Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển nhất
định của kinh tế hàng hóa, của thành tựu chung văn minh nhân loại, là mô hình kinh
tế phổ biến của thế giới hiện nay. Đây là thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ
không phải là sản phẩm mang tính đặc thù của chủ nghĩa tư bản, mặc dù kinh tế thị
trường tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản là nhân tố quyết định sự tồn
tại và phát triển thích nghi, kéo dài của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã lợi
dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng
kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Sự vận hành cơ chế thị trường đã tạo nên động lực
khách quan, thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Việc áp dụng
và thực hiện mô hình kinh tế thị trường trên thế giới rất phong phú, đa dạng, trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau, gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất và
các quan hệ kinh tế, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công
nghệ. Qua quá trình vận động của thực tiễn, mô hình kinh tế thị trường đã có những
biến đổi, thích nghi để tồn tại và phát triển, hình thành nên các mô hình kinh tế thị
trường khác nhau ở các quốc gia, như: Kinh tế thị trường “phân tán” (tiêu biểu là
Mỹ); kinh tế thị trường xã hội (tiêu biểu là Đức); kinh tế thị trường xã hội “thương
lượng” (như Thụy Điển); kinh tế thị trường Nhà nước phúc lợi chung (Đan Mạch);
kinh tế thị trường cộng đồng hay kinh tế thị trường “phối hợp”, “hiệp đồng” (Nhật
Bản), hoặc như nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc,…
Cho đến nay, chưa thể khẳng định mô hình nào là khuôn mẫu chung cho tất cả
các nước khác nhau trên thế giới, mặc dù mô hình kinh tế thị trường kiểu Mỹ đang
được khuyếch trương rộng rãi nhờ vào sức mạnh kinh tế, quân sự, khoa học – công
nghệ của Mỹ cùng sự thao túng ủng hộ của IMF, WB, WTO,… Mặc khác, trong
những năm gần đây, các mô hình kinh tế thị trường của Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và
Đông Á tuy có nhiều sự chú ý, điều chỉnh nhưng đều có những biểu hiện trì trệ, khủng
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 1
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
hoảng. Trên thực tế hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện đường lối phát
triển kinh tế thị trường, đã có những thành công hay thất bại khác nhau: một số nước
thành công, đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định như các nước công nghiệp
mới ở Đông Á (NICs) và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs). Nhưng nhiều
nước lại thất bại: kinh tế tăng trưởng chậm, luôn bị khủng hoảng, thậm chí bị suy
thoái như các nước ở SNG thuộc CCCP (cũ), Đông Âu, Châu Phi và Mỹ La Tinh.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN khác ở Đông Âu vào cuối những
năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã bộc lộ rõ những khuyết tật của mô hình
kinh tế cứng nhắc phi thị trường, kế hoạch hóa tập trung. Nhưng sau đó, việc áp dụng
máy móc, rập khuôn trong quá trình tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường ở Liên Bang Nga và nhiều nước XHCN Đông
Âu cũng đã có những thất bại với hậu quả nghiêm trọng. Việc chuyển đổi và cải cách
mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường XHCN mang
đặc sắc Trung Quốc ở Việt Nam với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã thu
được những thành tựu to lớn, nhưng cũng phải trả giá không nhỏ.
Thực tế trên cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường rất
phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị
trường của nước này cho nước khác, mà phải chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng
tạo, quyết định và thực hiện mô hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh cụ thể của từng nước cụ thể. Trong phạm vi bài nghiên cứu này, học viên tập
trung làm rõ mô hình kinh tế thị trường xã hội Cộng hoà Liên bang Đức và phúc lợi
Bắc Âu, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 2
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
I. MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CỘNG HOÀ LIÊN
BANG ĐỨC VÀ PHÚC LỢI BẮC ÂU
1.1.Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu – “Nhà nước phúc lợi”
1.1.1.Bối cảnh kinh tế - xã hội liên quan đến mô hình “Nhà nước phúc lợi”
Bản đồ các nước bắc Âu
Các nước Bắc Âu (bao gồm Thuỵ Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy) trải qua
lịch sử phát triển lâu dài, đầy thăng trầm và có đặc điểm chung nổi bật là đều bắt
nguồn từ các hoạt động gắn liền với biển cả, chinh phục, khám phá và giao thương;
cùng nằm trên bán đảo Scandinnavi, có mối quan hệ truyền thống lâu đời, cùng chung
một nền tảng văn hoá và ngôn ngữ, cùng có những điểm tương đồng về con đường
phát triển.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 3
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Bắc Âu xét về lịch sử, tôn giáo có một điểm tương đồng là cả 4 nước đều tuân
theo tư tưởng học thuyết dòng Thánh Tin lành Evangenlical Luther, và coi là quốc
giáo. Dòng Luther Tin lành đề cao vai trò của giáo dục, tự giáo dục, khẳng định vai
trò thực thụ của mỗi cá nhân con người dấn thân vào xã hội, hoạt động, tham gia lao
động, sáng tạo. Tính tích cực đầu tiên của dòng Luther Tin lành là dân chủ hoá và phổ
cập giáo dục. Nó yêu cầu mọi cá nhân, nam cũng như nữ là phải biết đọc, biết viết.
