sinh nhận thức đầy đủ hơn về truyền thống yêu nước nồng nàn của
dân tộc Việt Nam trong thời chiến cũng như thời bình, tinh thần đoàn kết, thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào. Từ đó giúp học sinh luôn gìn
2



giữ và phát huy giá trị chủ nghĩa yêu nước, ra sức phấn đấu học tập, rèn đức
luyện tài cống hiến trí tuệ, sức lực xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh hơn
trong thời đại mới.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, để góp một phần nhỏ vào việc
giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS, nhằm đáp ứng nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Trong các trường THCS cần có nhiều biện pháp, cách thức để giáo dục
truyền thống yêu nước cho học sinh. Là một giáo viên đang giảng dạy môn
GDCD tại trường THCS, tôi đã tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân, từ đó trăn
trở để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác trong nhà trường, đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay do đó tôi đã chọn đề tài: “Giáo dục truyền thống
yêu nước cho học sinh THCS từ thực tiễn quận Lê Chân –thành phố Hải
Phòng” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1 Một số công trình lí luận về giáo dục truyền thống yêu nước
Giáo dục truyền thống yêu nước là một vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước,
toàn dân ta đặc biệt quan tâm trong bất kì giai đoạn, thời điểm nào. Trong những
năm gần đây đã có rất nhiều công trình khoa học tập trung nghiên cứu trên nhiều
góc độ của truyền thống yêu nước và được công bố rộng rãi cụ thể như:
Cuốn “Đại thắng lừng danh đất Việt” của Đặng Duy Phúc - Nxb Văn học
2013 và cuốn “Lược sử Việt Nam” của Trần Hồng Đức - Nxb Văn hóa thông tin
2012 đã cung cấp nhiều tư liệu quan trọng về quá trình phát triển lịch sử Việt
Nam từ buổi bình minh đến tận ngày nay qua những chặng đường dựng nước và
giữ nước khi gian nan, lúc hào hùng của dân tộc Việt Nam. Cả hai cuốn sách này
là nguồn tư liệu quý giá trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho người
dân Việt Nam nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng. Nó mang tính tuyên
truyền, phổ biến lịch sử dân tộc một cách ngắn gọn, rõ ràng theo diễn biến thời
gian, xuyên qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt trong cuốn “Đại thắng lừng danh
3



đất Việt”, tác giả đã khẳng định: Dù đất nước khi mạnh, khi yếu, nhưng lòng yêu
nước, ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân thì không bao giờ yếu, nhân dân
không bao giờ muốn cam chịu làm thân phận nô lệ, không bao giờ muốn để cho
dân tộc mình phải nhục nhã, khuất phục ngoại bang. Lòng yêu nước của nhân
dân là vô biên, ý chí kiên cường, quật khởi, bất khuất của dân tộc là bất tận.
Cuốn sách tư tưởng "Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo
đại học hiện nay" của TS. Hoàng Anh, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2013).
Tác giả phân tích nội dung giáo dục toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh, những
nội dung giáo dục này là: giáo dục chính trị tư tưởng, theo Người: chính trị là
linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ có
cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi mới có chuyên môn; nội dung tiếp
theo là giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục văn hóa trình độ chuyên môn.
Trong tác phẩm " Xây dựng ý thức và tình cảm dân tộc chân chính cho
giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" Nxb Lao động, Hà Nội,
2005 của tác giả Nguyễn Thị Ngân. Cuốn sách tác giả đã phân tích sự hình
thành, phát triển nội dung cơ bản của ý thức và tình cảm dân tộc ở người Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh –sự kết tinh cao nhất của ý thức và tình cảm dân tộc
Việt Nam, đưa ra nhận định, phân tích ý thức và tình cảm dân tộc Việt Nam
trước những thách thức của thời đại, biểu hiện của ý thức và tình cảm dân tộc ở
giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, dự báo xu hướng phát
triển ý thức và tình cảm dân tộc trong giai cấp công nhân Việt Nam những năm
tới và đưa ra những giải pháp hết sức cụ thể. Trong cuốn sách tác giả phân tích
và chỉ rõ chủ nghĩa yêu nước luôn là động lực nội sinh lớn nhất để xây dựng xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ Quốc.
Với đề tài khoa học cấp bộ tác giả Bùi Đình Phong với tác phẩm Chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong thời kì mở cửa hội nhập quốc tế Hà Nội, năm
2008. Trong đề tài đề cập, nghiên cứu làm rõ nội dung chủ nghĩa yêu nước Hồ
4



