PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự đổi mới kinh tế – xã hội, Đảng và nhà nước ta xác định
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục luôn là động lực quan trọng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Ở nước ta từ sau khi đổi mới,
giáo dục đạt được những thành tựu cơ bản cả về quy mô và chất lượng. Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IX khẳng định: “Tiếp tục nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của
học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề,
đẩy mạnh phong trào tự học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo
dục chính quy và không chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả
nước trở thành một xã hội học tập”[44, 109]. Trong những năm qua, ngành
giáo dục đã có những sự thay đổi về chương trình, nội dung, sách giáo khoa ở
các cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại học. Sù đổi mới về
chương trình, nội dung, sách giáo khoa ở giáo dục phổ thông đòi hái phải đổi
mới cách dạy, cách học ở cao đẳng, đại học đồng thời cũng đặt ra vấn đề phải
đổi mới trong cách dạy, cách học đối với sinh viên sư phạm.
Mục tiêu giáo dục của nước ta là phát triển nhân cách con người toàn
diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động. Từ luận điểm trên, chúng tôi cho rằng để
nâng cao chất lượng giáo dục trước tiên phải nâng cao hiệu quả học tập mà
cách học là một trong những yếu tố cơ bản quyết định chất lượng học tập.
Học cách học để học suốt đời “học nữa, học mãi”, học tất cả những gì cần
thiết cho cuộc sống trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong dạy
học nói chung và ở trường phổ thông nói riêng.
Chóng ta đang sống trong thời đại mà lượng thông tin tăng theo cấp số
nhân, chất lượng thông tin được đặt lên hàng đầu. Nhà trường không thể đưa
tất cả những kiến thức cần thiết cho cuộc sống vào dạy cho học sinh trong
1
thời gian ngồi trên ghế nhà trường và cũng không có nhà trường nào có thể
dạy cho học sinh tất cả những kiến thức đó. Kiến thức trong sách giáo khoa
luôn lạc hậu so với thực tiễn. Mặt khác, nhu cầu học tập của các cá nhân là
khác nhau vì các lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội là vô cùng phong
phó, đa dạng và luôn thay đổi. Quan niệm “một lần học để dạy học suốt đời”
đã lỗi thời. Khả năng tự học trở thành tài nguyên vô cùng quí giá của mỗi cá
nhân và của cả dân téc. Ở nước ta, khả năng tự học được phát huy qua từng
thời kỳ lịch sử và trở thành truyền thống dân téc. Dạy học ngày nay là thông
qua dạy những nội dung cơ bản, tối thiểu, cần thiết để dạy cách học, học cách
học nhằm phát huy ở người học tính tích cực, chủ động, sáng tạo. “Biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” đã trở thành mét trong các mục tiêu
quan trọng của nhà trường. “Người được giáo dục ngày nay là người đã học
được cách học, học được cách thích ứng và thay đổi”. [5, 67]
Sinh viên sư phạm là những giáo viên tương lai. Biết cách học vừa là
phương tiện để họ tự học, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho mình, vừa là phương tiện để dạy cách học, dạy kỹ năng học cho học
sinh. Chỉ khi giáo viên biết cách học mới có khả năng dạy cho các thế hệ học
sinh biết cách học. Trong thời đại mới “người thầy không phải là người bán lẻ
thông tin, người thầy là người cung cấp những cái chìa khóa cho phép học
sinh mở cửa vào kho tàng tri thức của chính họ” [28, 236]. Đó cũng là con
đường trực tiếp nâng cao chất lượng dạy học ở các trường phổ thông.
Tự học là hình thức cá nhân tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận
thức của bản thân. Tự học không chỉ giúp người học mở rộng, đào sâu những
điều đã học mà còn là con đường chủ yếu để rèn luyện các kỹ năng, vận dụng,
hình thành phẩm chất năng lực cá nhân. Bởi vậy, tự học là hoạt động không
thể thiếu của sinh viên đại học nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng.