Nhà thờ tôn giáo tin lành thể hiện sự quy phục nhà nước quân chủ, liên kết với giai
cấp thống trị, trở thành công cụ của Nhà nước nhận trọng trách chính là dạy cho moi
người dân biết đọc, biết viết và thực hành thêm các nhiệm vụ mới là chăm sóc cho
người nghèo, người ốm đau, người yếu thế trong xã hội.
Xét về kinh tế - xã hội, trong quá trình phát triển đất nước, các nước Bắc Âu
chủ yếu đều dựa vào phát triển nông nghiệp và nông nghiệp chiếm phần lớn lực lượng
lao động xã hội của cả 4 nước. Vì vậy, các đảng nông dân của các nước Bắc Âu rất
phát triển và có vị trí xứng đáng trong xã hội. Nền công nghiệp và dịch vụ cũng bắt
đầu được chính phủ các nước Bắc Âu chú trọng phát triển. Tuy nhiên, những thập kỷ
20, 30 của thế kỷ XX nền kinh tế Bắc Âu phụ thuộc phần lớn vào thị trường Anh,
Đức. Cả 4 nước Bắc Âu đều có mức đa dạng hoá rất cao về hàng hoá xuất khẩu và đạt
được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trong thời kỳ này. Trong số 4 nước Bắc Âu,
Đan Mạch là nước có quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá diễn ra mạnh mẽ hơn
cả. Na Uy cũng có sự phát triển đô thị hoá và công nghiệp hoá cao. Thuỵ Điển nói
riêng và ở 4 nước Bắc Âu nói chung từ những năm đầu 1930, do kết hợp giữa phát
triển công nghiệp và nông nghiệp, đa dạng hoá rất cao về hàng hoá xuất khẩu nên đã
đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Tuy vậy, đây cũng là giai đoạn xã hội Bắc
Âu gặp phải những vấn đề nan giải cần phải thoả hiệp giữa lợi ích của người dân
trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, giữa lợi ích của những người lao động có
tổ chức (công đoàn) và các chủ doanh nghiệp. Hàng loạt các vấn đề nghiêm trọng của
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 4
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
vùng nông thôn và ở các thành phố Bắc Âu đòi hỏi phải được giải quyết để tránh
những tác động tiêu cực của CNTB công nghiệp.
1.1.2. Đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường “Nhà nước phúc lợi” ở Bắc
Âu
Ở Thuỵ Điển, ngay từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX, đã hình thành mô hình đặc
biệt “Xã hôi phúc lợi”. Mô hình này đã phát triển đầy đủ sau chiến tranh thế giới lần
thứ II và bắt đầu mang tên “Mô hình Thuỵ Điển”
Còn tại các nước Bắc Âu khác, “nhà nước phúc lợi” được phân bỏ nguồn lực
chủ yếu dựa vào các cuộc thương lượng để tìm tiếng nói chung giữa công đoàn chủ
doanh nghiệp và người lao động. Sự thương lượng chinh là công cụ để tìm kiếm các
giải pháp trong phân bổ nguồn lực và trong phát triển. Các cuộc thương lượng chủ
yếu dựa vào trách nhiệm ràng buộc về chính trị, đạo đức nhiều hơn là các hình phạt
hoặc các quy chế pháp luật, vì vậy, đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
cơ cấu kinh tế, cân đối lạm phát đảm bảo chế độ làm việc toàn dụng, nâng cao mức
sống và thực hiện cơ chế tái phân bổ nguồn lực, chia sẻ công bằng hơn cho các nhóm
bất lợi trong xã hội. Đây được coi là khởi đầu cho mô hình nhà nước phúc lợi Bắc Âu
nhằm hướng tới một sự đồng thuận chính trị rộng rãi về con đường phát triển của
CNTB có sự điều tiết mạnh mẽ của Nhà nước.
Sau thế chiến thứ II (1945), Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu bắt đầu hình thành
những nhà nước phúc lợi hoàn thiện.
Mô hình nhà nước phúc lợi Bắc Âu kể từ khi ra đời có đặc điểm là mức chi tiêu
xã hội lớn, tài chính công cao, mức thuế cao, hệ thống lợi ích được hưởng phổ quát,
hào phóng, giúp khắc phục được những biến cố, rủi ro cá nhân và xã hội nảy sinh. Mô
hình này đã tạo ra hệ thống dịch vụ y tế, xã hội do nguồn tài chính công và nguồn tài
trợ chính quyền địa phương hỗ trợ nhằm đảm bảo chăm sóc mọi nhu cầu của toàn bộ
cư dân trong xã hội. Các chính phủ Bắc Âu rất tích cực quản lý nền kinh tế đất nước
nhằm đảm bảo việc làm đầy đủ đáp ứng những nhu cầu của thị trường. Các dịch vụ xã
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 5
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
hội nhằm tích cực hỗ trợ các gia đình và cá nhân người lao động, và có sự can thiệp
mạnh mẽ vào gia đình thông qua việc cung cấp các dịch vụ xã hội…
Chính sách mỗi nước là rất khác nhau, nhưng tựu trung, những yếu tố then chốt
đi đến thành công của các nước này gồm:
Thứ nhất, các nước bắc Âu đã theo chủ nghĩa tự do và trọng người tài từ rất
sớm. Ví dụ, ngay từ năm 1840, Thụy Điển đã bãi bỏ các ưu tiên cho tầng lớp quý tộc
vào các chức danh của nhà nước và tạo ra một dịch vụ dân sự trọng dụng người tài và
không có tham nhũng. Trường phái ủng hộ thị trường tự do luôn có những vị trí chủ
chốt trong chính phủ. Sự phân bổ nguồn lực theo các quy luật của thị trường tự do
được tận dụng tối đa, các doanh nghiệp tư nhân có quyền cạnh tranh bình đẳng với
các nhà cung cấp của chính phủ.