Chí Minh và phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong xây dựng nền kinh
tế thị trường định XHCN ở Việt Nam hiện nay, phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ
Chí Minh nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và xây dựng nền văn hóa mới
trong giao lưu văn hóa ; phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh trong nhiệm
vụ xây dựng nguồn lực.
Cuốn sách ‘‘Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước
Hồ Chí Minh’’ do GS. Nguyễn Hùng Hậu chủ biên đã khẳng định: Chủ nghĩa
yêu nước Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển tất cả mọi truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước là lòng cốt. Bên cạnh đó, chủ nghĩa
yêu nước Hồ Chí Minh còn là kết quả của sự tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại và dân tộc, sự vận dụng sáng tạo và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Trong các yếu tố đó thì chủ nghĩa yêu
nước truyền thống là cơ sở trực tiếp nhất, cốt lõi nhất.
Trần Doãn Tiến, "Phê phán các quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị
trên mạng Internet góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay", Luận án tiến sĩ triết học, Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội (2010). Tác giả luận án phân tích khá rõ những khái niệm về tư
tưởng chính trị, quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị và phê phán các quan
điểm sai trái về tư tưởng chính trị, nhận diện các quan điểm sai trái về tư tưởng
chính trị trên mạng, tính đặc thù của việc phê phán các quan điểm sai trái về tư
tưởng chính trị trên mạng.
2.2 Một số công trình nghiên cứu về thực tiễn giáo dục truyền thống yêu nước
Đề tài “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay” - Luận văn thạc sĩ triết học của Doãn Thị Chín - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh - năm 2004 cũng đã bàn đến vấn đề giáo dục truyền
thống yêu nước: Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần
dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. “Thương nước - thương
5



nhà - thương người - thương mình” là truyền thống quý báu của nhân dân ta.
Nhờ có tinh thần yêu nước và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử hàng
ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên những chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng,
dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, truyền thống yêu nước và dân
chủ của nhân dân ta được nâng lên một trình độ mới và phát huy mạnh mẽ hơn
bao giờ hết.
Trong đề tài “Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học cơ
sở huyện Kiên Lương tỉnh Kiên Giang qua môn lịch sử” - Luận văn thạc sĩ Khoa
học giáo dục của Nguyễn Ngọc Định - trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tác giả
đã đề xuất các biện pháp giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh, đặc biệt
nhấn mạnh: giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc
giáo dục cho các em nhận thức được tình yêu quê hương, đất nước, với ý thức xã
hội chủ nghĩa tạo nên sức mạnh của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Đề tài ‘‘Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ tỉnh Hà
Nam hiện nay’’ – Luận văn thạc sĩ khoa học triết học của Đặng Thị Thanh Tâm trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề cập tới vấn đề công cuộc đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đem lại những kết quả to lớn trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang hội nhập với khu vực và
thế giới. Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi lớn thì khó khăn và thách thức cũng
không nhỏ. Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh càng đóng vai trò quan trọng trong
thời kỳ mới. Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, do nhận thức rõ tính cấp
thiết về vai trò của việc giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh nên đã có
nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
Những bài viết, những công trình nghiên cứu khoa học đó đã được đăng
trên các sách, báo, tạp chí, trang website, đó là những bài viết về: “Giáo dục
truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường đại học” của tiến sĩ Lê
Đình Viên - hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế công nghiệp Long An, tác giả
cũng đã khẳng định rằng: Lòng yêu đồng bào, đất nước là truyền thống cực kỳ
6



quý báu của dân tộc Việt Nam. Đức tính này đã chảy xuyên suốt trong dòng máu
của từng người Việt. Lòng yêu nước cũng là một nét văn hóa tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam, thể hiện ở tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Hay trong
bài phát biểu của chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước gần 200 đại biểu nguyên
là cán bộ chủ chốt phong trào đấu tranh yêu nước của thanh niên, học sinh, sinh
viên, trí thức, văn nghệ sĩ ở các đô thị miền Nam (đăng trên báo điện tử ngày
14/1/2013) cũng đã đề cập: Việc giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu nước, trách nhiệm
tiếp bước cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đang đặt lên vai
mỗi chúng ta. Dù còn nhiều điều trăn trở, hãy giữ vững niềm tin và truyền lửa
cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Trong bài viết “Bàn về lòng yêu nước chân chính” của Nam Hoàng
(nguồn: tác giả đã đưa ra giải pháp:
mỗi người dân Việt Nam ta, đặc biệt là thế hệ trẻ chúng ta hãy cùng suy ngẫm và
bằng sự hiểu biết của mình để xác định đâu là đúng, đâu là sai và tự trang bị cho
mình một “vacxin đề kháng” đó là nhận thức đúng đắn về “lòng yêu nước chân
chính”. Khi đã có nhận thức đúng đắn thì mỗi cá nhân hãy lên tiếng để phản bác
lại luận điệu tuyên truyền sai trái của bọn phản động bán nước, để không có
thêm một bạn trẻ nào nữa bị lầm đường lạc lối, tự mình bán rẻ danh dự và tiền đồ
của mình. Và hơn hết chúng ta cần biến truyền thống tốt đẹp đó, cùng nhau xây
dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, đập tan mọi âm mưu chống phá
cách mạng ta của các thế lực thù địch.
Ngày 10/8/2013, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT đã khai mạc Hội thảo quốc gia về
giáo dục đạo đức công dân trong giáo dục phổ thông Việt Nam. Hội thảo nhằm
mục đích góp phần đánh giá những kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn giảng
dạy học tập giáo dục đạo đức công dân ở trường phổ thông, công tác đào tạo giáo
viên đạo đức giáo dục công dân trong những năm đầu của thế kỷ 21, đề xuất định
hướng đổi mới chương trình, nội dung phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá
7