Thực tiễn giáo dục đã chứng minh rằng, chất lượng và hiệu quả giáo dục được
2
nâng cao khi và chỉ khi người học tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập.
Muốn chủ động, tích cực người học phải biết các kỹ năng học cơ bản, biết
phương pháp học. Có phương pháp học, người học có thể học tất cả những gì
cần thiết để nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần và nghề nghiệp. Vì vậy,
có thể nói rằng kỹ năng tự học, năng lực “tự đào tạo” là mét trong những kỹ
năng sống trong thế kỷ XXI.
Trong những năm gần đây, có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
tự học của Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Phan Trọng Luận, Phan Trọng
Ngọ, Vũ Quốc Chung, Thái Duy Tuyên và nhiều tác giả khác Các công
trình đã đề cập đến các khái niệm cơ bản, lợi Ých, giá trị của hoạt động tự
học; kỹ năng học tập; phân loại các kỹ năng; hình thành kỹ năng học tập. Cã
một số luận văn nghiên cứu về hoạt động tự học của học sinh, sinh viên và
đều quan tâm đến vấn đề phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người
học, đưa ra các nhóm biện pháp rèn luyện cho người học những kỹ năng học
tập. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu mà các tác giả đưa ra còn mang
tính khái quát. Các môn học đều có các phương pháp đặc trưng khi làm việc
với các nguồn tri thức khác nhau. Vì thế cần phải có những nghiên cứu để
hình thành và rèn luyện những kỹ năng học cơ bản, hình thành phương pháp
học cho sinh viên.
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi tại trường Cao đẳng Cần Thơ
(CĐCT) cho thấy, kỹ năng học những môn nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là
môn Giáo dục học của sinh viên ở mức thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này. Một trong những nguyên nhân cơ bản là sinh viên chưa nhận
thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tự học môn Giáo dục
học (GDH), chưa nắm được quy trình hành động của các kỹ năng học để có
thể tự học; nhà trường, giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc dạy kỹ
năng học cơ bản môn GDH cho sinh viên. Như vậy, muốn nâng cao chất
3
lượng học tập nói chung và nâng cao chất lượng học tập môn GDH nói riêng
thì vấn đề quan trọng hiện nay là cần có những biện pháp cụ thể nâng cao chất
lượng tự học môn GDH cho sinh viên trường Sư phạm.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã lùa chọn nghiên cứu “BIỆN PHÁP
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG TÙ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nâng cao chất lượng tự học môn Giáo dục học của sinh viên trường
Cao đẳng Cần Thơ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề kỹ năng học môn GDH của
sinh viên trường CĐCT
Nghiên cứu thực trạng vấn đề kỹ năng học môn GDH của sinh
viên trường CĐCT
Đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng học môn GDH cho
sinh viên trường CĐCT.
Thăm dò ý kiến cán bộ giáo viên về các biện pháp đã đề xuất
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn GDH ở trường
CĐCT
Đối tượng nghiên cứu: Các mối quan hệ giữa hoạt động dạy, hoạt
động học với nội dung môn GDH nhằm đề xuất các biện pháp dạy kỹ
năng tự học cho sinh viên trường CĐCT.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian cho phép đối với mét luận văn thạc sĩ, chóng
tôi giới hạn nghiên cứu về kỹ năng học cơ bản đối với môn GDH của sinh
viên sư phạm và điều tra trên sinh viên năm thứ 2 tại trường CĐCT.
4
6. Giả thuyết khoa học
Nếu nâng cao trình độ nhận thức về vai trò tự học môn GDH, trang bị
cho sinh viên quy trình học đối với từng kỹ năng học cơ bản thì có thể hình
thành được kỹ năng tự học môn Giáo dục học cho sinh viên CĐCT.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Chúng tôi tiến hành tổng hợp và phân tích một số kết quả nghiên cứu
về hoạt động tự học, kỹ năng học cơ bản môn GDH:
Các tài liệu liên quan đến dạy học môn GDH, đến kỹ năng học
cơ bản.
