Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Skkn biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực trong môn vật lí trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 30 trang )

1

I. TÊN ĐỀ TÀI:
BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC CHO HỌC SINH
THEO HƯỚNG DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG MÔN VẬT LÍ
TRUNG HỌC CƠ SỞ.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tầm quan trọng và lí do chọn đề tài:
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất
nước, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục là đổi mới sâu sắc và toàn
diện phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo
của học sinh, bồi dưỡng cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng
say mê học tập và ý chí không ngừng vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới giáo dục phổ thông
hiện nay là rèn luyện cho học sinh kĩ năng vận dụng kiến thức học được vào
thực tiễn đời sống. Do đó, việc tăng cường rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh
trong dạy học vật lí ở trường trung học cơ sở là rất cần thiết.
Trong dạy học vật lí, việc cho học sinh tiếp cận với sách giáo khoa và giải
các bài tập là một trong những biện pháp hữu hiệu để rèn luyện cho học sinh
trong hoạt động nhận thức cũng như thực hiện các thao tác tư duy ngày một
chính xác hơn. Bên cạnh đó, đối với giáo viên, hoạt động chính trong các giờ
dạy học vật lí là tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện cho học sinh thực hiện thành
công hoạt động nhận thức, để họ tái tạo được kiến thức, kinh nghiệm xã hội và
biến chúng thành vốn liếng của mình.
Thế nhưng, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học tích cực
ở trường trung học cơ sở chưa được là bao, phổ biến vẫn là cách dạy theo
phương pháp truyền thống, thông báo kiến thức định sẵn, dạy học theo một
chiều, học sinh thụ động, chưa có thói quen tự học. Mặc dù, trong những năm
gần đây, Phòng GD-ĐT Đại Lộc và trường tôi đã tổ chức nhiều hội thi giáo viên
dạy giỏi, đã xuất hiện nhiều tiết dạy tốt theo hướng dạy học tích cực, tổ chức cho
học sinh hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức mới nhưng tình trạng chung hằng ngày




2

vẫn là “Thầy đọc – trò chép”. Nếu cứ tiếp tục dạy và học thụ động như vậy thì
giáo dục sẽ không đáp ứng nỗi những yêu cầu mới của xã hội, của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vậy, để khắc phục những hạn chế như đã nêu ở trên và nâng cao hiệu quả
trong giảng dạy thì yêu cầu đối với giáo viên là phải thường xuyên nghiên cứu,
sử dụng những thành quả của những môn khoa học có liên quan, cần phải tiếp
thu những thành tựu tiên tiến, những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy
theo hướng đổi mới, cần tìm ra phương pháp tác động đúng quy luật và phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
Một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học là
biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh. Kĩ năng tự học giúp học sinh
có khả năng học tập, tự học để có thể tồn tại, phát triển trong xã hội tri thức và
hội nhập quốc tế. Do vậy, hình thành và phát triển kĩ năng tự học cho học sinh là
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong dạy học vật lí ở trường THCS. Đặc biệt, yêu
cầu dạy học theo hướng tích cực hiện nay là phải đảm bảo cơ hội học tập cho
từng học sinh, các em được tham gia vào quá trình học tập, xây dựng nội dung
bài học, họ thực sự là chủ thể của hoạt động dạy học, tất cả đều được nhận sự
quan tâm từ giáo viên, cần ưu tiên đến học sinh gặp khó khăn trong học tập. Mỗi
học sinh đến trường đều phải được học và học được… Chính vì những lí do trên
mà tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho
học sinh theo hướng dạy học tích cực trong môn Vật lí trung học cơ sở”.
2. Giới hạn nghiên cứu đề tài:
- Phạm vi nghiên cứu: Rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh theo
hướng dạy học tích cực trong môn Vật lí trung học cơ sở.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối lớp 8 và 9 (gồm các lớp 8 1, 82, 91,
92 ) trường THCS Kim Đồng, xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

- Thời gian nghiên cứu:Từ năm học 2014-2015 đến năm học 2015- 2016
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN


3

1. Quan niệm về tự học:
Lúc đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề tự học và
tự đào tạo. Người cho rằng: Tự học chính là sự nỗ lực, sự làm việc có kế hoạch
của người học trên tinh thần chủ động và cần có một môi trường để học tập.
Theo Nguyễn Cảnh Toàn - Quá trình dạy-tự học, NXB giáo dục 2001. Tự học là
tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)
cùng với các phẩm chất của bản thân ( trung thực, khách quan, kiên trì, nhẫn nại,
sự say mê khoa học) để chiếm lĩnh một tri thức nào đó của nhân loại, biến lĩnh
vực đó thành sở hữu của mình”.
Với những cách diễn đạt khác nhau, các tác giả đều có sự thống nhất
trong quan niệm về tự học rằng: Tự học là quá trình tự giác, tự chủ trong hành
động, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo; trong đó
người học thực sự là chủ thể của quá trình nhận thức, nỗ lực huy động các chức
năng tâm lý, tiến hành hoạt động nhận thức nhằm đạt được mục tiêu đã định. Tự
học là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục, đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao tri thức và hiệu quả dạy học. Tự học là nội lực quyết định chất
lượng học tập, còn hoạt động dạy học là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích
thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học. Quá trình dạy
học chỉ có kết quả tốt khi người học tự nỗ lực, tự học để nắm vững những tri
thức mà nhân loại đã tích lũy được. Trong học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa
là người học tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Như vậy, có thể
hiểu tự học là một bộ phận của việc học tập, là sự nỗ lực của mỗi cá nhân nhằm
đạt đến một mục đích nào đó trên con đường chiếm lĩnh kho tàng tri thức của

nhân loại. Sự nỗ lực đó của con người bao gồm cả tư duy, trí tuệ, động cơ tâm
lý, thái độ và tình cảm.
Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá
trình biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục).
Tự học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của


4

nhà trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường phổ thông.
2. Quan niệm về kĩ năng tự học:
Kĩ năng tự học là cách thức lựa chọn và thực hiện các hành động học tập
do học sinh chủ động, tự giác tiến hành để đạt tới mục tiêu học tập của cá nhân.
Kĩ năng tự học được biểu hiện ở hành động và năng lực tự học của mỗi cá nhân.
Nói cách khác, năng lực tự học được biểu hiện ra ở kĩ năng tự học. Để tự học có
kết quả, người học phải có một số kĩ năng tự học cơ bản sau: kĩ năng đọc sách,
ghi chép, ôn tập và hệ thống hóa bài học; kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; kĩ năng
tìm tài liệu, làm việc với nhóm; kĩ năng lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch; kĩ
năng tự nghiên cứu...Các kĩ năng tự học có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, bổ sung
cho nhau và có ý nghĩa quyết định đến kết quả tự học. Vì vậy, để hình thành và
phát triển kĩ năng tự học Vật lí cho học sinh đòi hỏi kết hợp nhiều biện pháp
trong quá trình dạy học và rèn luyện trong một thời gian dài với sự nỗ lực cao
của mỗi học sinh.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức, tự học trong trường là tự
học có hướng dẫn. Vì vậy, hoạt động tự học của học sinh có những dấu hiệu đặc
trưng như: Học sinh phải tìm ra kiến thức bằng chính hoạt động của mình. Học
sinh tự thể hiện mình, tự đặt mình vào tình huống, nghiên cứu cách xử lý, tự
trình bày, tự bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình trước cách ứng
xử của bạn, tập giao tiếp, tập hợp tác với mọi người trong quá trình tìm ra tri

thức.
Giáo viên là người hướng dẫn học sinh nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự
thể hiện mình trong lớp học. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn lớp hoạt
động, là trọng tài, cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại giữa học
sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh để khẳng định kiến thức do học
sinh tự tìm ra và cũng là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học sinh;
học sinh tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi hợp


