Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giáo dục hành vi ứng xử có văn hoá cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.84 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG THỊ PHƯƠNG THANH

GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA CHO CỘNG ĐỒNG
DÂN CƯ QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2017
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

HOÀNG THỊ PHƯƠNG THANH

GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA CHO CỘNG ĐỒNG
DÂN CƯ QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Giáo dục và Phát triển cộng đồng
Mã ngành: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học
TS. Vũ Thị Ngọc Tú

HÀ NỘI, 2017


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Giáo dục hành vi ứng xử có văn
hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng” dưới sự
hướng dẫn của TS. Vũ Thị Ngọc Tú là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu có trích dẫn nguồn chính xác, kết quả nghiên cứu nêu
trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất cứ một
nghiên cứu nào khác.
Tác giả

Hoàng Thị Phương Thanh

3


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Thị Ngọc Tú, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài luận văn tốt nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô trong Khoa Tâm
lý – Giáo dục học, trường ĐHSP Hà Nội, các đồng chỉ cùng công tác tại đơn
vị…., gia đình, bè bạn đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt
quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã dành nhiều thời gian, công sức và cố gắng rất nhiều, nhưng
do khả năng của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học
chưa nhiều nên luận văn tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, kính mong các
thầy, cô góp ý và chỉ bảo để em được tiến bộ và trưởng thành hơn về chuyên

môn cũng như về công tác nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2017
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Phương Thanh

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GD

:

Giáo dục

NXB

:

Nhà xuất bản

VH

:

Văn hóa

5



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người có hai dòng hoạt động quện chặt vào nhau: Hoạt động với đối
tượng (Phản ánh quan hệ chủ thể - khách thể), hoạt động giao tiếp (Phản ánh quan
hệ chủ thể - chủ thể). Hoạt động giao tiếp diễn ra thường nhật ở mỗi người, ở mọi
không gian và thời gian. Hiệu quả của giao tiếp như thế nào còn tùy thuộc vào
cung cách ứng xử, về nội dung cũng như hình thức biểu hiện.
Mọi ứng xử của con người đều có những nguyên tắc nhất định, mỗi cá
nhân buộc phải tuân theo mới đạt được hiệu quả là điều khiển được nhận thức,
thái độ và hành vi của người khác. Đối với mỗi cá nhân trong từng thời điểm, từng
hoàn cảnh, cần có những hành vi ứng xử phù hợp. Không thể có cách ứng xử
chung cho tất cả mọi người, ngay cả đối với bản thân ta tùy từng hoàn cảnh, tâm
trạng, mục đich...khác nhau cũng có cách ứng xử khác nhau. Tuy nhiên, một nét
chung nhất có thể dễ nhận thấy, giao tiếp ứng xử của con người - nhân tố trung
tâm của xã hội loài người phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức, văn hóa của
xã hội [4].
Ứng xử là sự phản ánh của con người đối với sự tác động của người khác
đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người
không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có
tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tùy thuộc vào tri
thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao
nhất. Ứng xử là một đề tài muôn thủa của phép “đối nhân xử thế” của người đời.
Ở mọi thời đại, mọi quốc gia, trong nền văn hóa của mình đều nói đến phép ứng
xử giữa người với người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Ứng xử là một biểu
hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tác động của người
khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện qua thái độ, hành
vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan
hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng

6


xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ,
hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người xung quanh.
Văn hóa (VH) là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Chỉ riêng VH ứng xử, về hình thức
nó làm nên vẻ đẹp kiêu sa và về nội tâm nó làm nên vẻ đẹp phải cảm nhận
mới thấy. Nhiều thập kỉ qua với lí do này hay lí do khác, bằng cách này cách
khác nhiều thói quen tốt tập quán tốt đã bị lãng quên mà nay cần phải được
“tái sinh”, bắt đầu từ “VH xếp hàng”, “VH gõ cửa”, “VH cảm ơn - xin lỗi” với
người dân trong xã hội.
Người có VH không nhất thiết phải là người có học vấn. Nền tảng của
VH phổ cập mà người ta thường dẫn ra để xem xét là “phông VH”, chính là
văn hóa ứng xử. Người xây dựng được cho mình một thói quen và tập quán
tốt trong đời sống thường nhật mà ta gọi là nếp sống VH, luôn tự tin và biết tự
trọng, không đành lòng làm việc xấu xa vô liêm sỉ, và sẽ bức rức, xấu hổ khôn
nguôi khi nghĩ tới việc đã một lần mình làm việc xấu xa đó.
Hành vi ứng xử của con người chịu sự chi phối của rất nhiều các yếu tố,
trong đó, những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học chỉ ra rằng, nhu cầu
được tham gia vào các mối quan hệ xã hội, mức độ gắn bó thân thuộc... ảnh
hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử của con người trong mối quan hệ với người
khác. Hành vi ứng xử có VH là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con
người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con
người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và
môi trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử có VH của mỗi
cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và
trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử có VH được coi là
các giá trị VH, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân được thể hiện thông qua
thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó được biểu hiện trong

mối quan hệ với những người xung quanh, trong học tập, công tác, với bạn bè
cùng trang lứa và thậm chí ngay cả với chính bản thân họ.
7


Giáo dục (GD) hành vi ứng xử có VH là quá trình tổ chức, yêu cầu, khuyến
khích người được giáo dục thực hiện những hành động, việc làm trong cuộc sống
của mình phù hợp với các chuẩn mực hành vi giao tiếp, ứng xử do xã hội qui định.
Đồ Sơn là một quận có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố Hải Phòng, trong đó nổi bật là hoạt động dịch vụ, du lịch ngày càng
gia tăng. Bên cạnh những thành tựu đó, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường
mối quan hệ giữa con người với con người, nhất là hành vi ứng xử còn tồn tại
nhiều nhược điểm những hiện tượng ứng xử vi phạm yêu cầu, chuẩn mực đạo
đức xã hội ngày một gia tăng.
Việc nghiên cứu bổ sung lí luận, đánh giá thực trạng và đề xuất một số
biện pháp giáo dục hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư là vấn đề có
ý nghĩa cấp thiết hiện nay. Đặc biệt, tại Việt Nam hiện nay chưa có công trình
nào nghiên cứu sâu về vấn đề này trên địa bàn quận Đồ Sơn thành phố Hải
Phòng.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Giáo dục
hành vi ứng xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố
Hải Phòng” để tiến hành nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất các biện pháp giáo
dục hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố
Hải Phòng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Giáo dục hành vi có văn hóa cho cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn,
thành phố Hải Phòng.

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục hành vi có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ
Sơn, thành phố Hải Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
8


Hành vi ứng xử của cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải
Phòng còn nhiều hạn chế, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và
hiệu quả của quá trình giao tiếp, hoạt động của địa phương - nơi có tiền năng
dồi dào trong phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch. Nếu các ban, ngành, đoàn
thể... nghiên cứu, xây dựng và áp dụng được những biện pháp mang tính khoa
học và hợp lí thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục hành vi ứng
xử có văn hóa cho cộng đồng dân cư, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng trong giai đoạn
hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về GD hành vi ứng xử có
VH cho cộng đồng dân cư.
5.2 Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng GD hành vi ứng xử có
VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
5.3 Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả GD hành vi ứng xử có
VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu về giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa cho
những người làm trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trong cộng đồng dân cư quận
Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng, từ đó bước đầu đề xuất, khảo nghiệm tính cần
thiết cũng như tính khả thi của các biện pháp đó.
6.2. Về địa bàn nghiên cứu

Đề tài chỉ khảo sát thực trạng hoạt động giáo dục hành vi ứng xử có
văn hóa cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
6.3. Về khách thể khảo sát
- Tổng số khách thể: 500 người, trong đó:
+ Người dân: 200 người (100 người làm trong lĩnh vực dịch vụ du lịch
và 100 người không làm trong lĩnh vực này).
9