đạo đức giáo dục công dân ở trường phổ thông trong thời gian tới, phục vụ việc
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau 2015.
2.3 Một số công trình nghiên cứu về giải pháp giáo dục truyền thống yêu
nước
“ Nhiệm vụ cơ bản của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện dại hóa đất nước”, ThS. Đoàn Văn Thái, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004.
Tác giả cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu và cung cấp những thông tin cơ bản về
tình hình thanh niên, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và kinh tế tri thức đối với thanh niên. Tác giả cũng đã tổng hợp một cách
có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của thanh niên trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đề xuất các giải pháp giúp thanh niên
thực hiện được các nhiệm vụ cơ bản của mình.
“ Vai trò của giáo dục đạo đức trong xây dựng nhân cách sinh viên hiện
nay”, PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử,
/>Dựa trên kiến thức liên ngành triết học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, tác
giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích và làm rõ phạm trù nhân cách, giáo dục và
đạo đức, từ đó nêu bật lên vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo
đức và xây dựng nhân cách cho sinh viên hiện nay với mục đích xây dựng đội
ngũ trí thức tương lai vừa “hồng” vừa “chuyên”, kế tục các thế hệ cha anh trong
sự nghiệp cách mạng mới.
“ Giáo dục bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập”, ThS. Bùi Thị Cần, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử,
Tác giả đã đi sâu nghiên cứu và nêu bật được sự cần thiết và tầm
8


quan trọng của việc giáo dục bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ trong
thời kỳ hội nhập. Qua nghiên cứu các tác phẩm và tư tưởng của Người, tác giả
cũng đã nêu ra 3 nội dung quan trọng trong công tác giáo dục bản lĩnh chính trị

Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần xây dựng một thế hệ trí tuệ, bản
lĩnh với tinh thần không sợ khó khăn, gian khổ, không sợ bất cứ một kẻ thù nào;
trước khó khăn không lùi bước, trước thắng lợi không kiêu ngạo, trước cám dỗ
không lay chuyển và khuất phục để tự tin hội nhập sâu rộng hơn với bạn bè năm
châu.
“ Nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng sống đúng đắn, ý thức trách
nhiệm với cộng đồng trong thanh niên, xứng đáng truyền thống tự hào của cha
anh”, Nguyễn Đắc Vinh, Tạp chí Cộng sản, số tháng 12/2015. Trong nghiên cứu
này, PGS.TS. Nguyễn Đắc Vinh đã khái quát truyền thống vẻ vang của thế hệ trẻ
Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử, từ đó nêu bật tầm quan trọng của của đối
tượng này đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả cũng chỉ rõ
những khó khăn, thách thức mà thế hệ trẻ Việt Nam đang phải đối mặt bên cạnh
những thành tích đã đạt được. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã nêu ra 4
giải pháp nhằm nâng cao nhận thức chính trị, lý tưởng sống đúng đắn, ý thức
trách nhiệm với cộng đồng trong thanh niên nhằm xây dựng một lớp thanh niên “
vừa hồng”, “ vừa chuyên”, đủ sức gánh vác những nhiệm vụ lớn lao của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xứng đáng với truyền thống tự hào
của cha anh.
Trong các tác phẩm và công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đã đề
cập đến thực trạng và công tác giáo dục tư tưởng, truyền thống yêu nước, giáo
dục đạo đức, nhân cách cho thế hệ thanh niên, sinh viên Việt Nam. Thông qua đó
cũng đề ra một số giải pháp để tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
ý thức chính trị cho thanh niên, sinh viên; góp phần nâng cao tinh thần đoàn kết,
yêu nước chân chính cho thế hệ trẻ Việt Nam.
9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn công tác giáo dục truyền

thống yêu nước cho học sinh THCS những năm gần đây, đề tài đề xuất nội dung
về giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS ở quận Lê Chân – thành
phố Hải Phòng nhằm góp phần tạo ra một thế hệ học sinh vừa hồng vừa chuyên
đáp ứng nhu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế tri thức, tích
cực, chủ động trong hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Nghiên cứu và hệ thống hoá một số vấn đề lý luận.
- Phân tích thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS ở
quận Lê Chân – thành phố Hải Phòng hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp về giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh
THCS ở quận Lê Chân – thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các yếu tố trong hệ thống giáo dục truyền thống yêu nước
cho học sinh THCS hiện nay: chủ thể giáo dục, mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục và đối tượng giáo dục đó là học
sinh THCS, chủ yếu ở độ tuổi 11- 15 .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nâng cao hiệu quả giáo dục của truyền thống yêu
nước cho học sinh THCS từ thực tiễn quận Lê Chân – thành phố Hải Phòng
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng HCM, những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về giáo dục truyền thống yêu nước nói chung, giáo dục truyền thống yêu nước
cho học sinh THCS nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

10



Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: logic –
lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, điều tra xã hội học... nhằm
thực hiện mục đích, nhiệm vụ đã đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Những luận điểm và kết luận của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ và cung
cấp luận cứ khoa học cho việc xác định các quan điểm về giáo dục truyền thống
yêu nước nói chung, giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS nói
riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
- Đề tài góp thêm kinh nghiệm cho giáo viên giảng dạy môn GDCD, Lịch sử,
các nhà quản lý, lãnh đạo của ngành GD&ĐT và những ai quan tâm đến công tác
giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS hiện nay.
- Đề tài đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
truyền thống yêu nước cho học sinh THCS nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, tổng
quan đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về giáo dục truyền thống yêu nước cho học
sinh THCS.
Chương 2: Thực trạng giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS từ
thực tiễn quận Lê Chân – thành phố Hải Phòng hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống
yêu nước cho học sinh THCS quận Lê Chân – thành phố Hải Phòng.