Các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục, các tạp chí, tài liệu
liên quan.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát theo dõi thực tế và diễn biến về học tập, hoạt động tù
học môn GDH của sinh viên.
Sử dụng phiếu thăm dò thực trạng nhận thức, phương pháp học
môn GDH của sinh viên trường CĐCT.
Thăm dò ý kiến giáo viên về tính khả thi của các biện pháp rèn
luyện kỹ năng học môn GDH.
Phân tích thực trạng nhận thức cũng nh thực trạng phương pháp
học môn GDH của sinh viên các líp sư phạm K31: Địa - Sử, Toán - Lý,
Văn - sử, Thể dục.
7.3 Phương pháp thống kê
Chúng tôi sử dông phương pháp thống kê bằng phần mềm SPSS để xử
lý kết quả đã điều tra.
5
8. Cấu tróc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba
chương.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG HỌC
1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Nghiên cứu vấn đề dạy và học cách học
1.1.2 Nghiên cứu vấn đề kỹ năng và kỹ năng học tập
1.2 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1 Môn GDH trong chương trình đào tạo giáo viên CĐSP
1.2.2 Hoạt động dạy học
1.2.3 Hoạt động học
1.2.4 Kĩ năng học môn GDH
Kết luận chương 1
Chương 2
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ
2.1. Khái quát về trường Cao đẳng Cần Thơ
2.1.1 Thực trạng về đội ngò
2.1.2 Thực trạng về công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên
2.1.3 Thực trạng về cơ sở vật chất
2.1.4 Thực trạng về công tác phối hợp với đoàn thể
2.2 Thực trạng vấn đề tự học môn Giáo dục học của sinh viên
2.2.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên về tự học môn GDH
2.2.2 Thực trạng về cách học môn GDH của sinh viên
2.2.3 Thực trạng mức độ nắm vững quy trình học môn Giáo dục học
của sinh viên
6
2.2.4 Kết quả học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm 2007 - 2008
Kết luận chương 2
Chương 3
BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CẦN THƠ
3.1 Một số yêu cầu cơ bản đối với các biệp pháp
3.2 Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng học môn Giáo dục học cho sinh viên
3.2.1 Nhóm biện pháp nâng cao nhận thức về tự học cho sinh viên
3.2.2 Nhóm biện pháp rèn luyện kỹ năng hoạt động nhận thức cho sinh
viên
3.2.3 Nhóm biện pháp rèn luyện kỹ năng dạy học
3.2.4 Nhóm biện pháp rèn luyện kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục
3.2.5 Nhóm biện pháp rèn luyện kỹ năng học qua bài tập nghiên cứu
3.3 Thăm dò ý kiến cán bộ giáo viên về các biện pháp đã đề xuất
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN VÀ KHUYÕN NGHỊ
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG HỌC
1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, trong khoa học giáo dục có nhiều công trình đã nghiên cứu
về vấn đề tự học, kỹ năng học ở các cấp độ khác nhau tạo nên sự đa dạng về
thể loại và sự phong phú về nội dung tri thức trong lĩnh vực này.
1.1.1 Nghiên cứu vấn đề dạy và học cách học
Khi trình độ xã hội phát triển ngày càng cao, tính tự chủ, năng động,
sáng tạo ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhân
cách cá nhân. Để đáp ứng yêu cầu đó trong cải tiến dạy học cần phải chuyển
từ quan điểm hoạt động dạy truyền thô kiến thức là chủ yếu sang hoạt động
học tự chiếm lĩnh kiến thức kỹ năng của người học là chủ yếu.
Dạy và học cách học có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử giáo dục của
nhân loại. Tự học không phải là vấn đề mới mẻ trong lý luận và thực tiễn dạy
học. Có nhiều tác giả nghiên cứu tự học từ nhiều góc độ khác nhau. Nhiều tác
giả xem xét tự học nh mét hình thức tổ chức dạy học gắn với sự tổ chức định
hướng chỉ đạo của giáo viên trong quá trình hoạt động nhận thức của người
học. Nghĩa là, khi người học tự giác, tích cực, chủ động trong hoạt động
chiếm lĩnh tri thức bằng các thao tác hành động bên ngoài và các thao tác tư
duy được gọi là tự học. Học theo quan niệm này đồng nghĩa với tự học.