Thứ hai, tính thực tế và ý chí sắt đá là nền tảng tạo ra một chính phủ minh bạch
và trung thực. Khi phát hiện ra trục trặc thì cả hệ thống chính trị đã được huy động để
tìm giải pháp và điều chỉnh sao cho hợp lý hơn. Các đồng thuận mới có thể thay thế
những nguyên tắc cũ kỹ, lỗi thời một cách dễ dàng. Tính thực tế cũng giải thích tại
sao các nước này liên tục cập nhật và điều chỉnh mô hình phát triển của họ. Hơn thế,
thay vì kinh doanh hay làm ở khu vực tư nhân như nhiều nơi khác, rất nhiều người tài
ở các nước này đã vào làm việc tại khu vực nhà nước và đây được xem là vinh hạnh
của họ.
Thứ ba, vốn xã hội làm giảm chi phí giao dịch. Sự kết hợp của địa lý và lịch sử
đã tạo ra hai nguồn vốn cực kỳ quan trọng trong xã hội đó là sự tin tưởng vào người lạ
và niềm tin vào các quyền tự do cá nhân. Đây là vốn xã hội rất quý theo như phân tích
của Pierre Bourdieu, Robert Putnam cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác. Điều này
giúp giảm thiểu đáng kể các chi phí giao dịch – một rào cản rất lớn làm giảm hiệu quả
kinh tế như phân tích của Ronald Coase cùng nhiều người khác.
Thứ tư, tự chủ cá nhân là một trong những yếu tố then chốt. Sự kết hợp của
một quy mô nhà nước lớn với chủ nghĩa cá nhân có vẻ gì đó phi lý đối với nhiều
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 6
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
người, nhưng Lars Tragardh chỉ ra rằng đây không phải là vấn đề lớn vì người dân
cho rằng vai trò của chính phủ là thúc đẩy quyền tự chủ cá nhân và sự vận động của
xã hội. Các chính sách được thiết kế sao cho mỗi cá nhân có sự tự chủ cao nhất và ít
phụ thuộc vào người khác nhất. Ví dụ việc tách bạch thuế khóa và thu nhập giữa vợ
và chồng trong gia đình tạo ra tính tự chủ cho mỗi người. Việc tạo tính tự chủ cá nhân
này đã giúp cho mỗi người được đeo đuổi những mục tiêu ưa thích của mình và
không bị ràng buộc hay phụ thuộc vào những người khác. Đây có lẽ là một trong
những nguyên nhân chính để người dân ở các nước này vẫn chăm chỉ làm việc cho dù
thuế cao và phúc lợi xã hội hào phóng.
Na Uy: Mọi người dân đều là triệu phú
Trong giai đoạn 1870-1970, các nước bắc Âu đã có tốc độ tăng trưởng nhanh
nhất thế giới nhờ những cải cách tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh như việc
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 7
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
thiết lập các ngân hàng hay tư nhân hóa việc quản lý và khai thác rừng. Tuy nhiên, sự
mở rộng quy mô không có kỷ luật của nhà nước đã chặn đà tăng trưởng trong thập
niên 1970-1980. Sau đó, những người ủng hộ thị trường tự do đã tạo ra một kết quả
đáng kinh ngạc bằng việc quyết tâm cắt giảm các khoản chi tiêu công và thiết lập môi
trường kinh doanh tự do (Economist 2013). Thực ra, trong thập niên 1980-1990, các
nước này cũng đã trải qua những cuộc khủng hoảng hết sức nghiêm trọng. Theo Klas
Eklund (2011), sự ổn định gần đây và không bị tác động nhiều bởi cuộc khủng hoảng
năm 2008 của những quốc gia này là nhờ họ đã học được những bài học từ trước đó.
Kinh nghiệm và kỹ năng quản lý khủng hoảng của họ là điều nên học.
Tóm lại, công thức thành công của các nước bắc Âu thực ra không có gì là bí
mật cả. Tôn trọng các quy luật của thị trường, tôn trọng tự do của các cá nhân và một
nhà nước hữu hiệu vì lợi ích của người dân là chìa khóa thành công. Tuy nhiên đây là
điều rất khó bắt chước. Trong đó yếu tố xây dựng lòng tin để tạo ra một xã hội cố kết
là cực kỳ quan trọng. Hơn thế, mô hình này hiện đang gặp nhiều thách thức với tiến
trình toàn cầu hóa, người nhập cư gia tăng làm cho tính đồng nhất trong xã hội ở các
nước này giảm đi.