11


Chương 1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ GIÁO TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Khái niệm giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học cơ sở
1.1.1. Khái niệm truyền thống
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm truyền thống. Theo Từ điển
Triết học của Liên Xô cũ, khái niệm truyền thống có nguồn gốc từ tiếng Latinh
là traditio - sự chuyển giao, lưu truyền lại, đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được
lưu truyền từ những thế hệ trước và nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay
nhóm xã hội nhất định.
Theo giáo sư Phan Huy Lê :“ Truyền thống là tập hợp những tư tưởng ,
tình cảm, những thói quen tư duy, trong lối sống và ứng xử của một cộng đồng
người nhất định được hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ” [2,3 - 4].
Truyền thống không phải là tất cả những gì diễn ra trong lịch sử mà chỉ là
yếu tố di tồn, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác chi
phối hành vi xã hội của cộng đồng người. C.Mác và Ph.Ăng ghen đã nói rõ trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức:“ Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế
hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản,
những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ trước đó để lại, do đó, mỗi thế hệ
một mặt tiếp tục cái hoạt động truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn
thay đổi và mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn
toàn thay đổi” [44 ,65].
1.1.2. Khái niệm yêu nước
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng (2011) định nghĩa:“Yêu nước là một
trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm năm, hàng
nghìn năm tồn tại của các quốc gia biệt lập” [65, tr. 226].
Tinh thần yêu nước của người Việt hình thành và biểu hiện rõ nhất trong
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Thật hiếm thấy dân tộc nào trên thế giới lại có
quá trình chống ngoại xâm kiên cường bền bỉ như dân tộc ta mà kẻ thù là những
1



đế chế hoặc đế quốc vào loại hùng mạnh bậc nhất thế giới. Trước cuộc chiến đấu
không cân sức như vậy thì con đường sống còn chiến thắng là phải biết huy động
sức mạnh tổng hợp cả vật chất lẫn tinh thần của toàn dân. Hoàn cảnh ấy đã tác
động sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của truyền thống yêu nước, ý chí
quật cường bất khuất và niềm tự tôn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết :
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xua đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. [50,171]
1.1.3. Khái niệm giáo dục và giáo dục truyền thống yêu nước
“Giáo dục” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “Educare” (tiếng Anh là
Education) có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Theo nghĩa chung nhất là hình thức học
tập theo đó kiến thức, kỹ năng, thói quen của một nhóm người được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu.
Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể
thông qua tự học.
Theo từ điển Tiếng Việt, giáo dục:“là hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu
đặt ra”.
Dưới góc độ triết học, giáo dục được xem là một quá trình hai mặt: một
mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng giáo dục (sự tác động của tri
thức, văn hóa nhân loại thông qua nhà sư phạm đến đối tượng học sinh, sinh
viên; mặt khác (chủ yếu hơn) là thông qua sự tác động này mà làm cho đối tượng
tự biến đổi bản thân mình, tự hoàn thiện, tự nâng mình lên thông qua giáo dục.
Một qua điểm khác về giáo dục: giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là hoạt
động (hay quá trình) chuyển giao hệ thống tri thức, kinh nghiệm xã hội của thế
hệ này cho các thế hệ kế tiếp nhằm hình thành và phát triển nhân cách, đáp ứng

2


nhu cầu tồn tại và phát triển của đời sống xã hội trong những giai đoạn lịch sử.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục gắn với quá trình hình thành và phát triển hệ thống nhà
trường (giáo dục nhà trường) là các hoạt động giáo dục có mục đích và có nội
dung chính xác cho từng bậc học và loại hình trường, được thực hiện một cách
có kế hoạch, có hệ thống trong khuôn khổ nhà trường.
Ngày nay, giáo dục được coi là một yếu tố giải phóng tiềm năng của con
người, được coi như một lực lượng sản xuất thúc đẩy trực tiếp sự phát triển kinh
tế xã hội, đào tạo lớp người có khả năng giải quyết các mâu thuẫn của thời đại.
Phát triển giáo dục trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Giáo dục có nội dung rất phong phú bao gồm giáo dục đạo đức, giáo dục
thẩm mỹ, lao động, kinh tế, quốc phòng, an ninh, chính trị, tư tưởng…Trong đó
chính trị - tư tưởng được xác định là một nội dung chủ đạo và có vị trí đặc biệt
trong việc rèn luyện, xây dựng các tri thức chính trị, hình thành nhân cách, củng
cố niềm tin, quy định bản chất xã hội, bản chất giai cấp cho đối tượng giáo dục.
Giáo dục truyền thống yêu nước là giáo dục cho học sinh sống có lý
tưởng và trung thành với lý tưởng cách mạng. Đồng thời cũng chính là thực hiện
mục tiêu của giáo dục: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và CNXH; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [điều 2,
Luật Giáo dục, Nxb CTQG, Hà Nội 2005].
Hiện nay, giáo dục truyền thống yêu nước được coi là hoạt động có mục
đích của Đảng Cộng sản, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm hình
thành ở học sinh, thanh niên thế giới quan khoa học, rèn luyện bản lĩnh chính trị
vững vàng, niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng khởi xướng, lãnh đạo,
khắc phục thói thụ động và thờ ơ chính trị, hình thành thái độ đấu tranh không
khoan nhượng đối với các tư tưởng phản tiến bộ, thúc đẩy tính tích cực, tự giác,