+ Cán bộ quản lý: 50 người
6.4. Về thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1.Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng phối hợp các
phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích, tổng hợp thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu có
trong các văn kiện, văn bản, tài liệu.
- Hệ thống hóa các khái niệm để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Mô hình hóa lí thuyết
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Đề tài xây dựng phiếu hỏi nhằm thu thập các thông tin, số liệu về
thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn,
thành phố Hải Phòng.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Đề tài thực hiện phỏng vấn nhằm thu thập thông tin về nhận thức, nguyện
vọng của các giáo viên,cán bộ quản lí và học viên về thực trạng GD hành vi ứng
xử có VH cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Đồng thời

bổ sung, kiểm tra và làm rõ những thông tin đã thu thập được thông qua điều tra
bằng phiếu hỏi.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Quan sát các hình thức biểu hiện hoạt động GD hành vi ứng xử có VH
cho cộng đồng dân cư ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
7.2.4. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia về các biện pháp đề xuất trong
công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục hành vi ứng xử có văn hóa
cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
10


7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
7.2.6. Phương pháp khảo nghiệm
7.3. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu nghiên cứu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và các
phụ lục, nội dung nghiên cứu đề tài được cấu trúc theo ở 3 chương sau đây:
Chương 1: Cơ sở lí luận về GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng
dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Chương 2: Thực trạng GD hành vi ứng xử có VH cho cộng đồng dân
cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả GD hành vi ứng xử có VH
cho cộng đồng dân cư quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

11


Chương I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HÀNH VI ỨNG XỬ CÓ VĂN HÓA

CHO CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những năm gần đây, trong nhiều bài viết, giới nghiên cứu văn hoá có
nói tới cụm từ đời sống, nếp sống văn hoá. Đây là cụm từ mới được sử dụng
rộng rãi ở nước ta vào những năm 80, 90 của thế kỷ XX. Tiền thân của cụm
từ này là cụm từ đời sống mới, trong tác phẩm “Đời sống mới” của Hồ Chí
Minh, dưới bút danh Tân Sinh được viết vào tháng 3/1947, Người viết:
“Người là gốc của làng, nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới,
thì nhất định dân tộc sẽ phú cường”.
Bối cảnh ra đời cụm từ này là dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh đổ thực dân Pháp và
tầng lớp thống trị phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, khai sinh
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (mồng 2 tháng 9 năm 1945). Sau đó, chính
quyền nhân dân non trẻ bắt tay vào sự nghiệp kiến quốc và kháng chiến đánh
đuổi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Nhiệm vụ cấp bách đối với văn
hoá lúc đó là diệt giặc dốt, cổ động toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm, chống giặc đói, cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, xây
dựng đạo đức cách mạng và sửa đổi nề nếp sinh hoạt trong đời sống của mỗi
người, mỗi nhà và mỗi cộng đồng làng bản, đơn vị công tác. Đây là công việc
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, chưa từng có trong các giai đoạn lịch sử trước
đó nên được gọi là xây dựng đời sống mới. Đoạn văn mở đầu bài viết xác định
mục đích, nội dung của đời sống mới gồm:
Một là, thái độ ứng xử với cái cũ, cái mới trong đời sống của nhân dân
một cách hợp tình, hợp lý: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết.
Không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà
không xấu, nhưng nhiều phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà
tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì phải làm..." [ 22;6 - 7].
12