Một số tác giả quan niệm tự học chỉ xảy ra khi người học độc lập hoạt
động không có sự hỗ trợ của người khác. Nhưng các tác giả đều thống nhất
quan niệm các kỹ năng học tập (kỹ năng cơ bản) là điều kiện quan trọng đảm
bảo tự học có kết quả.
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, trong quá trình truyền thụ kinh
nghiệm xã hội cho thế hệ sau, các nhà khoa học đã rất quan tâm đến tính tích
8
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Điều đó được thể hiện qua quan điểm
của các nhà giáo dục. Socrate đề ra phương pháp “đỡ đẻ” trong quá trình giáo
dục. Đó là cách người dạy khơi gợi, dẫn dắt để người học tù khám phá ra
chân lý.
J. A. Comenki (1592 – 1670) nhà giáo dục lỗi lạc thế kỷ XVII đòi hỏi
người dạy phải phát huy được tính tích cực của học sinh, làm thế nào để học
sinh hứng thó học tập. Ông còn đÒ ra một số nguyên tắc dạy học mà giá trị
của nó vẫn còn ý nghĩa thực tiễn cho đến ngày nay: nguyên tắc đảm bảo tính
trực quan trong dạy học, nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng, nguyên tắc
tôn trọng đặc điểm đối tượng.
Sau J. A. Comenki, đến thế kỷ XVIII – XIX các nhà giáo dục nh J.J
Rútxô, J. H Petxtalôxi, A Distecvec, J. Dewey đều hướng đến tính tích cực,
động lập sáng tạo trong quá trình phát triển trí tuệ của người học. Tư tưởng
giáo dục vì cuộc sống sáng tạo của Makiguchi; mục tiêu giáo dục theo bốn trụ
cột mà UNESCO (học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để
làm người) còng đã khẳng định vai trò của việc phát huy tính tích cực chủ
động, khả năng tự học là rất cần thiết trong xã hội thông tin, xã hội học tập.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, sau cách mạng tháng mười Nga thành
công, N.K. Crupxcaia (1869 – 1939) đã chỉ rõ tầm quan trọng của học tập
thông qua tự giáo dục. Bà coi mục tiêu chủ yếu của phương pháp giảng dạy là
thôi thúc người học suy nghĩ độc lập và hoạt động tập thể theo cách có tổ
chức, nhận thức được hiệu quả hành động của mình và phát triển cao độ óc
sáng kiến. [42, 229]
Ở nước ta, vấn đề dạy tự học, tổ chức hoạt động tự học nhằm phát huy
tích tích cực, chủ động của người học nhằm đào tạo ra những người lao động
sáng tạo rất được sự quan tâm của các tác giả như Nguyễn Cảnh Toàn,
Nguyễn Kỳ, Lê Khánh Bằng, Vũ Quốc Chung, Trần Bá Hoành, Thái Duy
9
Tuyên, Nguyễn Quang Huỳnh, Nguyễn Thị Tính v v Ngay từ những năm
60 của thế kỷ XX đã nêu cao khẩu hiệu trong nhà trường là “biến quá trình
đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Tinh thần đó tiếp tục được phát huy và ngày một nâng cao hơn. Khi
trình độ xã hội ngày càng phát triển, xã hội thông tin buộc mỗi cá nhân phải
luôn thích ứng nhanh với cuộc sống đầy biến động. Vì vậy, mỗi người phải
trang bị cho mình những kỹ năng sống cơ bản. Một trong những kỹ năng đó là
kỹ năng tự học, tự đào tạo.