1.2. Mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Cộng hoà Liên bang Đức
1.2.1. Nền kinh tế thị trường xã hội
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường xã hội bắt nguồn từ quan điểm lý luận của
chủ nghĩa tự do mới (CNTDM). CNTDM xuất hiện ở nhiều nước phương Tây, đặc
biệt là Tây Đức với các đại biểu: L.Erlard, A.Mulerr-Armack, W.Rpoke, Ph.Bem,
L.Minks, R.Muler. Ở Tây Đức sau chiến tranh thế giới II, nền kinh tế đình đốn, có
liên quan đến thời kỳ Đức quốc xã với việc thực hành một nền kinh tế chỉ huy. Đầu
năm 1938, tổng sản phẩm quốc dân chỉ bằng 50% năm 1936, hàng hoá khan hiếm, đời
sống nhân dân giảm sút, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh. Các nhà lý luận Tây Đức lúc đó
đã nhận thức được lối ra khỏi khủng hoảng là quay đầu lại với Kinh tế thị trường
nhưng không phải là Kinh tế thị trường thuần tuý mà là Kinh tế thị trường xã hội.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 8
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường xã hội là một nền kinh tế thị trường kết hợp tự do cá
nhân, năng lực hoạt động kinh tế với công bằng xã hội.
Nền kinh tế thị trường xã hội không phải là nền kinh tế thị trường tư bản truyền
thống (cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20), không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá ở các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, cũng không phải là nền kinh tế thị trường hiện đại
của trào lưu tự do mới vì trào lưu này quá coi nhẹ vai trò của nhà nước và các vấn đề
xã hội.
Đây là nền kinh tế thị trường kích thích mạnh mẽ sáng kiến các nhân và lợi ích
toàn xã hội, đồng thời phòng tránh được các khuyết tật lớn của thị trường, chống lạm
phát, giảm thất nghiệp, quan tâm thực hiện công bằng xã hội. Các quyết đinh kinh tế
và chính trị của nhà nước được hoạch định trên cơ sở chú ý đến những nhu cầu và
nguyện vọng cá nhân.
Mô hình này theo đuổi các mục tiêu:
+ Bảo đảm và nâng cao tự do về vật chất cho mọi công dân bằng cách bảo đảm
cơ hội kinh doanh cá thể bằng một hệ thống an toàn xã hội.
+ Thực hiện công bằng xã hội theo nghĩa là công bằng trong khởi nghiệp và
phân phối.
+ Bảo đảm ổn định bên trong của xã hội (khắc phục khủng hoảng kinh tế, mất
cân đối).
Tư tưởng trung tâm của mô hình là:
+ Tự do thị trường, tự do kinh doanh, không có sự khống chế của độc quyền,
bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính độc lập
kinh tế và chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp, thừa nhận vai trò nhất định của
Nhà nước (để đảm bảo phối hợp sự tự do kinh tế với các quy tắc và chuẩn mực xã
hội).
+ Được tổ chức theo kiểu "sân bóng đá" (Ropke và Erhard nêu ra)
Trong đó:
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 9
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
- Xã hội là một sân bóng đá
- Các giai cấp và tầng lớp xã hội là các cầu thủ
- Nhà nước là trọng tài, đóng vai trò bảo đảm cho trận đấu diễn ra theo luật,
tránh khỏi những tai họa.
1.2.2. Các tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường xã hội
Thứ nhất, tuyệt đối đảm bảo quyền tự do cá nhân.
Các cơ quan nhà nước ra quyết định phi tập trung hoá và các thị trường vận
hành theo chức năng là điều kiện đầu tiên đảm bảo cho quyền tự do cá nhân trong lĩnh
vực kinh tế được thực hiện. Nhờ đó mà các tiến trình cạnh tranh kinh tế có thể hoạt
động bình thường theo chức năng của mình. Cạnh tranh được xem như một biện pháp
thí điểm và tìm lỗi. Đối với mọi cá nhân, triển vọng tìm kiếm được lợi nhuận gắn liền
với rủi ro và sự mạo hiểm, khả năng thất bại và thành công đối với mọi người là như
nhau.
Thứ hai, bảo đảm công bằng xã hội thông qua các chính sách xã hội của nhà
nước.
Thị trường tác động theo những quy luật lạnh lùng, vận hành theo chức năng
của nó, chỉ có thể phân phối thu nhập theo năng lực đóng góp của các cá nhân. Do đó,
những vấn đề khác mà thị trường không thể giải quyết được, nhà nước cần đảm nhận
bằng các chính sách xã hội tương ứng. Nhà nước có trách nhiệm xã hội “một mạng
lưới an ninh” để giúp đỡ những người chưa bao giờ, không thường xuyên hoặc hiện
thời không tham gia vào quá trình kinh tế và cần phải được bảo vệ khỏi những khó
khăn không phải do lỗi của họ.
Thứ ba, chính sách kinh doanh theo chu kỳ. Nhà nước phải có chính sách khắc
phục hậu quả của khủng hoảng chu kỳ, điều chỉnh mất cân đối.
Thứ tư, chính sách tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Chính sách này có nhiệm vụ tạo khung cơ sở hạ tầng và pháp lý không thể thiếu
nếu phát triển kinh tế được giải phóng khỏi tình trạng gián đoạn.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 10
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Thứ năm, chính sách cơ cấu. Được coi là tiêu chuẩn đặc trưng, hạt nhân trong
chính sách tăng trưởng. (Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu cách mạng
khoa học công nghệ, đào tạo con người,..).
Thứ sáu, bảo đảm tính phù hợp với cạnh tranh trên thị trường, ngăn ngừa sự
phá vỡ hay hạn chế cạnh tranh quá mức trên thị trường...
Ngày nay, lý thuyết này được phát triển thành lý thuyết "Xã hội có tổ chức",
"Xã hội phúc lợi chung".