Hai là, gắn văn hóa với lao động sản xuất: “Làm thế nào cho đời sống
của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn”[ 22;7 ].
Ba là, gắn văn hóa với xây dựng đời sống tinh thần, làm cho dân
ta “tinh thần được vui mạnh hơn” [ 22;7 ].
Bốn là, xây dựng đạo đức mới: “Thực hành đạo đức cách mạng: Cần Kiệm - Liêm - Chính” [ 22;7 ].
Năm là, xây dựng nếp sống mới: “Việc trước tiên là sửa đổi cách ăn,
cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc” [22;8 ].
Trong bối cảnh trình độ học vấn của dân ta còn thấp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sử dụng từ "mới" thay cho từ "văn hoá" để cho dân dễ hiểu về xây dựng
đời sống văn hoá. Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận
cho việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
Đảng và Nhà nước ta đặt vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng
con người mới Việt Nam trong cả quá trình tiến hành cách mạng: Từ cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của Đảng ta chỉ rõ; Phải gắn chặt xây dựng nếp sống mới với xây
dựng con người mới.
Cho mãi tới những năm 80 của thế kỷ XX, trong chỉ đạo xây dựng đời
sống văn hoá, Đảng, Nhà nước vẫn sử dụng từ "mới" được hiểu là kết tinh
hàm lượng văn hoá, tri thức, cách tổ chức, giá trị mới trong xây dựng nếp
sống, nền văn hoá và con người. Ngày 15/1/1975, Ban Bí thư Trung ương
Đảng ban hành Chỉ thị số 214/CT-TW về việc thực hiện nếp sống mới trong
việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội. Văn kiện Đại hội IV (1976) của
Đảng: "Ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây dựng nước ta thành
một xã hội văn hóa cao’’.[2, 12 - 13].
Năm 1980, Ban Chỉ đạo Nếp sống mới Trung ương được thành lập ở
các cấp để chỉ đạo vận động xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hoá mới.
Cụm từ đời sống văn hoá xuất hiện trong văn kiện của Đảng từ Đại hội
IV, có đoạn viết: "Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hoá ở các vùng
13



kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở
miền núi và hải đảo" [23;10].
Đến Đại hội V (1982), Đảng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hoá, nhất là đời sống văn hoá ở cơ sở, coi đó là một chủ trương quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng văn hoá và con người: "Một nhiệm
vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc
sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng
vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng,
mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp, đều có đời sống văn hóa" [23, 19 - 21].
Sau Đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành một
phong trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác,
học tập tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng
thụ, sáng tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó, khái
niệm về đời sống văn hoá ngày một sáng tỏ.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã chỉ ra: “Hoàn
cảnh nước ta đòi hỏi và cho phép xây dựng sớm, xây dựng từng bước con
người mới, không phải chờ đến sau khi phát triển cao của nền sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa”.[22;10].
“Xây dựng nền văn hóa mới và con người mới là điều cần và có thể
thực hiện được từng bước, từng phần ngay từ hôm nay. Trong chặng đường
trước mắt này, có những điều kiện khách quan và chủ quan cho phép chúng ta
bước đầu tạo ra một xã hội đẹp về lối sống, về quan hệ giữa người và người,
một xã hội trong đó nhân dân lao động cảm thấy sống hạnh phúc, tuy mức
sống vật chất còn chưa cao”. “… đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư
tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước
hết trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và
trong từng gia đình... xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang,


14


lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật
tự công cộng”.[22;16 -19 ]
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng định hướng chăm lo
phát triển văn hóa: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh phong phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, xây dựng nếp sống văn
hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp làm cho
các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong
sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo
sức đề kháng đối với sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi
dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc
cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự
công cộng, mại dâm ma túy cờ bạc… góp phần giữ gìn và phát triển những
giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam…”.[31; 43-50].
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 với định hướng
“Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh
tế,… phát huy những giá trị tốt đẹp của các dân tộc, vừa tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại; Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường
văn hóa lành mạnh, coi trọng văn hóa trong lãnh đạo quản lý, văn hóa trong
kinh doanh và văn hóa trong ứng xử. Chú trọng xây dựng nhân cách con
người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống… Nâng cao chất lượng
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xây dựng xã,
phường, khu phố, thôn, bản đoàn kết dân chủ kỷ cương, văn minh, lành
mạnh.” [31, 52 - 56 ]
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998) đã đề ra 10 nhiệm vụ
cơ bản xây dựng nền văn hóa Việt Nam, xếp nhiệm vụ xây dựng môi trường

văn hóa ở vị trí thứ hai sau nhiệm vụ xây dựng con người. Nghị quyết đặt ra
mục tiêu của việc xây dựng môi trường văn hóa là: "Tạo ra ở các đơn vị cơ sở
15


(gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông
trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội...), các vùng dân cư (đô thị,
nông thôn, miền núi...) đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu
văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân". Đồng
thời Nghị quyết trên cũng chỉ ra những vấn đề quan tâm cụ thể của xây dựng
môi trường văn hóa là: "Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia
đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng
xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình,
nhà trường và xã hội [22; 19].
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng
cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống
văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị
và nông thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa,
vùng núi, biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các
thiết chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng
điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ
thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào quần chúng hoạt động văn hóa,
nghệ thuật".[ 22, 30 - 35].
Quan điểm của Đảng cũng chỉ rõ những nội dung cốt lõi trong xây
dựng nếp sống mới đó là:
- Xây dựng đời sống văn hoá ở các đơn vị cơ sở;
- Xây dựng gia đình, cộng đồng dân cư văn hoá;
- Xây dựng nếp sống văn minh;

- Xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hoá;
- Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, phong trào văn hoá, văn nghệ.

16


Và quy định rõ nội dung về việc xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
việc tang và lễ hội nhằm phát huy giá trị văn hóa cổ truyền, đồng thời bài trừ
những hủ tục trong các lĩnh vực này.
Lịch sử nghiên cứu về văn hóa, xây dựng nếp sống văn hóa Việt Nam,
thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng con người mới,
văn hóa mới, đắp ứng ngày càng cao nhu cầu hội nhập và phát triển của đất
nước, qua đó thể hiện rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng nếp
sống văn hóa cho người dân, trong công cộng xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hộ chủ nghĩa
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giáo dục
Trong cuốn Giáo dục học (tập 1) của Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên)
[25] cho rằng: Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tới người
được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Tác giả Nguyễn Lân trong từ điển tiếng Việt [20] xem: Giáo dục là một
quá trình có ý thức có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những
kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư
duy, để họ có thể có đầy đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã
hội.
Trong cuốn giáo dục học đại cương 1 của tác giả Nguyễn Sinh Huy
(chủ biên) [18] lại tiếp cận khái niệm Giáo dục (theo nghĩa rộng) ở phạm vi
rộng hơn: Giáo dục là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức
mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt

đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm
này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tố khác tạo nên
những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu của kinh
tế xã hội.
Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy:
17


Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một
cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa
người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những
kinh nghiệm xã hội loài người.
Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là
quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục.
Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo
dục để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo
đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục.
Theo nghĩa rộng này, giáo dục bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và giáo
dục theo nghĩa hẹp (tất cả những yếu tố trên tạo nên nét tính cách và phẩm
hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội).
Giáo dục (theo nghĩa rộng) không bó hẹp ở phạm vi là người được giáo
dục đang trong tuổi học (dưới 25 tuổi) và giáo dục không chỉ diễn ra trong nhà
trường. Ngày nay, chúng ta hiểu giáo dục là cho tất cả mọi người, được thực
hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng bằng
các phương tiện khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng
(truyền hình, truyền thanh, video, trực tuyến qua inernet,…) với các hình thức đa
dạng, phong phú. Ngoài ra quá trình giáo dục không ràng buộc về độ tuổi giữa
người giáo dục với người được giáo dục.
Giáo dục theo nghĩa hẹp
Như phần khái niệm theo nghĩa rộng đã trình bày ở trên, Giáo dục

(theo nghĩa hẹp) là một bộ phận cấu thành nên quá trình giáo dục tổng thể
(rộng): Là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, tình cảm, thái
độ, những nét tính cách, nhân cách, những hành vi và thói quen cư xử đúng
đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực tư tưởng - chính trị, đạo đức, lao động
và học tập, thẩm mĩ, vệ sinh,….
Như vậy, chúng ta nhận thấy quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp có chức
năng vượt trội là hình thành nhân cách cho con người. Nó được thực hiện trên
18


cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến hành vi; vừa lĩnh hội hệ
thống tri thức và giá trị, vừa thể nghiệm những kinh nghiệm thực tiễn bản
thân; vừa trau dồi học vấn, vừa tham gia hoạt động xã hội tập thể.
Để thực hiện quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) cần phải tiến hành nhiều nội
dung giáo dục như: Giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục lao động, giáo
dục thể chất, giáo dục hiểu biết quốc tế (hoà bình, hữu nghị, khoan dung, môi
trường, dân số,…) giáo dục an toàn giao thông, giáo dục giới tính,... Thông qua các
hệ thống các phương pháp giáo dục khác nhau và thường được tiến hành thông qua
sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động công ích, các hoạt động dạy học,
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp,…
1.2.2. Văn hóa
Bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào cũng đều có một nền văn hóa riêng,
nó ra đời và phát triển gắn liền quá trình hình thành và phát triển của dân tộc.
Trong nghiên cứu về văn hóa nhiều học giả cho rằng văn hóa (hiểu theo
nghĩa rộng) nói chung bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần. Theo
nghĩa rộng nhất của nó, văn hóa bao gồm những sáng tạo về vật chất và tinh
thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những tri
thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của
văn hóa. Văn hóa không tự hạn chế vào một số biểu hiện của đời sống tinh
thần. Nó là toàn bộ cuộc sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng

người. Như vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả những gì không phải là thiên
nhiên đều là văn hóa.
Văn hóa tinh thần cũng được hiểu theo hai nghĩa cơ bản rộng và
hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị, những
hoạt động tinh thần của con người. Taylor cho rằng “Văn hóa hiểu theo
nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán
khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Tiêu biểu cho cách hiểu này là A.K Vlêđốp: “Việc coi văn hóa tinh thần
19


chỉ là tổng hợp những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần
như là sự hoạt động sáng tạo tích cực của con người, như là sự sản xuất
cất giữ và sử dụng những giá trị tinh thần”.
Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn
tinh thần, những giá trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu biểu cho cách hiểu này là khái niệm
văn hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu
thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống
mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [19]
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người, loài người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong
suốt quá trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên
và văn hóa là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói văn hóa là sự
hóa thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nó
xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã hội, văn
minh quốc gia, văn minh nhân loại.

1.2.3. Cộng đồng và cộng đồng dân cư
1.2.3.1. Cộng đồng
* Khái niệm
Cộng đồng (community) được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ
thể sống/ cơ quan/ tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với các
khác” [Wikibedia, the free encyclopedia]. Trong khái niệm này, điều đáng
chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của
các thành viên. Tuy nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm này không chỉ
cụ thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là các loại thực vật,
cũng có thể là các loại động vật, cũng có thể là con người – cộng đồng người.

20


Cộng đồng là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành
viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết (gia đình, tình
bạn cộng đồng yêu thương) được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người
cảm thấy có tính cội nguồn. Và cộng đồng được xem là một trong những khái
niệm nền tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó mô tả những hình thức quan hệ
và quan niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính toán lợi ích có tính riêng
lẻ và được thỏa thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về
tinh thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu thế về giá trị.
Cộng đồng người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các
cộng đồng sinh vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng có
nhiều tuyến nghĩa khác nhau đồng thời cộng đồng cũng là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: xã hội học, dân tộc học, y học…
Khi nói tới cộng đồng người, người ta thường quy vào những “nhóm xã
hội” có cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm
chung của những thành viên trong cộng đồng.
Theo quan điểm Mác – Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các

cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các
thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành
cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác
của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực
cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt
động.
Quan niệm về cộng đồng theo quan điểm Mác – Xít là quan niệm rất
rộng, có tính khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc
trưng chung của nhóm người trong cộng đồng này chính là “điều kiện tồn tại
và hoạt động”, là “lợi ích chung”, là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”. “giá
trị”chung…Thực chất đó là cộng đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ.
Xuất phát từ tiếng La tinh, “cộng đồng” – communis có nghĩa là
“chung/công cộng/được chia sẻ với mọi người hoặc nhiều người”. Đặc điểm/
21