5

tác với bạn và dựa vào kết luận của giáo viên, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự
hoàn thiện, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống, cách giải
quyết vấn đề của mình.
Năng lực tự học là khả năng tự mình tìm tòi, định hướng nhận thức và vận
dụng kiến thức vào giải quyết tình huống. Nói đến năng lực tự học là nói đến tri
thức của người học về phương pháp tự học, kinh nghiệm tự học và thái độ, ý chí,
tinh thần tự học. Năng lực tự học được coi là một nguồn nội lực quý giá tìm ẩn
trong bản thân mỗi con người, là năng lực hết sức quan trọng mà mỗi người cần
phải có vì có năng lực tự học mới có thể tự học suốt đời được.
Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh là con đường mà giáo viên đưa học
sinh của mình đến với chân lý khoa học bằng chính hoạt động của họ. Do vậy,
phát triển năng lực tự học cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp họ
đào sâu, mở rộng kiến thức, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp và
phát triển toàn diện, đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia vào quá
trình học tập, xây dựng nội dung bài học, học sinh thực sự là chủ thể của hoạt
động dạy học, tất cả đều được nhận sự quan tâm từ giáo viên đặc biệt là học sinh
gặp khó khăn trong học tập.
3. Các kĩ năng đặc trưng, phù hợp với kĩ năng tự học vật lí:
3.1. Kĩ năng nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề: Đòi hỏi học sinh biết

quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, suy luận, tổng quát hóa, khái quát hóa các
kiến thức vật lí. Suy xét từ nhiều góc độ, có hệ thống trên cơ sở những tri thức,
kinh nghiệm cá nhân phát hiện ra những khó khăn, thách thức, mâu thuẩn cần
giải quyết, các điểm chưa hoàn chỉnh cần bổ sung, các nghịch lí cần làm sáng
tỏ… Bồi dưỡng năng lực nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề, tạo cho học sinh
thói quen hoạt động trí tuệ, luôn tích cực khám phá, tìm tòi, tạo động cơ học tập
cho học sinh.
3.2. Kĩ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng trình bày giả thuyết, xác định
cách thức và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, khảo sát các khía cạnh, thu thập và
xử lý thông tin, đề xuất các giải pháp, kết luận. Cần chú trọng bồi dưỡng cho


6

học sinh năng lực giải quyết vấn đề vì nó vừa là công cụ nhận thức đồng thời là
mục tiêu của việc dạy cho học sinh phương pháp tự học.
3.3. Kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn: Quá trình học tập của học
sinh là quá trình rèn luyện tư duy trong phát hiện vấn đề, vận dụng tư duy trong
việc giải quyết vấn đề. Kết quả phải được thể hiện trong thực tiễn cuộc sống,
hoặc là học sinh vận dụng kiến thức đã học để nhận thức, cải tạo thực tiễn, hoặc
trên cơ sở kiến thức và phương pháp đã có, học sinh nghiên cứu, khám phá, thu
nhận thêm kiến thức mới.
3.4. Kĩ năng đánh giá và tự đánh giá: Trong dạy học tích cực đề cao vai
trò tự chủ của học sinh, phải tạo điều kiện, khuyến khích và bắt buộc học sinh
đánh giá và tự đánh giá. Đồng thời, kết quả tất yếu của việc rèn luyện các kĩ
năng phát hiện và giải quyết vấn đề đòi hỏi học sinh luôn phải đánh giá và tự
đánh giá, biết chính xác năng lực của mình mới có thể tự tin trong việc phát hiện
vấn đề, giải quyết vấn đề và áp dụng kiến thức.
4. Vai trò quan trọng của quá trình tự học:
4.1. Tự học đóng vai trò cốt lõi của hoạt động học: Kết quả của tự học bao

giờ cũng là sự chiếm lĩnh tri thức, biến kiến thức chung của nhân loại thành kiến
thức riêng của mình. Người học sẽ không thể nhớ và cũng không thể vận dụng
được những kiến thức đó vào thực tiễn nếu như họ không hiểu. Vì vậy, tự học là
một hoạt động cốt lõi của việc học.
4.2. Tự học là con đường tự hoàn thiện cá nhân: Trong quá trình tự học,
các thao tác tư duy được lặp đi, lặp lại nhiều lần, góp phần hình thành các kĩ
năng, kĩ xảo cho người học. Trước một tình huống, một vấn đề thì khả năng tự lí
giải sự vật, hiện tượng của học sinh sẽ đạt được ở các mức độ khác nhau. Trong
hoạt động học, chất lượng, hiệu quả phụ thuộc vào mức độ tích cực tham gia và
khả năng xử lí của người học. Như vậy, tự học là cách để con người tự đúc kết,
rút kinh nghiệm, tri thức và dần dần hoàn thiện bản thân mình.
4.3. Tự học có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy: Quá trình
lĩnh hội tri thức, người học phải sử dụng các thao tác tư duy như: Tư duy logic
( phân tích, tổng hợp, khái quát hóa…), tư duy sáng tạo để giải quyết vấn đề.


7

4.4. Tự học có vai trò to lớn trong sự phát triển của mỗi cá nhân. Ngày
nay, nguồn cung cấp thông tin rất đa dạng, phong phú, nếu người học có kĩ năng
tự học tốt, sẽ tận dụng được nguồn thông tin trong việc thu nhận kiến thức cho
bản thân.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm. Kiến thức vật lí rất gần gũi với
khoa học và đời sống nên nó được áp dụng rất nhiều. Đặc biệt, trong công cuộc
đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước hiện nay, đồng thời để đáp ứng cho nhu
cầu dạy học tích cực nói chung và dạy học môn Vật lí nói riêng.
Hiện nay, ngoài những phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp
đặt vấn đề, phương pháp thực nghiệm, phương pháp giải quyết vấn đề, phương
pháp bàn tay nặn bột… thì cách hướng dẫn học sinh học tập có hiệu quả đóng