1.2.3. Các chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường - xã hội
Cạnh tranh là yếu tố trung tâm không thể thiếu, để có hiệu quả phải có sự bảo
hộ của Nhà nước trên cơ sở tôn trọng quyền tự do của các xí nghiệp.
Chức năng cơ bản của cạnh tranh là:
+ Sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tối ưu
+ Khuyến khích tiến bộ kĩ thuật
+ Phân phối thu nhập
+ Thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng
+ Đảm bảo tính linh hoạt của sự điều chỉnh
+ Thực hiện kiểm soát sức mạnh kinh tế và chính trị
+ Đảm bảo quyền tự do lựa chọn và hành động cá nhân.
Các nhân tố đe dọa cạnh tranh là:
+ Từ chính phủ: có thể hạn chế, bóp méo cạnh tranh, với tư cách người quản lí
xã hội sẽ làm suy yếu cạnh tranh.
+ Từ phía tư nhân: về cơ bản đó là sự hình thành tổ chức độc quyền
Do đó, các nhà kinh tế học Đức cho rằng cần phải có biện pháp bảo vệ cạnh
tranh.
1.2.4. Yếu tố xã hội trong kinh tế thị trường - xã hội
Trong nền kinh tế thị trường xã hội, yếu tố xã hội có ý nghĩa như các yếu tố
kinh tế, thậm chí còn rất quan trọng. Mục tiêu của yếu tố xã hội trong nền kinh tế thị
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 11
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
trường xã hội là nâng cao mức sống của các nhóm dân cư thu nhập thấp, bảo trợ xã
hội đồng thời bảo vệ tất cả các thành viên trong xã hội.
Muốn giải quyết tốt các vấn đề xã hội cần phải:
+Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
+ Ổn định giá cả;
+ Phân phối thu nhập công bằng;
+ Bảo hiểm xã hội;
+ Phúc lợi xã hội;
1.2.5. Vai trò của Chính phủ
Trong nền kinh tế thị trường xã hội, các quá trình kinh tế - xã hội vận hành trên
nguyên tắc cạnh tranh có hiệu quả và phát huy cao độ tính chủ động và sáng kiến của
các cá nhân. Do đó, chính phủ chỉ can thiệp vào nơi nào cạnh tranh không có hiệu
quả, ở nơi cần phải bảo vệ và thúc đẩy cạnh tranh có hiệu quả. Nền kinh tế thị trường
xã hội đòi hỏi nhà nước phải mạnh. Song chỉ can thiệp với mức độ cần thiết và phải
dựa trên hai nguyên tắc:
- Nguyên tắc hỗ trợ:
Đây là nguyên tắc xác định chức năng của nhà nước phải khơi dậy và bảo vệ
các nhân tố của thị trường: kích thích phát triển các doanh nghiệp, đảm bảo cho họ
một hành lang pháp lý chắc chắn để họ tự sản xuất kinh doanh độc lập và thực hiện
một chính sách thị trường mở. Và quan trọng hơn, nhà nước phải có trách nhiệm ổn
định hẹ thống tài chính- tiền tệ, duy trì chế độ sở hữu tư nhân và giữ gìn trật tư an
ninh và công bằng xã hội.
- Nguyên tắc tương hợp:
Trong nền kinh tế thị trường xã hội, nguyên tắc hỗ trợ liên quan tới vấn đề nhà
nước có can thiệp hay không, thì nguyên tắc tương hợp đề cập tới việc sự can thiệp đó
nền thực hiện như thế nào?
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 12
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Nguyên tắc tương hợp là nguyên tắc làm cơ sở để nhà nước hoạch định các
chính sách kinh tế phù hợp với sự vận động của các quy luật trong nền kinh tế thị
trường, đồng thời phải dảm bảo được các mục tiêu kinh tế xã hội của mình. Trong đó,
bao gồm các chính sách: toàn dụng nhân lực, tăng trưởng, chống chu kỳ, thương mại
và chính sách đối với các ngành và các vùng lãnh thổ.
1.3.Những so sánh từ hai mô hình trên
Mô hình “Nhà nước phúc lợi” ở Bắc Âu không hoàn toàn dựa trên lý thuyết nền
kinh tế thị trường xã hội mà dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi người”. Tuy
nhiên, tựu trung lại, cả hai mô hình này có những điểm tương đồng sau:
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi
cho người nghèo và người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân...) cũng
là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế thị trường.
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu
tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà còn cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
– Mô hình kinh tế thị trường xã hội là một dạng biến thể của mô hình kinh tế thị
trường tự do. Nhưng nó có nội dung thực chất là sự gắn kết trên cơ sở thị trường một
cách hợp lý giữa các mặt kinh tế – xã hội và chính trị.
– Coi các thị trường chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ và coi
luật pháp, nhà nước, đạo đức,… không hề kém quan trọng hơn so với các chính sách
kinh tế, tài chính.
– Coi trọng vai trò điều tiết của nhà nước và phúc lợi xã hội.