dấu hiệu chung của cộng đồng này chính là đặc điểm để phân biệt nó với cộng
đồng khác.
Dấu hiệu/ đặc điểm để phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác có
thể là bất cứ cái gì thuộc về con người và xã hội loài người, màu da, đức tin,
tôn giáo, lứa tuổi, ngôn ngữ, nhu cầu, sở thích nghề nghiệp… nhưng cũng có
thể là vị trí địa lý của khu vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó
như làng xã, quận huyện, quốc gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính là
những ranh giới để phân chia cộng đồng.
Theo từ điển xã hội học của Harper Collins, cộng đồng được hiểu là
“mọi phức hợp các quan hệ xã hội được tiến hành trong lĩnh vực kinh cụ
thể, được xác định về mặt địa lý, hàng xóm hay những mối quan hệ mà
không hoàn toàn về mặt cư trú, mà tồn tại ở một cấp độ trừu tượng hơn”.
Tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là một danh từ chung chỉ tập
hợp người nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan trọng: 1/ họ cùng tương tác

với nhau; 2/ họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với nhau) một hoặc một vài
đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó.
* Phân loại cộng đồng
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại cộng đồng theo
những dấu hiệu khác nhau. Trong một số tài liệu, người ta lại chia cộng đồng
theo 2 nhóm như sau [21]:
- Nhóm cộng đồng theo địa vực: thôn xóm, làng bản, khu dân cư,
phường xã, quận huyện, thị xã, thành phố, khu vực, châu thổ cho đến cả quả
địa cầu của chúng ta. Ở nước ta, ở quy mô tỉnh, thành phố thì chúng ta có 63
tỉnh, thành phố, theo quy mô xã phường thì chúng ta có trên chục ngàn xã,
phường, ở quy mô thôn xóm, khu dân cư (nhỏ hơn xã phường) thì chúng ta có
hàng trăm ngàn cộng đồng.
- Nhóm cộng đồng theo nền văn hóa: nhóm này bao gồm: cộng đồng
theo hệ tư tưởng, văn hóa, tiểu văn hóa, đa sắc tộc, dân tộc thiểu số… Nhóm

22


này cũng có thể bao gồm cả cộng đồng theo nhu cầu và bản sắc như cộng
đồng người khuyết tật, cộng đồng người cao tuổi.
- Nhóm cộng đồng theo tổ chức: được phân loại từ các tổ chức không
chính thức như tổ chức gia đình, dòng tộc, hội hè cho đến những tổ chức
chính thức chặt chẽ hơn như các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị, tổ
chức hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, xã
hội… từ phạm vi nhỏ ở một đơn vị hoặc trong phạm vi quốc gia cho đến
phạm vi quốc tế.
Cũng có thể phân loại cộng đồng theo đặc điểm khác biệt về kinh tế xã hội:
- Cộng đồng khu vực đô thị.
- Cộng đồng nông thôn.
Trong bối cảnh Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một chỉnh thể thống

nhất bao gồm những người dân (dân cư) sinh sống trong đơn vị hành chính cơ
sở: xã (địa bàn nông thôn), phường (địa bàn thành thị) hay đơn vị hành chính
dưới xã, phường, đó là thôn/ làng, bản (địa bàn nông thôn/ nông thôn miền
núi) và tổ dân cư/ khu dân cư (địa bàn thành thị) cùng với hệ thống các đoàn
thể, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề nghiệp… mà
những người dân đó là thành viên dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí
của Nhà nước.
Như vậy, cộng đồng là một đơn vị hành chính, kinh tế - xã hội có tính
độc lập tương đối so với các cộng đồng khác trong một quốc gia. Trong mỗi
cộng đồng có các thành viên cộng đồng là các cá nhân hoặc gia đình đang
sinh sống trên địa bàn, có những tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức xã hội
mà các thành viên cộng đồng tham gia sinh hoạt trên địa bàn dân cư, các tổ
chức kinh tế, dịch vụ mà thành viên cộng đồng tham gia làm việc (cũng có thể
thành viên không làm việc ở đó).
Ở Việt Nam ngày nay, các tổ chức chính trị - xã hội đó có thể là các tổ
chức trong khối Mặt trận tổ quốc xã phường: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
23