sáng tạo tham gia vào các phong trào cách mạng.
3


Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hội nhập và phát
triển với thế giới, nội dung trọng tâm của giáo dục truyền thống yêu nước là
tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cung cấp thông
tin chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho nhân dân. Giáo dục truyền thống yêu
nước được thực hiện thường xuyên, liên tục, rộng khắp bằng những hình thức,
phương pháp đa dạng và phong phú.
1.2. Vai trò của giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học cơ sở
1.2.1. Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh trung học cơ sở góp phần
phát triển con người toàn diện
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:“Muốn xây dựng CNXH phải có con
người XHCN” [36, tr.448]. Đức và tài là hai mặt của cùng một nhân cách con
người, là những nội dung không thể thiếu trong giáo dục con người toàn diện.
Mục đích cuối cùng của giáo dục toàn diện nhằm tạo ra lớp người có năng
lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu thời đại. Hồ Chí Minh xác định “Trong việc
giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ
XHCN, văn hoá, kĩ thuật, lao động và sản xuất” [37, tr.190].
Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh là một trong những nội dung
quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện bởi ngoài kiến thức chuyên môn,
văn hóa, người học sinh rất cần được trau dồi tư tưởng, đạo đức, lối sống, bồi
dưỡng lòng yêu nước, sự quan tâm tới cộng đồng... Luật Giáo dục nước ta chỉ rõ:
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý
thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương
xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” [45, tr.30-31]. Bởi vậy, giáo dục truyền thống yêu nước với
mục đích trang bị thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản và phương pháp

luận biện chứng chính là góp phần hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh.
Đó là quá trình tác động đến thế hệ trẻ, giúp họ có nhận thức đầy đủ về
lịch sử dân tộc, hình thành tình cảm yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào với
4


truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông, để từ đó hình thành
nghĩa vụ công dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việc giáo dục truyền thống yêu nước với mục đích giúp họ hiểu biết sâu
sắc quá khứ gian khổ, đau thương nhưng anh dũng và vinh quang của dân tộc, từ
đó nhận rõ giá trị của cuộc sống hiện tại để có niềm tự hào, lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng thái độ lao động mới,
ý thức tự lực tự cường, có trách nhiệm với xã hội, với tương lai của dân tộc, tiếp
tục sự nghiệp của các thế hệ cha anh đi trước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ còn nhằm bảo đảm sự
kế tục và thống nhất giữa các thế hệ cách mạng Việt Nam. Có thể nói rằng, công
tác giáo dục truyền thống là một phần không thể thiếu để hình thành và phát triển
đạo đức, nhân cách của thế hệ trẻ. Dân tộc Việt Nam với một truyền thống lịch
sử rất đáng tự hào với nhiều chiến công hiển hách: những mốc son, dấu ấn đáng
nhớ ấy là kết tinh của lòng yêu nước, ý thức tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần
chiến đấu hy sinh anh dũng của bao thế hệ cha anh đi trước.
Giáo dục truyền thống yêu nước là nâng cao tinh thần yêu nước, phẩm
chất đạo đức, lối sống XHCN cho học sinh THCS. Đó là sự tổng hợp những
phẩm chất tích cực của con người nó thể hiện ở sự vững vàng, kiên định trong
quan điểm, lập trường chính trị, không hoang mang, dao động trước những biến
động và tác động phức tạp của cuộc sống xã hội cũng như những khó khăn,
thách thức đối với bản thân; luôn trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Bản lĩnh còn thể hiện ở việc dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó.

Thông qua giáo dục truyền thống yêu nước, tình yêu nước của học sinh
được hình thành và nâng cao. Điều đó được thể hiện ở sự trung thành với chế độ
XHCN, lòng yêu nước chân chính, kiên định lập trường cách mạng, vững vàng
trước những âm mưu, thủ đoạn tấn công của kẻ địch cũng như không hoang mang,
5