Với những đặc trưng trên đây, tuy mô hình kinh tế thị trường xã hội là một biến
thể của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, song nó phản ánh một xu hướng tất yếu
của sự phát triển. Đó là đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện
cụ thể, tự kinh tế thị trường không thể giải quyết hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển,
nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế
vận hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng thúc đẩy
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 13
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
quá trình phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt nhất không chỉ tăng trưởng và
hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người. Như vậy, để đạt hiệu
quả cao nhất quá trình phát triển kinh tế thị trường, cần hướng tới mục tiêu xã hội và
phát triển con người. Phương thức để đạt mục tiêu đó không phải là phủ nhận thị
trường, xóa bỏ cơ chế thị trường mà là đặt nhà nước vào vị thế tham gia điều tiết và
định hướng sự phát triển kinh tế thị trường với tư cách là một yếu tố cấu thành bên
trong của cơ chế thị trường hiện đại. Mô hình thị trường xã hội còn chịu tác động của
trào lưu tư tưởng xã hội dân chủ. Khác với chủ nghĩa tự do định hướng hiệu quả khơi dậy động cơ vụ lợi của con người để cực đại hóa thịnh vượng xã hội, trào lưu xã
hội dân chủ xuất phát từ định hướng giá trị - mọi người sống trong xã hội phải được
bảo đảm cuộc sống phù hợp với nhân phẩm; tự do, bình đẳng là giá trị xuất phát và
hướng tới mục tiêu dân chủ. Để đạt giá trị ấy cần thực hiện nền kinh tế hỗn hợp, đa sở
hữu, trong đó kinh tế tư nhân là nòng cốt; nền chính trị đa nguyên; nhà nước phúc lợi
xã hội; bằng hệ thống bảo hiểm hoàn chỉnh, những chính sách công bằng tự do đã bảo
đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho mọi người. Có thể nói thị trường xã hội, dưới
tác động của nhà nước phúc lợi, tuy vẫn là kinh tế tư bản, nhưng so với Tây Âu và
Bắc Mỹ, đời sống xã hội ở các nước Bắc Âu dân chủ và công bằng hơn, nhân đạo và
đồng thuận hơn. Đó là một bước tiến của nền kinh tế thị trường và văn minh chính trị.
Nhưng trong phạm vi chủ nghĩa tư bản, kinh tế tư nhân còn là nòng cốt thì không thể
thực hiện được những chính sách thực sự vì xã hội, vì con người, tác dụng của nhà
nước phúc lợi cũng có giới hạn.
II. RÚT RA NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Mỗi một mô hình kinh tế thị trường trên đây đều có những nét ưu việt cùng
những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Chưa có cơ sở chắc chắn để khẳng định mô
hình nào sẽ thắng thế lâu dài và có khả năng trở thành một hình mẫu chung cho tất cả
các nước khác nhau trên thế giới. Tuy vậy, hiện nay mô hình kinh tế thị trường kiểu
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 14
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Mỹ đang ưu thế, vì trong những năm gần đây các mô hình kinh tế thị trường của Đức,
Nhật Bản, Thụy Điển và Đông Á đều trì trệ, khủng hoảng. Trong khi đó, mô hình kinh
tế thị trường kiểu Mỹ dựa trên lý thuyết kinh tế Tân tự do và dựa vào sức mạnh kinh
tế, quân sự, khoa học – công nghệ của Mỹ cùng sự ủng hộ của IMF, WB, WTO,…
được khuyếch trương rộng rãi. Từ đó, nhà cầm quyền Mỹ tự cho phép mình đặt ra luật
lệ cho “cuộc chơi” và chi phối các tổ chức quốc tế đa phương để điển hình hóa mô
hình kinh tế thị trường của Mỹ thành kiểu mẫu đem chuyển giao cho các nước đang
phát triển và các nước đang chuyển đổi dưới tên gọi “Đồng thuận Oa-sinh-tơn”.
Hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị
trường đã thu được những thành công hay thất bại rất khác nhau: có một số nước
thành công, đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định như các nước công nghiệp
mới ở Đông Á (NICs) và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới (NIEs). Nhưng nhiều
nước lại thất bại: kinh tế tăng trưởng chậm, luôn bị khủng hoảng, thậm chí bị suy
thoái như các nước ở châu Phi và Mỹ La-tinh.
Từ sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, Liên bang
Nga và nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đã tiến hành chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhưng việc áp dụng
máy móc, rập khuôn đã thất bại với hậu quả nghiêm trọng. Trong khi đó, Trung Quốc
có điểm xuất phát thấp hơn đã tiến hành chuyển đổi và cải cách mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Cách tiếp cận
này, vừa đổi mới, vừa đúc rút kinh nghiệm và khái quát lý luận làm căn cứ cho việc
triển khai các bước cải cách thể chế tiếp sau, nhằm đạt mục tiêu xây dựng một nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Quá trình chuyển đổi
sang mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã thu được những
thành tựu to lớn, tuy có phải trả những khoản học phí không nhỏ. Bài học quý báu cả
về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, cả trong thành công cũng như thất bại đang tiếp
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 15
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
tục phát triển, bổ sung, hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc
Trung Quốc.
Thực tế trên cho thấy, thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết sức
phong phú, đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị
trường của nước này cho nước khác được. Nó luôn là bài toán đầy thách thức đối với
bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường. Do đó mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc cần thực sự cầu thị, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của các nước khác. Không nên
rập khuôn, máy móc theo bất cứ một mô hình ngoại lai nào. Phải phát huy hiệu quả
nội lực kết hợp thu hút các nguồn ngoại lực, chủ động nghiên cứu tìm tòi để sáng tạo,
quyết định và thực hiện mô hình kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
cụ thể của đất nước mình.