vai trò rất quan trọng. Trong đó có cách sử dụng sách giáo khoa và bài tập vật lí
để rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh là rất cần thiết, vì qua thực tế dạy môn
Vật lí nhiều năm, tôi thấy có một số khó khăn như: Đối với học sinh lớp 6, lớp 7
lần đầu tiên các em phải tiếp xúc với các hiện tượng vật lí một cách có hệ thống
về các lĩnh vực rất quen thuộc thường gặp hằng ngày như cơ, nhiệt (lớp 6),
quang, âm, điện (lớp 7). Các em gặp rất nhiều khái niệm mới như: Khối lượng
riêng- Trọng lượng riêng, mối quan hệ giữa khối lượng và trọng lương, giữa
khối lượng riêng và trọng lượng riêng…
Vậy mà trong suốt chương trình vật lý 6 không có một tiết bài tập, nghĩa
là các em không có thời gian để được giáo viên hướng dẫn các em làm bài tập
tìm khối lượng riêng, trọng lượng riêng…Hơn thế nữa kiến thức này lại được áp
dụng rất nhiều khi các em làm bài tập về lực đẩy Ac-si-mét, sự nổi ở Vật lí 8.
Tương tự như vậy đối với Vật lí 7 các em làm quen với định luật phản xạ
ánh sáng. Ở nội dung này, các em cũng phải làm bài tập nhiều nhưng trong
chương trình vật lí 7 cũng không có tiết bài tập. Đặc biệt, đối với học sinh lớp 6,
7 trình độ tư duy còn thấp, vốn kiến thức toán học còn rất hạn chế, kinh nghiệm
hoạt động nhận thức còn thiếu, vốn sống thực tế còn nghèo nên khả năng tiếp
thu bài và vận dụng được kiến thức vào thực tế là rất khó khăn.


8

Khi các em lên lớp 8, lớp 9 thì chương trình Vật lí càng khó hơn vì ở hai
lớp này, ngoài các bài tập định tính thì bài tập định lượng cũng rất nhiều nhưng
trong chương trình Vật lí 8 chỉ có hai tiết bài tập, lên đến lớp 9 thì số tiết bài tập
có phần nhiều hơn.
Khó khăn hơn nữa là về phía học sinh, các em bị chi phối, ảnh hưởng
nhiều bởi các tác động xấu ngoài môi trường, xã hội. Đa số các em là con nhà
nông, cha mẹ thường xuyên đi làm ăn xa nên các em thiếu sự quan tâm, chăm
sóc, quản lí giờ giấc học tập, phần lớn việc học của con em họ đều giao phó cho

thầy cô, nhiều em thì có hoàn cảnh gia đình, kinh tế rất khó khăn…Đặc biệt về ý
thức tự học của các em còn hạn chế, các em chưa nhận thức được tầm quan
trọng của việc tự học, đa số các em chưa thực hiện được các kĩ năng tự học,
chưa có hứng thú với học tập vật lí…Mặc dù, xung quanh các em có nhiều thuận
lợi. Chẳng hạn như:
- Sách giáo khoa Vật lí: đầy đủ, kênh hình, kênh chữ rõ ràng, chứa đựng
nhiều nội dung cần tìm hiểu.
- Sách bài tập, sách tham khảo Vật lí phong phú, đa dạng.
- Cơ sở vật chất ở trường tương đối đảm bảo, dụng cụ thí nghiệm vật lí
được bổ sung thường xuyên, các em được tiếp cận với phương tiện học tập hiện
đại…
- Ban giám hiệu thường xuyên quan tâm, tạo mọi điều kiện có thể để các
em học tập tốt.
- Thầy, cô giáo thân thiện, nhiệt tình, tận tụy, giúp đỡ để các em học tập
tiến bộ.
Đối với tôi, là một giáo viên dạy Vật lí THCS, ngoài sự nỗ lực để nâng
cao chuyên môn, nghiệp vụ cho bản thân thì tôi còn hướng dẫn học sinh cách sử
dụng sách giáo khoa và bài tập vật lí để rèn luyện kĩ năng tự học cho các em.
Kết hợp các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh với các phương
pháp dạy học tích cực hiện nay sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách có
hệ thống, các em sẽ hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó sẽ áp dụng


9

kiến thức học được vào trong cuộc sống và đặc biệt là sẽ tự tin, tự giác, hứng thú
tiếp tục học ở các lớp trên.
Hơn nữa, học sinh trung học cơ sở có độ tuổi từ 11- 15, là thời kì quá độ
từ trẻ con sang người lớn và giai đoạn này tạo nên sự phát triển đặc thù về mọi
mặt: phát triển thể chất, trí lực, đạo đức, xã hội...Học sinh đã xác định động cơ

học tập để nắm vững tri thức, sẵn sàng lao động, nhưng chưa bền vững. Học
sinh đã thể hiện hứng thú với các môn học, yếu tố say mê tự học đã xuất hiện ở
nhiều học sinh. Sự phát triển về nhận thức tạo điều kiện cho học sinh khả năng
quan sát tinh tế, tư duy trừu tượng, phát triển ngôn ngữ và ghi nhớ logic, ghi nhớ
ý nghĩa tăng lên. Tư duy khái quát, độc lập của học sinh trung học cơ sở được
phát triển mạnh, tư duy sáng tạo giúp học sinh thích tìm ra cách học, cách giải
bài tập riêng của mình, phát minh ra cái mới...Từ những đặc điểm này, giáo viên
dạy môn Vật lí chú ý nâng cao hứng thú của học sinh với môn học, phát huy tính
tích cực, sáng tạo qua việc tổ chức các hoạt động học tập, rèn luyện kĩ năng tự
học, đặc biệt tự học với sách giáo khoa và với bài tập vật lí.
Nhằm xác định mức độ tự học của học sinh, tìm nguyên nhân của hiện
trạng: động cơ, hứng thú tự học môn Vật lí, thời gian tự học bình quân ngoài giờ
trên lớp/ngày,…để đề xuất các biện pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh
trong dạy học môn Vật lí ở trường THCS, đầu năm học 2014-2015, tôi đã tiến
hành khảo sát tại bốn lớp 81, 82, 91 và 92 ở Trường THCS Kim Đồng, huyện Đại
Lộc, tỉnh Quảng Nam bằng cách phát phiếu thăm dò với hình thức trắc nghiệm.
Nội dung phiếu thăm dò:
Em hãy đánh dấu nhân vào ô trống ở từng nội dung trong phiếu sau:
TT
1
2
3
4

Mức độ tự học
Thường xuyên tự học
Có tự học nhưng chưa thường xuyên
Chưa tự học
Em có thích học môn Vật lý không?


Ô trống


10

Kết quả khảo sát như sau:
* Về mức độ tự học
Lớp TSHS

91
92
81
82

Chưa tự học

Có tự học nhưng

Thường xuyên tự

chưa thường

học

xuyên
SL
TL%
SL
TL%
SL

TL%
33
13
39,4
14
42,4
6
18,2
35
14
40,0
13
37,1
8
22,9
29
14
48,3
8
27,6
7
24,1
30
15
50,0
9
30,0
6
20,0
Trên cơ sở thu thập thông tin, xử lý số liệu, kết quả thu được như trên, tôi


thấy phần lớn học sinh chưa tự học hoặc có tự học nhưng chưa thường xuyên, số
ít thực hiện được ở mức thường xuyên.
*Về hứng thú học tập Vật lí
Lớp