dao động trước những biến động chính trị trên thế giới, góp phần đào tạo lớp người
kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Giáo dục truyền thống yêu nước kết hợp với thường xuyên giáo dục lối
sống lành mạnh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Giáo dục cho học
sinh tinh thần trọng nghĩa, trung thực, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước
cộng đồng, bảo vệ môi trường, chống mọi tệ nạn và tiêu cực xã hội, tích cực bài
trừ các hủ tục lạc hậu cản trở tiến bộ xã hội... Giáo dục cho họ có thái độ đúng,
đấu tranh không khoan nhượng với thói hư tật xấu, lên án hành vi vô văn hoá,
phi đạo đức.
Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị nhân cách
con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh
niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ,
đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam” [21, tr.106].
Giáo dục truyền thống yêu nước góp phần định hướng hoạt động thực tiễn
theo hướng nhân văn, tiến bộ, cách mạng, khoa học, sáng tạo... làm cho học sinh
thấm nhuần tinh thần của Chủ nghĩa Mác -Lênin là góp phần “cải tạo thế giới”,
tạo nên những học sinh hăng hái đi đầu trên nhiều lĩnh vực, có thái độ, nhận thức
tốt và ý thức chính trị cao, có ý chí vượt qua khó khăn, vươn lên lập thân, lập
nghiệp, phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích cách mạng của những thế hệ
thanh niên cách mạng lớp trước.
1.2.2. Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS góp phần đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Học sinh THCS chính là những thanh niên có trí thức, có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển đất nước vì đây là một bộ phận quan trọng đóng góp
vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội X của Đảng xem việc phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm sớm đưa nước
6


ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020, cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại là nhiệm vụ chính trị trọng đại nhất của toàn
Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, trong khi không xem nhẹ việc khai thác ngoại
lực, biến ngoại lực thành nội lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta cũng
cho rằng, nội lực là chính, trong đó, quan trọng nhất là nhân tố con người. Phát
huy đựơc nhân tố con người Việt Nam nhất là thế hệ trẻ là cái bảo đảm cơ bản
nhất cho thành công của sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết Trung ương 7, Khoá X
nhấn mạnh: “Thanh niên được đặt ở vị trí trọng tâm trong chiến lược bồi dưỡng,
phát huy nhân tố và nguồn lực con người” [22, tr.24].
Trước những yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và
phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của thanh niên trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X
chỉ rõ: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội
nhập quốc tế và xây dựng CNXH...” [23, tr.41]. “Cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" tạo chuyển biến thực sự trong đạo đức,
lối sống và hành động của thanh niên. Đồng thời "xây dựng môi trường xã hội
lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành… Có chính sách

mang tính đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao đáp ứng quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, hưởng thụ văn hóa, vui chơi, giải trí của thanh niên”
[24, tr.44].
Giáo dục truyền thống yêu nước qua việc trang bị thế giới quan duy vật
biện chứng giúp cho học sinh THCS biết yêu lao động, tham gia lao động, học
7


tập một cách nghiêm túc, đem lại chất lượng và hiệu quả cao. Từ đó, họ có khả
năng vươn lên làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến để xứng đáng với vị trí và
vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
1.2.3.Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá.
Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS là giáo dục đạo đức,
lý tưởng cách mạng, lối sống, niềm tin, góp phần tạo nên một con người có niềm
tin sâu sắc trung thành với Đảng, có lập trường vững vàng trước mọi thử thách.
Điều đó góp phần giúp học sinh THCS có đủ dũng khí và khả năng bảo vệ hệ tư
tưởng vô sản, bảo vệ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN, bảo vệ các giá trị văn
hoá truyền thống dân tộc và có sức đề kháng với “Diễn biến hoà bình” của các
thế lực thù địch với hình thức ngày càng thâm độc, tinh vi. Chiến lược “Diễn
biến hoà bình” là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các
thế lực thù địch. Đây là kiểu “chiến tranh không có khói súng, không đánh mà
thắng”.
Giáo dục truyền thống yêu nước cho học sinh THCS có được phẩm chất
đạo đức và lối sống lành mạnh trong trong điều kiện có sự tác động mặt trái của
cơ chế thị trường ở nước ta và thế lực thù địch thực hiện âm mưu " Diễn biến
hoà bình ", chống CNXH ở nước ta. Việc xây dựng phẩm chất đạo đức và lối
sống lành mạnh sẽ không phải chỉ là tuyên truyền, hô hào, kêu gọi học sinh làm
việc thiện, không làm điều ác, là sống có tình có nghĩa, là phải hy sinh lợi ích

riêng của cá nhân để phục vụ cho lợi ích chung... mà vấn đề cốt lõi là phải trang
bị cho họ thế giới quan duy vật biện chứng một cách toàn diện và vững chắc.
Từ đó, học sinh thấy được giá trị, ý nghĩa và mục đích cuộc sống của con
người, "không có gì quý hơn độc lập tự do", là "bức tường thép" để ngăn chặn lối
sống cá nhân chủ nghĩa, thực dụng trọng đồng tiền mà các thế lực thù địch đang
gieo rắc. Học sinh sẽ biết nêu cao tinh thần đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ cái
đúng, cái tốt, lên án cái ác, cái xấu và cái tiêu cực; có thái độ kiên quyết, dứt
8