Quán triệt tinh thần đó, công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định “phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI xác
định “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN” là một trong ba đột phá chiến
lược giai đoạn 2011- 2020. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục
khẳng định, nước ta xây dựng mô hình kinh tế “Nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng XHCN”.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Đây là giai đoạn lịch sử, các yếu tố xã hội chủ
nghĩa đang phát triển từng bước từ thấp lên cao. Trong trạng thái quá độ này có sự tồn
tại đan xen của rất nhiều yếu tố phức tạp. Trạng thái này làm cho chúng ta khó nhận
biết được đúng, sai và khó xác định được các thang bậc định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 16
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác với bản chất kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được hiểu là: “Hệ thống luật pháp, thể lệ, quy định,… của Nhà nước và các chủ thể
kinh tế tham gia thị trường được xây dựng, vận hành và hoạt động sao cho vừa đảm
bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt
hơn”. Do đó, mô hình thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bao giờ
cũng gắn bó hữu cơ với những bộ phận cấu thành phương thức sản xuất đang phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phác thảo (mang tính chấm phá) đăc điểm một số mô hình kinh tế thị trường
của các nước, một mặt vừa cho chúng ta thấy tiến trình vận động, phát triển của kinh
tế thị trường nhân loại; mặt khác, qua những mô hình kinh tế thị trường khác nhau đó,
có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, kết hợp hài hòa giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với tạo điều kiện cho
mỗi cá nhân được tự do tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tự do cạnh
tranh, tự do trao đổi trong khuôn khổ luật pháp và trên cơ sở tín hiệu, sự điều tiết của
thị trường. Nhờ đó vừa cho phép khai thác có hiệu quả cao tiềm lực (về vốn, tay nghề,
tư liệu sản xuất…) của mỗi cá nhân trong xã hội để kích thích năng lực nội sinh, tạo
động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; tận dụng triệt để những ưu thế của thị trường;
vừa hạn chế được sự phân cực giàu – nghèo do thuộc tính của thị trường gây ra.
Đường lối nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và gần đây nhất là
Nghị quyết TW 5 ( khóa IX ) về phát triển kinh tế tư nhân; kinh tế tập thể; công
nghiệp hóa hiện, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với sự tham gia của mọi thành
phần kinh tế, cùng những thành tựu xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa; xóa
đói, giảm nghèo; chương trình phát triển vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn … ở nước
ta thời gian qua, được thế giới đánh giá cao là những minh chứng cho sự kết hợp hài
hòa giữa đảm bảo phúc lợi xã hội với phát triển kinh tế thị trường tư nhân phù hợp với
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 17
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đồng thời, những chính sách, thành tựu đó cần tiếp tục
được thực thi một cách nhất quán với hiệu quả ngày càng cao hơn.
Thứ hai, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đời sống kinh tế – xã
hội; nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đoàn thể như: Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn thanh niên Cộng sản, Công đoàn, Hội phụ nữ…. Đồng thời tăng cường
kiểm tra việc ký thỏa ước lao động tập thể và ký kết hợp đồng lao động; mở rộng bàn
bạc thảo luận công khai dân chủ để vừa tạo sự nhất trí về tư tưởng, hành động và sự
đồng thuận, đồng hướng về lợi ích; vừa đảm bảo lợi ích hợp pháp của người lao động
và của người sử dụng lao động. Trên cơ sở đó vừa phát huy hết trí tuệ, tính năng động
sáng tạo cá nhân, vừa đảm bảo kỷ cương, phép nước và sự phát triển kinh tế – xã hội
theo định hướng, mục tiêu thống nhất.
Thứ ba, gắn liền với thực thi dân chủ trong kinh tế, chính trị, xã hội là tăng
cường và nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội
của Nhà nước. Yêu cầu đặt ra ở đây trước hết là phân biệt vai trò, chức năng kinh tế
của Nhà nước với sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào những hoạt động kinh tế có
tính nghiệp vụ trong từng doanh nghiệp. Vai trò quản lý xã hội và điều tiết kinh tế vĩ
mô ngày càng gia tăng, còn sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào kinh tế vi mô thì
phải giảm dần; phải tôn trọng những nguyên tắc, thể chế của thị trường.
Công cuộc cải cách, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nói
chung, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nói
riêng ở Việt Nam, do vậy cần được đẩy mạnh và thực hiện một cách đồng bộ.
Thứ tư, xây dựng chiến lược giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ quốc gia
gắn với chiến phát triển kinh tế – xã hội. Nói cách khác, chiến lược giáo dục – đào
tạo, chiến lược khoa học – công nghệ phải là bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội.
Vì vậy, cải cách đồng bộ hệ thống giáo dục – đào tạo bao gồm: nội dung,
phương pháp, diều kiện dạy và học, đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý cũng
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 18
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
như phương pháp, cách thức quản lý giáo dục – đào tạo để giáo dục – đào tạo thực sự
là quốc sách hàng đầu trở thành một yêu cầu cấp bách trong phát triển đất nước.
Song song với giáo dục – đào tạo là phát triển năng lực khoa học – công nghệ,
để khoa học – công nghệ “thấm vào máu thịt của cuộc sống”; tham gia trực tiếp và có
hiệu quả vào việc giải quyết những yêu cầu cuộc sống đặt ra, mở đường cho sự phát
triển sản xuất, là động lực mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
đất nước. Vì vậy, một mặt vừa phải thu hút được sự tham gia của mọi tầng lớp dân cư,
nọi thành phần kinh tế vào “dòng chảy“ phát triển khoa học – công nghệ, vừa phải
thay đổi cách thức quản lý khoa học – công nghệ từ kiểu dàn trải, bao cấp sang quản
lý theo những nguyên tắc của thị trường; mặt khác, xây dựng cơ chế phối hợp với
những quy định rõ ràng về trách nhiệm, quyền lợi giữa cơ quan nghiên cứu với cơ
quan thụ hưởng; giữa các cơ quan nghiên cứu, các trường với doanh nghiệp.