TSHS

91
92
81
82

33
35
29
30

Chưa hứng thú học Vật lí
SL
TL%
17
51,5
16
45,7
15
51,7
17
56,7


Có hứng thú học Vật lí
SL
TL%
16
48,5
19
54,3
14
48,3
13
43,3

Từ kết quả ở bảng trên, tôi thấy rằng số học sinh có hứng thú học tập môn
Vật lí chưa nhiều, số học sinh chưa hứng thú với môn Vật lí còn khá cao. Nhận
thức về vai trò của môn học và hứng thú học tập với môn học có quan hệ chặt
chẽ với nhau nó ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả tự học và rèn luyện kĩ năng tự
học. Nếu học sinh nhận thức đúng về môn học, có tình cảm với nó, sẽ tạo nên
động cơ mạnh mẽ, từ đó có tinh thần, ý chí vượt qua những trở ngại trong học
tập. Ngược lại, không có hứng thú học tập, sẽ không tập trung suy nghĩ, học chỉ
là sự đối phó, hình thức.
Ngoài ra để biết được mức độ nắm kiến thức của các em, tôi còn tiến hành
khảo sát chất lượng ở 4 lớp trên và kết quả thu được như sau:
* Bảng thống kê chất lượng khảo sát đầu năm môn Vật lí:
Lớp

TSHS

91

33


Giỏi
SL TL%
2
6,1

Khá
Trung bình
Yếu
TB trở lên
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
10
30,3 11
33,3 10
30,3 23
69,7


11

92
81
82

35
29
30

4
3

5

11,4
10,3
16,7

12
7
7

34,3
24,1
23,3

12
13
10

34,3
44,8
33,3

7
6
8

20,0
20,7
26,7


28
23
22

80,0
79,3
73,3

Vậy, nguyên nhân nào làm cho mức độ tự học của học sinh còn thấp, số
học sinh chưa hứng thú học môn Vật lý còn khá cao và số học sinh có học lực
yếu còn nhiều? Có phải là do phần lớn các em chưa có kĩ năng tự học? Chưa
hứng thú học môn Vật lí? Để giải quyết vấn đề trên, tôi đã tìm và nghiên cứu các
biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học Vật lí ở trường
THCS.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Các biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh trong dạy học
Vật lí ở trường THCS:
1. Hướng dẫn HS tổ chức các hoạt động tự học:
1.1. Tự học ở trên lớp:
Để hoạt động tự học ở trên lớp có hiệu quả, thì việc đầu tiên giáo viên cần
làm là tạo niềm tin và hứng thú học tập cho học sinh.
Bởi vì: Theo tâm lý học, các thành phần bên trong thái độ học tập của
người học là nền tảng quan trọng nhất cho việc hình thành và phát triển năng lực
tự học. Chỉ khi nào người học tự ý thức được tầm quan trọng của tự học, có
niềm tin vào bản thân thì việc tự học, tự nghiên cứu mới trở thành sở thích, đam
mê, tự giác mà không cần có sự thúc giục của yếu tố bên ngoài. Với học sinh
THCS, ý thức tự giác trong tự học mới hình thành nên giáo viên là người biết
nhen nhóm, thắp sáng niềm tin, tạo hứng thú và động cơ tự học cho học sinh.
Để tạo niềm tin và hứng thú cho học sinh khi tự học, giáo viên có thể tổ
chức hoạt động nhóm. Khi tham gia hoạt động nhóm, mỗi học sinh có một sở

trường, một thế mạnh, họ sẽ hỗ trợ, học tập lẫn nhau. Giáo viên có thể giao
những nhiệm vụ phù hợp, vừa sức với học sinh.
Trong quá trình dạy trên lớp, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp
như dạy học nêu vấn đề, dạy học theo hướng giải quyết vấn đề, dạy học hợp
tác…Chẳng hạn khi dạy về quán tính, giáo viên tổ chức cho học sinh giải thích


12

các hiện tượng gần gũi trong đời sống của họ như tại sao người ngồi trong xe
ngã về phía trước hoặc phía sau khi xe thay đổi tốc độ đột ngột? hoặc hành động
giũ áo cho sạch bụi…Hay khi dạy về lực đẩy Ac-si-met giáo viên có thể yêu cầu
học sinh giải thích tại sao tàu, thuyền có thể đi lại trên sông, trên biển hay khinh
khí cầu bay được trên bầu trời?…và giáo viên cũng cần rèn cho học sinh biết tự
điều chỉnh khi nghe giảng để nắm vững kiến thức cơ bản; biết chọn lọc kiến
thức để ghi chép theo ý hiểu của bản thân,…
Như vậy, để phát triển năng lực tự học ở trên lớp, đòi hỏi cần có sự liên hệ
chặt chẽ giữa việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh. Giáo viên phải
từng bước hình thành, rèn luyện và phát triển các kĩ năng thành tố trong năng
lực tự học cho học sinh.
1.2. Tự học ở nhà:
Cùng với các biện pháp taọ niềm tin, hứng thú tự học ở trên lớp thì việc
hướng dẫn HS biết cách tổ chức tự học ở nhà là nhân tố quan trọng đảm bảo sự
thành công của tự học. Để tổ chức được tự học ở nhà thì giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh xây dựng kế hoạch tự học. Kế hoach tự học càng cụ thể, chi
tiết, càng khoa học bao nhiêu thì sự thành công trong tự học càng cao. Kế hoạch
có thể lập cho ngày, tuần…và trong đó cần xác định rõ phần kiến thức tự học,
phân phối thời gian, hình thức tự học…Việc thực hiện kế hoạch tự học là khâu
quyết định kết quả tự học của họ. Để thực hiện được kế hoạch tốt, HS phải tạo
được những thói quen như: tự giác, tập trung tư tưởng khi tự học, có ý chí, quyết

tâm vượt khó trong tự học.
Hoạt động tự học vật lí ở nhà của học sinh rất phong phú và đa dạng, có
tác dụng rất lớn trong việc củng cố, hiểu sâu, hoàn thiện kiến thức, rèn các kĩ
năng, kĩ xảo học tập và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Nếu tổ chức
tốt hoạt động tự học ở nhà cho học sinh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
vật lí ở trường THCS. Để công việc này có hiệu quả cao, giáo viên cần chú ý:
giúp học sinh có thái độ đúng đắn và ý thức được mục đích, nhiệm vụ của việc
tự học ở nhà; nhiệm vụ giao về nhà phải tạo hứng thú đối với học sinh, vừa đảm
bảo trình độ chung của cả lớp, vừa phải chú ý đến những học sinh yếu kém, học


13

sinh khá giỏi; tạo điều kiện thuận lợi để học sinh tự học ở nhà; rèn luyện cho học
sinh thói quen, phương pháp tự học, đồng thời thường xuyên kiểm tra bài làm ở
nhà của học sinh để nâng cao ý thức, trách nhiệm của họ; khối lượng nhiệm vụ
mà giáo viên giao về nhà cho học sinh cần đảm bảo vừa đủ, vừa sức đối với họ.
Sau đây là gợi ý một kế hoạch tự học trong tuần:
Thứ Thứ

Thứ tư

Thứ

Thứ

Thứ

Chủ


Hóa

Toán

năm
Địa

sáu
Nhạc

bảy
Anh

nhật
Làm bài

(Học ở Văn

Sinh

Toán

Anh

Hóa

Toán

tập


trường

Văn

C/dân

Vật lí

Anh

Văn

Toán

Toán

theo

NGLL

M/thuật c/nghệ

Sinh

Văn

Địa

TKB)
Chiều


Chào cờ C/nghệ
S/hoạt
P/đạo
-Đọc lại -Đọc lại -Đọc lại P/đạo

-Đọc lại Làm bài

Vật lí,

các bài các bài các bài Văn

các bài tập Lí,

Hóa,

vừa học vừa học vừa học Anh (ở vừa học Hóa.