Chí Minh phường/ xã; Hội/ Chi hội Phụ nữ; Hội/ chi hội người cao tuổi; Hội/
chi hội Cựu chiến binh; Hội nông dân (đối với địa bàn nông thôn); tổ chức tôn
giáo (nếu có)… Tổ chức chính quyền: Ủy ban nhân dân; Hội đồng nhân dân;
một số tổ chức kinh tế địa phương: Hợp tác xã nông nghiệp; Hợp tác xã thủ
công, Doanh nghiệp… Các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn có Trạm Y tế xã/
phường; bệnh viện, trường học; tổ chức Đảng, chi bộ Đảng.
1.2.3.2. Cộng đồng dân cư
Cộng đồng dân cư là toàn thể những người cùng sinh sống trong một
cộng đồng lãnh thổ hoặc đơn vị hành chính,gắn bó thành một khối,giữa họ có
sự liên kết và hợp tác với nhau để cùng thực hiện lợi ích của mình và lợi ích
chung của xã hội.

1.2.3. Ứng xử và văn hóa ứng xử
Theo tác giả Lê Thị Bừng thì “Ứng xử là sự rphản ứng của con người
đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể
nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà
chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua thái độ,
hành vi, cử chỉ, cách nói năng - tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân
cách của mỗi người nhằm đạt kết quả giao tiếp cao nhất” [4].
Ứng xử không chủ động trong giao tiếp, không chủ động tạo ra hành
động nhưng chủ động trong thái đọ, phản ứng trước những thái độ, hành vi,
cử chỉ của người khác trong một tình huống cụ thể nào đó.
Ứng xử được thể hiện trong một tình huống giao tiếp cụ thể. Song không phải
mọi sự giao tiếp đều có sự ứng xử xảy ra.
Tâm lí học ứng xử là một khoa học nghiên cứu những tri thức tâm lí
cần thiết để phản ứng sự tác động của một tình huống giao tiếp cụ thể, lựa
chọn thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng thích hợp nhằm đạt kết quả trong
giao tiếp giữa người và người (đồng cảm lẫn nhau).
Theo nhà nghiên cứu, ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự
tác động từ thế giới xung quanh, từ người khác và từ chính bản thân mình
24


trong một tình huống cụ thể. Nó được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ,
cách nói năng - tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi
người.
1.2.4. Hành vi, hành vi ứng xử có văn hóa
Hành vi
Hành vi là toàn bộ những phản ứng, cách ứng xử của con người biểu
hiện ra bên ngoài trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định với sự điều khiển,
điều chỉnh của tâm lý, ý thức người đó.
Hành vi văn hóa

Hành vi văn hóa là cách ứng xử của con người trong một hoàn cảnh
nhất định bị chi phối bởi hệ thống giá trị văn hóa của dân tộc (hay một nhóm
người trong đó) mà cốt lõi là giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ, khiến cho
cách ứng xử mang đặc thù của dân tộc ấy.
Hành vi ứng xử có văn hóa
Hành vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của
con người, được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của
con người đối với bản thân, với những người chung quanh, trong công việc và
môi trường hoạt động hằng ngày. Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi
cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện và
trưởng thành của mỗi cá nhân trong xã hội. Hành vi ứng xử văn hóa của tuổi
trẻ được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗi cá nhân được
thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ, lời nói của mỗi cá nhân đó. Nó
được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, trong học
tập, công tác, với bạn bè cùng trang lứa và thậm chí ngay cả với chính bản
thân họ. Về hành vi ứng xử có văn hóa của giới trẻ hiện nay, có nhiều ý kiến
khác nhau. Tuy nhiên cần có cái nhìn khách quan khi đề cập về vấn đề này.
Có thể nói, tuổi trẻ ngày nay phần đông là những con người năng động, có
kiến thức rộng, sống có hoài bão và lý tưởng, đồng thời không ngừng học hỏi
vươn lên để dựng xây đất nước. Nhìn chung họ có những cách ứng xử tích
25


×