khoát đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái tiêu cực, sa đọa, suy thoái về đạo
đức và lối sống trong nhà trường cũng như ngoài xã hội.
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp và phương tiện giáo dục truyền
thống yêu nước cho học sinh trung học cơ sở
1.3.1. Nội dung giáo dục truyền thống yêu nước
1.3.1.1. Giáo dục tình yêu gia đình
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới của Đảng về gia
đình và giáo dục gia đình. Trong mục tiêu tổng quát, nghị quyết đã khẳng định:
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi các nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên về không gian và thời gian đối
với học sinh nên cũng là môi trường đầu tiên tác động đến đạo đức của họ, là con
thuyền nhỏ mà vững chắc trao truyền những giá trị tốt đẹp của gia đình và dân
tộc đến các em. Gia đình Việt nam với truyền thống: kính trên nhường dưới, chị
ngã em nâng, ăn ở hòa hiếu, tôn trọng và biết ơn công lao của ông bà cha mẹ và
sống thuận hòa với làng xóm, dòng họ. Quan hệ huyết thống trong gia đình là sợi
dây vững chắc kết nối các thành viên về mặt sinh học trong gia đình; gia phong,
gia lễ là một sợi dây kết nối họ về mặt xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:

Trong giáo dục, nếu thiếu sự giáo dục gia đình hoặc giáo dục gia đình không phù
hợp với yêu cầu của xã hội sẽ hạn chế nhiều kết quả giáo dục.
1.3.1.2. Giáo dục tình yêu quê hương
Tình yêu quê hương được xây dựng từ gốc rễ là lòng yêu thương con
người, tình yêu gia đình, tình cảm huyết thống dòng họ, tình làng nghĩa xóm,
tình nghĩa đồng bào.... và trên hết, cao hơn tất cả là tình yêu đất nước. Nhà thơ
Đỗ Trung Quân trong bài thơ “Quê hương” với những hình ảnh dung dị mà đời
thường đã giúp người đọc hiểu được sâu sắc về quê hương và nêu ra một chân
lý: “Quê hương mỗi người chỉ một – Như là chỉ một mẹ thôi – Quê hương nếu ai
9


không nhớ - Sẽ không lớn nổi thành Người”. Tình yêu quê hương bắt đầu từ
những điều rất nhỏ hàng ngày - đó là tình cảm trong sáng, cao cả và góp phần
làm thanh lọc tâm hồn con người. Đó cũng là tình cảm gắn kết cá nhân với cộng
đồng, tạo nên sự đồng cảm, sự lắng đọng sâu sắc và thường trực trong trái tim
con người. Chính sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, thành ý chí
bất khuất, sức mạnh chiến đấu, quyết tâm bảo vệ đất nước, đánh đuổi ngoại xâm,
ý thức xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Bài thơ “Quê hương” (Giang Nam) lại làm lay động lòng người ở một
khía cạnh khác: sự mất mát người thân yêu ! Đất nước đã mất đi rất nhiều người
con trung hiếu, mất đi rất nhiều người dân biết yêu quê hương, đất nước bằng
hành động quyết liệt nhất,...mà trong hai cuộc kháng chiến đã có đến con số hàng
triệu. Bài thơ đã khắc họa thêm một lý do rất sâu sắc để cho hậu thế phải biết yêu
quê hương, đất nước, và phải biết bảo vệ nó : “Xưa yêu quê hương vì có chim, có
bướm – Có những ngày trốn học bị đòn roi – Nay yêu quê hương vì trong từng
nắm đất – Có một phần xương thịt của em tôi”. Và bởi vậy chúng ta lại càng
nhìn rõ thêm giá trị thiêng liêng của tình yêu quê hương, đất nước phải biết trân
trọng, giữ gìn nó. Không thể có tình yêu dân tộc chung chung nếu không xuất
phát từ tình yêu con người cụ thể. Từ nhận thức đến tình cảm, từ suy nghĩ đến

hành động luôn thường trực tình yêu quê hương đất nước.
Người Việt Nam luôn luôn hướng về nguồn cội, về ông bà, cha mẹ, tổ tiên,
về nơi chôn rau cắt rốn của mình, về quê hương, về Tổ quốc với những gì bình
dị, thân quen nhất: “ Anh đi anh nhớ quê nhà - Nhớ canh rau muống, nhớ cà
dầm tương….”
Tình yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến vốn có ở tất cả các dân tộc
trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được
hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ
biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tùy thuộc vào điều kiện lịch
sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ
10


là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được hun đúc từ
chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc. Chính vì vậy, mà tinh thần
yêu nước đó ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam
qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh
thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hung mạnh đến đâu.
1.3.1.3. Giáo dục ý thức, tình cảm yêu thương kính trọng nhân dân ,“ lấy dân
làm gốc”
Dân là gốc –tư tưởng chính trị xuyên suốt trong lịch sử dân tộc Việt nam
đã được lịch sử dân tộc kiểm chứng; chỉ khi nào chính quyền an, vì dân, trọng
dân thì nước thịnh, khi nào chính quyền xa dân , xem thường dân thì nước suy.
Dân là gốc trở thành một triết lý chính trị song hành, định hướng, quyết định sự
thịnh hưng hay suy vong của quốc gia. Tư tưởng chính trị này được nhiều bậc trí
thức cùng các vương triều phong kiến Việt nam coi trọng và vận dụng thành
công trong việc củng cố quyền lực, việc tập hợp sức mạnh của dân vào sự nghiệp
bảo vệ tổ quốc, kiến thiết quốc gia. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, tư
tưởng chính trị dân là gốc được bổ sung thêm những giá trị mới tiến bộ, nhằm
đáp ứng được đòi hỏi mới. Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng “Dân là gốc” đó