Buổi
Sáng

hai
Sử

Thứ ba

Toán (ở -Làm
trường)

Tối


-Làm

bài tập Bài tập

-Làm

trường)

bài tập

Hóa,

Toán, Lí Anh,

Sinh
-Đọc lại -Học

Sinh.
-Học

-Làm
bài tập
Anh,

Toán.
-Đọc lại -Hoàn

-Chuẩn


các bài với sgk với sgk với sgk

các bài thành

bị bài

vừa học Toán,

Sinh,

Hóa,

vừa học các bài

sáng thứ

-Chuẩn

Anh.

Văn.

-Chuẩn

hai

-Chuẩn

-Chuẩn


-Học

Vật lí,

bị bài -Chuẩn
sáng

bị

bài bị bài

thứ ba

sáng

sáng

thứ tư

thứ năm thứ sáu

tập

bị bài Toán

bị bài

sáng

sáng


thứ bảy

*Chú ý: - Tùy theo tình hình thực tế mà học sinh lập cho mình một kế hoạch tự
học phù hợp với thời gian học trên lớp, ở nhà đảm bảo với khả năng của mình.


14

- Nên nghỉ giải lao 15 phút khi học được 2 giờ để đỡ mệt mỏi và tập
trung hơn.
1.3. Tự học trong hoạt động ngoại khóa
Bên cạnh hình thức tự học trên lớp, tự học ở nhà thì tự học trong hoạt
động ngoại khóa ( nếu có điều kiện) có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kĩ
năng tự học cho học sinh. Hoạt động ngoại khóa có tác dụng tích cực đối với
việc giáo dục và phát triển toàn diện của học sinh. Thông qua hoạt động ngoại
khóa, học sinh được rèn luyện khả năng làm việc với tài liệu tham khảo và các
nguồn kiến thức khác nhau. Học sinh phải tự ôn luyện kiến thức, đọc sách, sưu
tầm hình ảnh, video, tài liệu chuẩn bị cho ngoại khóa, tự vận dụng kiến thức đã
học vào hoạt động thực tiễn. Học sinh có cơ hội trình bày những hiểu biết của
mình về một vấn đề nào đó phù hợp với trình độ và yêu cầu học tập của bản
thân.
2. Hướng dẫn học sinh sử dụng các phương tiện học tập:
Phương tiện học tập là điều kiện không thể thiếu trong hoạt động dạy học
cũng như tự học của học sinh. Trong học tập Vật lí, để việc sử dụng phương tiện
hỗ trợ đạt hiệu quả cao, trong quá trình dạy học giáo viên cần hướng dẫn cho
học sinh sử dụng các loại phương tiện học tập khác nhau.Tự học với sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo; bài tập vật lí giúp học sinh tiếp cận với kiến thức khoa
học cơ bản phong phú, sâu rộng. Tự học với các phương tiện hiện đại như máy
vi tính, phần mềm với các thiết bị điện tử khác, internet,…giúp học sinh học tập

đạt hiệu quả cao hơn; chúng giúp học sinh thu thập, lưu trữ thông tin, trình diễn
thông tin…giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách sử dụng sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo, các thiết bị thí nghiệm, sử dụng các phương tiện điện tử… để
khai thác, xử lý các thông tin. Chẳng hạn, để học sinh làm việc với tài liệu tham
khảo, giáo viên cần giới thiệu về tài liệu hoặc địa chỉ tin cậy để học sinh tiếp cận
với tài liệu; cần hướng dẫn học sinh cách đọc, ghi chép, trình bày kết quả tìm
đọc của mình. Hay trước khi học sinh học một chương nào đó trong môn Vật lí,
tôi thường tổ chức (ngoại khóa) cho các em làm quen với các dụng cụ thí
nghiệm của các bài học trong chương đó để khi tiến hành làm thí nghiệm trong


15

tiết học, các em không bị lúng túng và sẽ thực hiện nhanh hơn, tiết kiệm thời
gian và hạn chế việc làm hỏng dụng cụ thí nghiệm.

\

Cô giáo Trần Thị Thanh Nga đang hướng dẫn học sinh lớp 9 2 trường
THCS Kim Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam tìm hiểu các dụng cụ thí
nghiệm trong chương Điện học.
2.1. Hướng dẫn học sinh tự học với sách giáo khoa Vật lí:


16

Sách giáo khoa là tài liệu học tập chủ yếu, nguồn tri thức quan trọng với
học sinh. Việc tự học với sách giáo khoa được tiến hành cả ở trên lớp cũng như
ở nhà. Để hình thành kĩ năng tự học vật lí với sách giáo khoa một cách hiệu quả,
học sinh cần thực hiện bền bỉ trong một quá trình, qua từng bài học cụ thể, có sự

hướng dẫn của giáo viên. Căn cứ vào mục tiêu bộ môn Vật lí ở trường trung học
cơ sở, giáo viên cần xác định những kĩ năng tự học vật lí với sách giáo khoa phù
hợp với học sinh và tôi đã hướng dẫn học sinh rèn luyện một số kĩ năng cơ bản
sau:
2.1.1. Kĩ năng đọc- hiểu nội dung bài ở SGK: Với học sinh trung học cơ
sở, đọc được bài không có nghĩa là đã hiểu được nội dung bài. Việc rèn kĩ năng
đọc- hiểu nội dung bài học sẽ giúp học sinh xác định được nội dung chủ yếu của
toàn bài, nội dung cụ thể của từng mục và xác định được kiến thức cơ bản của
bài học. Từ đó, học sinh có thể trả lời được những câu hỏi: Bài học này hay mục
này đề cập đến vấn đề gì? Nội dung nào cơ bản, quan trọng? Đây là kĩ năng cần
thiết để rèn luyện các kĩ năng khác khi tự học vật lí với sách giáo khoa, tài liệu.
2.1.2. Kĩ năng quan sát và khai thác kênh hình trong SGK: Kênh hình
trong sách giáo khoa môn Vật lí chứa đựng những nội dung vật lí không chỉ
minh họa cho nội dung bài học mà còn là nguồn tri thức, có khả năng cung cấp
kiến thức, tăng hứng thú học tập cho học sinh. Khi làm việc với kênh hình, học
sinh không chỉ quan sát mà còn tìm kiếm được các thông tin ẩn trong đó. Rèn
luyện kĩ năng quan sát và khai thác kênh hình sẽ giúp học sinh quan sát tinh tế,
sâu sắc hơn cũng như tăng khả năng biểu đạt ngôn ngữ kiến thức của mình.
2.1.3. Kĩ năng diễn đạt nội dung bài học trong SGK: Học sinh trung học
cơ sở có khả năng ghi nhớ lôgic, cùng với sự phát triển ngôn ngữ, học sinh thích
biểu đạt theo cách hiểu của mình. Vì vậy, kĩ năng diễn đạt có thể bằng lời nói,
chữ viết, sơ đồ...Từ một nội dung vật lí nhưng với nhiều cách diễn đạt phong
phú thể hiện sự sáng tạo của học sinh, kĩ năng này rất cần được khuyến khích.
2.1.4. Kĩ năng tóm tắt và hệ thống kiến thức trong sách giáo khoa: Kĩ
năng này giúp học sinh hiểu bài sâu sắc và rèn luyện được kĩ năng khái quát,
tổng hợp kiến thức. Học sinh có thể tóm tắt và hệ thống kiến thức bằng bảng