Thứ năm, cần phân biệt rõ ràng vấn đề độc quyền của Nhà nước với sự độc
quyền của doanh nghiệp và đầu tư Nhà nước chỉ hướng trọng tâm vào những ngành,
những lĩnh vực nhiều rủi ro hoặc tư nhân chưa đủ tiềm lực về tài chính, kỹ thuật, hoặc
tư nhân không muốn đầu tư. Còn những ngành, lĩnh vực nào tư nhân có khả năng đầu
tư và đầu tư có hiệu quả (trừ lĩnh vực luật pháp cấm) thì Nhà nước tạo điều kiện thuận
lợi để kinh tế tư nhân phát triển; nâng đỡ, hỗ trợ, định hướng, hướng dẫn cho kinh tế
tư nhân hoạt động.
Thứ sáu, chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN, ở góc độ xem xét tổng quát và có tính tương đối,
có thể thực hiện theo hai phương thức (liêu pháp)” sốc” và tuần tự. Mỗi phương thức
chuyển đổi đều có những ưu điểm và khuyếm khuyết riêng. Vì vậy cần kết hợp một
cách linh hoạt cả hai phương thức này để không gây nên những bất ổn về kinh tế – xã
hội, nhưng vừa có những giải pháp mang tính đột phá trong quá trình chuyển đổi..
Đồng thời, phải xây dựng được lộ trình chuyển đổi với những mục tiêu cụ thể, rõ
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 19
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
ràng; những bước đi thích hợp cùng một ý chí, sự nhất quán cao của việc thực hiện lộ
trình và đạt mục tiêu.
Thứ bảy, phải xác định rõ rằng chủ sở hữu trên cả hai phương diện: phương
diện một phạm trù kinh tế và phương diện pháp lý,trong các loại hình sản xuất kinh
doanh. Đồng thời tạo tâm lý thuận lợi, môi trường hoạt động bình đẳng và cạnh tranh
bình đẳng của mọi thành phần kinh tế thông qua chính sách vĩ mô và luật pháp.
Thứ tám, Nhà nước phải chủ động, năng động trong việc tạo ra và phát triển cơ
sở hạ tầng cũng như các loại thị trường. Đồng thời bộ máy Nhà nước phải thật sự gọn,
nhẹ, hiệu quả, hiệu lực, trong sạch, trong suốt và không ngừng được hoàn thiện.
Thứ chín, toàn cầu hóa, khu vực hóa đã trở thành xu hướng vận động chính của
nền kinh tế thế giới. Vì vậy, trong thời đại ngày nay không một nền kinh tế nào có thể
tồn tại, phát triển trong sự co cụm, khép kín. Do đó, mỗi doanh nghiệp cũng như toàn
bộ nền kinh tế phải chủ động tham gia vào sự phân công lao động, liên kết, hợp tác,
cạnh tranh khu vực và quốc tế, trên cơ sở khai thác tốt nhất lợi thế của mình. Đồng
thời những công cụ, biện pháp bảo hộ mậu dịch sẽ phải giảm dần và tiến tớùi loại bỏ
trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng.
Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là mô hình
chưa có tiền lệ trong lịch sử cả về lý luận lẫn thực tiễn. Vì vậy, vừa phải tiến
hành trong thực tiễn, nhưng đồng thời cũng phải không ngừng nghiên cứu để
khái quát thành lý luận. Và đây là quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều
giai đoạn; đòi hỏi phải thực thi có hiệu quả cao đồng bộ nhiều giải pháp, chính
sách khác nhau một cách linh hoạt, uyển chuyển .
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 20
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
KẾT LUẬN
Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển của Mác đều khẳng định tính tất yếu
và phổ biến của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc.
Do vậy, đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua kinh tế thị trường, để giải quyết
được vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển kinh tế thị trường theo đúng nghĩa;
phải tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát huy cao nhất năng lực phát triển của
thị trường để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ trên cơ sở đó, xét theo mục tiêu chiến
lược, mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhờ đó, có điều kiện vật chất và tinh thần để
đáp ứng các mục tiêu xã hội và nhân văn.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy nhất
(phát triển thành kinh tế TBCN), cũng không theo một mô hình đơn nhất (thị trường
tự do). Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển kinh tế thị
trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn
cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc. Một quốc gia đi sau không nhất thiết
phải vận dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không nhất thiết phải rập khuôn
các mô hình kinh tế thị trường có sẵn ở đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết
các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình.
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 21
Tiểu luận Mô hình Kinh tế thị trường
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X và XI, Nxb. CTQG, Hà Nội.
3.
/>
hoi-o-chlb-duc
4. Nils Goldschmidt, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Đức: Cội
nguồn tư tưởng và thực tế ngày nay
5. />6. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lịch sử
các học thuyết kinh tế nâng cao, Nxb.CTQG, HN-2014
Nguyễn Thị Nga, lớp KTCT KTT – K22
Trang 22