đã phát triển lên một trình độ mới, đáp ứng được những đòi hỏi lịch sử của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, giai cấp mang lại hạnh phúc cho đại đa số nhân dân
Từ khi mới ra đời, dưới lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, Đảng cộng sản
Việt nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Nhân dân là chủ thể của cách mạng, động lực cho cách mạng
thành công và đồng thời cũng là mục tiêu của cuộc cách mạng. Tư tưởng chính
trị dân là gốc là bài học kinh nghiệm, đường lối chiến lược góp phần vòa thành
công của cách mạng Việt nam. Bài học đó không chỉ có ý nghĩa trong thực tiễn
cách mạng mà trong giai đoạn hiện nay vẫn còn nguyên giá trị.
11


Trong giai đoạn hiện nay việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chủ động hội nhập sâu, rộng và đời sống kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi
vai trò của nhân dân là vô cùng quan trọng mang tính quyết định đi đến thành
công.
Vai trò của nhân dân là vô cùng to lớn và đặc biệt quan trọng. Vì vậy, giáo
dục truyền thống yêu nước xã hội chủ nghĩa cho thanh niên hiện nay phải gắn
yêu nước với yêu thương, kính trọng nhân dân, đó là những yếu tố không thể
tách rời. Đối với mỗi thanh niên, giáo dục ý thức, tình cảm yêu thương, kính
trọng nhân dân trước hết thể hiện trong mối quan hệ với gia đình, người thân,
thầy cô giáo, bạn bè và những người xung quanh, cao hơn là trách nhiệm đối với
cộng đồng, xã hội và hướng tới là xây dựng tư tưởng, tình cảm tin vào dân, dựa
vào dân, đem tài năng và trí tuệ của mình phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân,
phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân.
1.3.1.4. Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của hàng nghìn năm đánh giặc, giữ
nước. Biết bao thế hệ anh hùng đã chiến đấu, hy sinh để giữ gìn giang sơn gấm
vóc, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Nối tiếp truyền thống đánh giặc giữ nước

của ông cha, với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập - tự do", mấy chục năm
qua, hàng triệu người con yêu quý của dân tộc ta đã ngã xuống. Máu đào của các
liệt sĩ ấy đã viết nên những trang sử vẻ vang và đem lại cuộc sống hòa bình, no
ấm hôm nay.
Hồ Chí Minh trong bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” có đoạn
viết: “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ
các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước
ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến
miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ
ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc, tiêu diệt giặc, đến những
công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên
12


chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các
bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam
nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để
giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất
ruộng cho chính phủ... Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm,
nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước” [49, tr.26].
Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cùng với việc
phải gồng mình chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để mưu sinh, dân tộc ta
còn phải thường xuyên đối phó với các thế lực xâm lược để bảo vệ cuộc sống
yên bình của nhân dân, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu.
Những cuộc khởi nghĩa, những cuộc kháng chiến của nhân dân ta đều là những
cuộc đấu tranh chính nghĩa và cuối cùng đều giành thắng lợi. Cho dù có phải đổ
máu, nhưng đó là những hy sinh oanh liệt, cùng với những chiến công tạo nên
lịch sử quân sự hào hùng của dân tộc. Giá trị ấy khắc sâu vào tâm khảm những
người Việt Nam yêu nước và được nhân loại tiến bộ đồng tình, ủng hộ, ngợi ca.
Ngày nay, nhân dân ta đang sống trong tự do, độc lập và thực hiện hai

nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó cũng
chính là sự tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc trong điều
kiện mới. Vì vậy, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN là một đòi hỏi khách
quan. Có giữ vững được độc lập dân tộc thì chúng ta mới xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội; đồng thời chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc
mới được bảo đảm vững chắc. Sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội là thuộc tính của cách mạng Việt Nam; là đặc điểm cơ bản phản ánh nội dung
cốt lõi và bản chất của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước kia, ngọn cờ độc lập

13


dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục đích và động lực cơ bản để giải phóng dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu nước ngày nay là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kết
hợp hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính, là đem hết nhiệt tình, trí
tuệ và tài năng để xây dựng Tổ quốc theo định hướng XHCN, trước mắt là xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên tinh thần
hòa bình, hữu nghị và hội nhập, cùng nhau phát triển. Trong xu thế hòa bình và
phát triển hiện nay, cần vận dụng chiến lược thắng lợi trọn vẹn không cần đánh
mà khuất phục được kẻ địch, thận trọng đối với chiến tranh và hạn chế chiến
tranh, đẩy mạnh các biện pháp ngoại giao, giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, tận dụng mọi thời cơ để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
định hướng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới là: “Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định
chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn

chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Đây là một trong hai nhiệm vụ
chiến lược có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau: Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tại Điều 1 và Điều 11 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện quan điểm kiên
định của Nhà nước và nhân dân ta về chủ quyền đất nước: “Nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời”, “Tổ quốc Việt
Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.
Trên tinh thần “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp
của toàn dân”, tại các Điều 64, 65 Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định về
14


×