17


biểu, sơ đồ tư duy...Yêu cầu của kĩ năng tóm tắt và hệ thống kiến thức là ngôn
ngữ ngắn gọn, cơ bản. Vì vậy, từ ngữ phải hết sức cô đọng, súc tích, có thể sử
dụng các từ khóa đã xác định khi đọc – hiểu, coi đó như những “điểm tựa” cho
tư duy và ghi nhớ.
2.1.5. Kĩ năng theo dõi sách giáo khoa kết hợp ghi chép trong giờ học: Kĩ
năng đọc- hiểu, tóm tắt và hệ thống hóa kiến thức là tiền đề để học sỉnh rèn kĩ
năng ghi chép nội dung bài học. Quá trình ghi chép của học sinh trong giờ học
không chỉ thể hiện mức độ hiểu nội dung kiến thức qua bài giảng mà còn là biểu
hiện của kĩ năng ghi chép. Học sinh theo dõi sách giáo khoa kết hợp nghe giảng
và diễn đạt lại theo ngôn ngữ của mình sẽ giúp học sinh nhớ lâu, khắc sâu nội
dung bài học, đồng thời phát huy khả năng tư duy độc lập khi kết hợp các kĩ
năng đọc sách giáo khoa- nghe giảng- viết bài.
2.1.6. Kĩ năng làm bài tập: Bài tập vật lí có trong sách giáo khoa hoặc
giáo viên giao, đều có tác dụng giúp học sinh dùng kiến thức và kĩ năng của
mình chiếm lĩnh kiến thức bài học và thể hiện thái độ trong học tập. Kĩ năng làm
bài tập vật lí phản ảnh mức độ nhận thức và khả năng vận dụng kiến thức, tư
duy của học sinh trước nhiệm vụ học tập cụ thể.
2.1.7. Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá: Kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá được
thực hiện ở mức đơn giản là học sinh tự trả lời các câu hỏi hay bài tập có sau
mỗi mục, mỗi bài trong sách giáo khoa, sau đó đối chiếu với bài học để đánh giá
đúng /sai. Ở mức độ cao hơn, có thể kết hợp sách giáo khoa với phiếu bài tập
được giao hoặc căn cứ nội dung sách giáo khoa, học sinh tự đặt ra bài tập để
thực hiện.
Hoạt động tự kiểm tra, đánh giá kết quả tự học cần tổ chức dưới nhiều
hình thức khác nhau và cần phối hợp giữa các hình thức đó với nhau. Chẳng
hạn, trong dạy học môn Vật lí ở trường THCS, sau mỗi bài học, học sinh cần trả
lời hệ thống câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa hoặc do giáo viên giao thêm
ứng với phần kiến thức tự học tương ứng; hoặc yêu cầu học sinh tái hiện lại các
nội dung kiến thức đã biết bằng nhiều cách như tái hiện bằng sơ đồ tư duy, bằng



18

hệ thống các công thức vật lí…Ngoài ra, qua nhiều lần thực hiện như thế này, kĩ
năng tự kiểm tra của học sinh ngày càng được củng cố và phát triển.
Để quá trình tự học của học sinh có hiệu quả, giáo viên nên chọn những
bài tập tiêu biểu từ đơn giản đến phức tạp, yêu cầu học sinh tự giải và tự đánh
giá bài làm của mình sau khi đã đối chiếu với các bạn trong lớp, với bài giảng
của giáo viên. Khi giải các bài tập, các em phải nỗ lực tiến hành các hoạt động
trí tuệ nhằm tái hiện, chính xác hóa, hoàn thiện kiến thức, phát hiện tri thức mới.
Qua đó, học sinh sẽ biết được mức độ nắm vững kiến thức của mình, những
phần nào chưa nắm vững, chưa hoàn chỉnh, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện tri thức.
Khi học sinh tự học vật lí với sách giáo khoa, các kĩ năng trên không tồn
tại độc lập, riêng lẻ mà gắn bó mật thiết và bổ sung cho nhau. Để rèn các kĩ năng
tự học với sách giáo khoa, học sinh trung học cơ sở cần được hướng dẫn từng
bước, rèn luyện theo từng bài, dần dần trở nên thành thục, chủ động và tự giác
thành các kĩ năng.
Sau đây là quy trình cụ thể mà tôi đã hướng dẫn các em tự học vật lí với
sách giáo khoa:
Bước 1: Xác định chủ đề và khái quát nội dung bài học: Đọc tên bài, phần
giới thiệu dưới tên bài, đọc các đề mục để phát hiện và khái quát nội dung bài
học.
Bước 2: Tìm hiểu nội dung và xác định kiến thức cơ bản trong từng mục:
a. Đối với kênh chữ: Đọc kĩ từng mục nhỏ, tóm tắt ý chính và trả lời câu
hỏi đề mục đưa ra. Lưu ý: trong quá trình đọc, gạch chân những từ quan trọng,
đánh dấu hỏi vào những từ chưa hiểu.
b. Đối với kênh hình: Quan sát, tìm kiếm các thông tin có trong đó, như:
Hình này gồm những dụng cụ thí nghiệm gì? Hình đó cho em biết việc bố trí
thí nghiệm như thế nào?...

Bước 3: Tóm tắt ý chính và hệ thống kiến thức bài học,
Bước 4: Làm bài tập,
Bước 5: Tự kiểm tra, đánh giá với sách giáo khoa.


19

3.2. Hướng dẫn học sinh tự học với bài tập vật lí:
* Các dạng bài tập vật lí:
Để giờ dạy vật lí đạt hiệu quả, bản thân tôi phải vận dụng tốt các bước
theo tiến trình dạy học, một trong những bước quan trọng đó là việc đặt vấn đề
thông qua các sự kiện mở đầu. Nhiều nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học
Vật lí đều thống nhất cho rằng, sử dụng một cách thích hợp các bài tập làm sự
kiện mở đầu để đặt vấn đề là một hướng đi đúng và có thể đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, do bài tập vật lí có thể được sử dụng ở các khâu khác nhau trên tiến
trình dạy học nên thông qua đó giáo viên thường xuyên thu được những tín hiệu
ngược từ phía học sinh về mức độ lĩnh hội của học sinh đối với vấn đề nghiên
cứu, về sự phát triển tư duy, về năng lực sáng tạo…Sử dụng bài tập ở mức nào,
hình thức cho học sinh tiếp cận ra sao và sử dụng vào lúc nào là tùy theo mục
đích, nội dung của vấn đề cần nghiên cứu, tùy theo yêu cầu về mức độ lĩnh hội
tri thức của học sinh.
Trong quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh khi giải các bài
tập vật lí, mỗi hình thức có những tác dụng khác nhau trong việc hỗ trợ và gây
hứng thú học tập cho học sinh.
Nếu căn cứ vào hình thức thể hiện, tôi chia bài tập vật lí thành 6 dạng:
3.2.1. Bài tập vật lí thể hiện bằng lời:
Bài tập vật lí biểu thị câu hỏi bằng lời là loại bài tập mà thông tin dữ liệu
và yêu cầu được đặt ra một cách ngắn gọn, súc tích. Khi nghe hoặc đọc xong nội
dung của bài tập, Học sinh có thể hiểu và thu nhận chính xác những thông tin về
hiện tượng hay các nhu cầu của bài tập.

Sử dụng bài tập vật lí trong khâu đặt vấn đề và nghiên cứu kiến thức mới,
nghĩa là thông qua bài tập vật lí, giáo viên đưa học sinh vào những tình huống
có vấn đề, gây mâu thuẩn nhận thức, từ đó nêu được vấn đề cần giải quyết.
Trong giai đoạn này, có tác dụng trong việc tạo hứng thú, say mê học tập cho
học sinh.
3.2.2. Bài tập vật lí thể hiện thông qua hình ảnh:


20

Bài tập vật lí thể hiện qua các hình ảnh là loại bài tập mà lượng thông tin
học sinh cần khai thác được thể hiện một cách trực quan ngay trên hình ảnh, nếu
dùng lời thì không truyền tải hết được nội dung của thông tin.
3.2.3. Bài tập vật lí thể hiện thông qua các thí nghiệm đơn giản:
Bài tập vật lí thể hiện qua các thí nghiệm đơn giản là bài tập có yêu cầu
gắn liền với kết quả của một thí nghiệm đơn giản, dễ thực hiện và có thể thành
công ngay. Nội dung các bài tập được học sinh thu nhận từ việc quan sát các
dụng cụ, bố trí và tiến hành thí nghiệm, đôi khi có thể thể hiện dưới dạng mô tả
thí nghiệm đó bằng lời, cho trước kết quả thí nghiệm, yêu cầu giải thích kết quả
đó.
3.2.4. Bài tập vật lí thể hiện thông qua các lời giải, phép tính:
Bài tập vật lí thể hiện thông qua các lời giải, phép tính là loại bài tập định
lượng yêu cầu học sinh vận dụng những kiến thức từ các định luật, kết luận
,công thức vật lí để giải.
3.2.5. Bài tập thực hành:
Vật lí là môn học có kiến thức liên quan chặt chẽ với kĩ thuật và đời sống.
Nếu học sinh chỉ giành thời gian học lí thuyết sẽ không đủ để nắm vững kiến
thức, không vận dụng được để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Vì vậy,
giáo viên nên giao bài tập thực hành cho học sinh trong quá trình tự học, giáo
viên nên chọn những bài tập phù hợp với học sinh cả về mức độ lẫn số lượng,

giúp các em ôn tập, củng cố kiến thức đã lĩnh hội trên lớp.
Ví dụ: Sau khi học xong bài: Sự nhiễm từ của sắt và thép- Nam châm điện
(Vật lý 9), để khắc sâu kiến thức cho học sinh, giáo viên có thể giao cho các em
về nhà mỗi nhóm làm một nam châm điện, dụng cụ gồm: một lõi sắt non, đoạn
dây dẫn dài 1 mét, hai viên pin, một số đinh ghim và củng cố lại các cách làm
tăng lực từ của nam châm điện.
Hay muốn học sinh nắm vững công thức tính điện trở R của dây dẫn,
giáo viên giao cho mỗi nhóm học sinh một đoạn dây dẫn bằng các vật liệu, chiều
dài, tiết diện khác nhau, yêu cầu mỗi nhóm về tính điện trở đoạn dây dẫn của
nhóm mình.


21

3.2.6. Sử dụng bài tập vật lí trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức: Sau
khi tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức, giáo viên giúp học sinh ôn tập, củng
cố những kiến thức đã học bằng sơ đồ
Ví dụ: Khi dạy xong bài: Kính lúp (Vật lí 9), giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh tóm tắt nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy:

VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ khi tôi áp dụng biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh trong dạy học Vật lí ở trường THCS, đặc biệt hướng dẫn học sinh tự
học, tự nghiên cứu kĩ nội dung bài học ở sách giáo khoa và bài tập vật lí thì chất
lượng học tập của các em tăng lên rõ rệt cả về ý thức lẫn chất lượng học tập.
Phát huy được tính tích cực trong việc tiếp thu bài mới, trong việc tự học ở nhà,
trong việc tự kiểm tra đánh giá việc nắm kiến thức của mình, đáp ứng được yêu
cầu dạy học theo hướng tích cực hiện nay. Kết quả học tập của học sinh được cải



22

thiện, các em tự tin hơn, tham gia tích cực vào các hoạt động học tập, không có
học sinh nào bị “bỏ quên”. Quan hệ giữa các học sinh trở nên thân thiện, gần
gũi, không còn sự phân biệt giữa học sinh khá giỏi với học sinh yếu kém. Các
em có thể làm tương đối tốt bài tập định tính cũng như bài tập định lượng và có
thể áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Sau một năm áp dụng đề tài, về mức
độ thực hiện các kĩ năng tự học của các em được nâng lên, cụ thể như sau:
* Về mức độ thực hiện các kĩ năng tự học:
Lớp TSHS

91
92
81
82

Chưa thực hiện được

Thực hiện được

Thực hiện thành

nhưng ở mức độ

thạo

chưa cao
SL
TL%
SL

TL%
SL
TL%
33
3
9,1
10
54,5
20
36,4
35
4
11,4
12
60,0
19
28,6
29
3
10,3
11
37,9
15
51,7
30
4
13,3
12
40,0
14

46,7
Trên cơ sở thu thập thông tin, xử lý số liệu, kết quả thu được như trên, tôi

thấy các em có tiến bộ nhiều, cụ thể số học sinh chưa thực hiện việc tự học của 4
lớp ở đầu năm giảm từ 56 em xuống còn 14 em ở cuối năm. Số học sinh thực
hiện thường xuyên các kĩ năng tự học ở đầu năm của 4 lớp tăng từ 27 em lên 68
em ở cuối năm.
*Về hứng thú học tập Vật lí
Lớp
91
92
81
82

TSHS

Chưa hứng thú học Vật lí
Có hứng thú học Vật lí
SL
TL%
SL
TL%
33
3
9,1
30
90,9
35
4
11,4

31
88,6
29
3
10,3
26
89,7
30
2
6,7
28
93,3
Từ kết quả ở bảng trên, tôi thấy rằng số học sinh có hứng thú học tập môn

Vật lí đã tăng nhiều, số học sinh chưa hứng thú học môn Vật lí đã giảm. Cụ thể
như sau: ở đầu năm, số học sinh chưa hứng thú học Vật lí của 4 lớp là 65 em, ở
cuối năm chỉ còn 12 em. Số học sinh có hứng thú học Vật lí ở đầu năm của 4 lớp
là 62 em, cuối năm tăng đến 115 em.
*Bảng thống kê chất lượng TB môn Vật lí năm học 2014-2015
Lớp

TSHS

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu


TB trở lên


23
1

9
92
81
82

SL TL% SL TL% SL
33
12 36,0 10
30,3 10
35
10 28,6 14
40,0 9
29
8 27,6 11
37,9 8
30
10 33,3 9
30,0 9
Nhìn vào bảng thống kê chất lượng TB

TL% SL TL%
30,3 1
3,03

25,7 2
5,7
27,6 2
6,9
30,0 2
6,7
môn Vật lí năm học

SL TL%
32
97,0
33
94,3
27
93,1
28
93,3
2014-2015,

tôi thấy rằng, nhờ việc thực hiện thường xuyên các kĩ năng tự học, các em có
hứng thú học tập môn Vật lí nên kết quả trung bình môn của năm học 20142015 cũng tăng lên. Cụ thể như sau: ở đầu năm, số học sinh yếu của 4 lớp là 31
em, cuối năm đã giảm còn 7 em.
Sang năm học 2015-2016, tôi tiếp tục áp dụng đề tài này trong dạy học
Vật lí của mình với tất cả các lớp mà trường đã phân công và kết quả trung bình
môn HKI năm học 2015- 2016 như sau:
Bảng thống kê chất lượng TB môn Vật lí HKI năm học 2015-2016
Lớp
1

9

92
81
82
71
72
73
74

TSHS
29
30
35
36
39
37
36
35

SL
10
10
8
11
19
22
15
21

Giỏi
TL%

34,6
33,3
22,8
30,6
48,7
59,5
41,7
60,0

SL
12
10
15
12
6
11
8
8

Khá
TL%
41,4
33,3
42,8
33,3
15,4
29,7
22,2
22,8


Trung bình
SL TL%
6
20,7
8
26,7
10
28,6
9
25,0
11
28,2
4
10,8
10
27,8
5
14,3

Yếu
SL TL%
1
3,5
2
6,7
2
5,7
4
11,1
3

7,7
0
0
3
8,3
1
2,9

TB trở lên
SL TL%
28
96,5
28
93,3
33
94,3
32
88,9
36
92,3
37
100
33
91,7
34
97,1

Không những chất lượng trung bình môn được nâng lên mà trong quá
trình bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi cũng đã sử dụng các biện pháp trên trong việc
bồi dưỡng kĩ năng tự học cho các em nên liên tục 2 năm học gần đây (20142015 và 2015- 2016) môn Vật lí 8 và 9 đều đoạt giải cấp huyện. Đặc biệt, có 2

em Phạm Huệ Mẫn và Nguyễn Thế Nguyên đỗ vào lớp 10 chuyên lí Trường
THPT chuyên Lê Thánh Tông, Quảng Nam. Trong năm học này, năm học 20152016 đoạt 2 giải KK Vật lí 9; 2 giải Nhì và 1 giải KK Vật lí 8 cấp huyện.
Tuy giải chưa cao, nhưng bước đầu khẳng định được hiệu quả của việc sử
dụng đề tài này.


24

Qua bảng thống kê về mức độ thực hiện các kĩ năng tự học, tính hứng thú,
tích cực học tập của các em và bảng chất lượng trung bình môn Vật lí cũng như
kết quả thi học sinh giỏi cấp huyện môn Vật lí 8, 9 ở trên, tôi nhận thấy rằng:
Biện pháp rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh theo hướng dạy học tích cực
trong môn Vật lí THCS là rất quan trọng, giúp cho các em phát huy được tính
tích cực, sáng tạo, nắm được kiến thức một cách rõ ràng, cụ thể, các em sẽ tự tin
hơn trong học tập và chất lượng học sẽ cao hơn.
VII. KẾT LUẬN
Phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh trong dạy học Vật
lí ở trường THCS có vị trí quan trọng trong thực hiện mục tiêu dạy học bộ môn,
góp phần đào tạo những người lao động sáng tạo, có năng lực tự chủ. Do đó,
trong quá trình dạy học Vật lí nói riêng, dạy học ở trường THCS nói chung, giáo
viên cần định hướng, chỉ dẫn, tạo niềm đam mê cho học sinh, giúp học sinh tự
giác, tự lập trong học tập. Từ đó, việc tự học mới trở thành thói quen, nhu cầu
của người học và góp phần nâng cao kết quả học tập của bản thân các em; chất
lượng đào tạo của nhà trường.
Việc hướng dẫn học sinh rèn luyện các kĩ năng tự học là một trong những
giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học Vật lí THCS mà tôi đã và đang
thực hiện.
Để thực hiện các biện pháp này, tôi đã hướng dẫn HS tổ chức các hoạt
động tự học, đó là: tự học ở trên lớp, tự học ở nhà (có kế hoạch cụ thể trong
tuần, ngày, buổi), tự học trong hoạt động ngoại khóa, tự học để sử dụng các

phương tiện học tập, tự học với sách giáo khoa vật lí, tự học với bài tập vật lí…
Qua thực tế dạy học Vật lí THCS, tôi thấy rằng việc áp dụng kinh nghiệm
trên đã mang lại kết quả tốt hơn nhiều so với khi tôi chưa thực hiện, cụ thể như
mức độ thực hiện các kĩ năng tự học và sự hứng thú học tập vật lí đã nâng lên rõ
rệt, học sinh học tập tích cực, lớp học sôi nổi, các em nắm được bài chắc hơn,
các em có hứng thú tự học, tự kiểm tra và cuối cùng là chất lượng dạy học được
nâng cao và đã tích cực góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực trong môn Vật lí THCS hiện nay.


25

VIII. ĐỀ NGHỊ
Sử dụng bài tập vật lí trong việc bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng tự học cho
học sinh gặp khó khăn ở chỗ thời gian sửa bài tập cho các em còn hạn chế, vì
trong chương trình Vật lí THCS có rất ít tiết bài tập, mà bài tập thì lại rất nhiều.
Từ khó khăn trên nên đối với chương trình Vật lí THCS cần dành thêm các tiết
bài tập để giáo viên có thời gian củng cố, mở rộng kiến thức và rèn cho các em
phương pháp tự học đạt hiệu quả hơn.
Để hình thành các kĩ năng tự học vật lí cho học sinh THCS đòi hỏi giáo
viên phải hướng dẫn, giao nhiệm vụ học tập cụ thể; đổi mới phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học môn Vật lí trên lớp; đổi mới nội dung và hình thức
kiểm tra, đánh giá để phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh, khuyến
khích học sinh sáng tạo và chủ động trong học tập.
Trước khi lên lớp, giáo viên không những chuẩn bị thật tốt đồ dùng dạy
học phục vụ tiết dạy mà còn phải chuẩn bị thật kĩ về hệ thống câu hỏi, bài tập,
yêu cầu nội dung rõ ràng, ngắn gọn nhưng phải chất lượng, phù hợp với nội
dung của từng bài, dễ hiểu và tiết kiệm được thời gian.
Kính thưa quý thầy giáo, cô giáo! Ý tưởng của đề tài trên xuất phát trong
quá trình dạy học. Do khả năng có hạn, nên không thể tránh được những thiếu

sót. Bản thân rất mong sự góp ý chân thành của quý thầy giáo, cô giáo để đề tài
trên được hoàn thiện hơn. Tôi xin thành kính biết ơn!
Đại Đồng, ngày 28 tháng 02 năm 2016
Người viết

Trần Thị Thanh Nga


×