Các nhà tâm lý học hoạt động đã chứng minh hoạt động giữ vai trò
quyết định trực tiếp trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Mặt khác,
mục đích cuối cùng của giáo dục, dạy học là phát triển trí tuệ và các phẩm
chất nhân cách của người học. Để có được tri thức thật sự, người học phải tích
cực, chủ động, nhập cuộc vào hoạt động để tạo nên sản phẩm giáo dục của
chính mình. Nhờ đó mà có thể tiếp thu được những kiến thức mới, những kỹ
năng mới và phương pháp học mới. Cái mới đó sẽ bồi dưỡng được cho người
học có cách nhìn đúng đắn về tự nhiên, xã hội, con người, công việc và bản
thân.
1.1.2 Nghiên cứu vấn đề kỹ năng và kỹ năng học tập
Từ lâu vấn đề kĩ năng đã được các nhà tâm lý học và Giáo dục học
quan tâm nghiên cứu theo nhiều cấp độ khác nhau: một là, nghiên cứu kĩ năng
ở mức độ lý thuyết mang tính khái quát; hai là, nghiên cứu kĩ năng cơ bản với
các nguồn tri thức và ở mức độ cụ thể khi học với các bài của từng môn học.
Hướng thứ nhất, nghiên cứu kỹ năng ở mức độ khái quát. Đại diện cho
hướng nghiên cứu này có Ia Ganperin ,V. A Crutexki, P. V Petropxki,
L.F.Kharlamov, P. Ia Ganperin, Ilina
Hướng thứ hai, nghiên cứu kỹ năng cơ bản có các tác giả như D B.
Elkonin, V. V Davưdốp, A. K. Markova, Vũ Trọng Rỹ, Đặng Thành Hưng,
10
Vũ Thị Tường Vi, Nguyễn Văn Đản, Nguyễn Thị Tươi, Nguyễn Văn Hoan,
Bùi Thị Toan, Nguyễn Văn Hoan, Vò Quốc Chung các tác giả nghiên cứu
kỹ năng trong các dạng hoạt động cụ thể như: kỹ năng lao động, kỹ năng sư
phạm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng học tập, kỹ năng đọc sách Các tác giả đã
xây dùng các hệ thống kỹ năng cơ bản tương ứng với từng dạng hoạt động.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất những biện pháp, quy trình rèn luyện kỹ
năng tương ứng .
Thái Duy Tuyên, Nguyễn Như An, Phan Thanh Long, Nguyễn Tất
Thắng, Vò Thị Liên, Nguyễn Minh Chính nghiên cứu về những kỹ năng
liên quan đến nghiệp vụ sư phạm và vấn đề phát huy tính tích cực khi học
môn GDH. Các tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ
nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm. Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên
cứu kỹ năng trong quá trình học bộ môn, kỹ năng vận dụng lý thuyết vào bài
tập thực hành.
Nhìn chung, các tác giả đều lựa chọn lý luận làm cơ sở cho việc đề xuất
các kỹ năng dạy học tương ứng, đề xuất các biện pháp để dạy kỹ năng học tập
cho học sinh. Mục đích đều hướng đến dạy cho người học những phương
pháp học cơ bản, tối thiểu đủ khả năng để thích ứng trong cuộc sống đầy biến
động. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ năng tù học môn GDH nhằm nâng cao chất
lượng tự học cho sinh viên còn chưa được quan tâm nghiên cứu trong các
trường Cao đẳng sư phạm nói chung và trường CĐCT nói riêng. Đây là một
trong những lý do tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp rèn luyện kỹ
năng tù học môn Giáo dục học cho sinh viên ở trường Cao đẳng Cần
Thơ''.
11
1.2 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.2.1 Môn Giáo dục học trong chương trình đào tạo giáo viên Cao đẳng
sư phạm
Giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ khi có xã hội loài người
và sẽ còn tồn tại đến khi nào xã hội còn tồn tại. Quan hệ trong giáo dục là
quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục. Ở nơi này hay nơi khác,
lúc này hay lúc khác, mỗi người có thể là người giáo dục hoặc người được
giáo dục. Khoa học nghiên cứu về giáo dục gọi là khoa học giáo dục. Xuất
phát từ mục tiêu đào tạo, các nhà sư phạm đã lùa chọn, sắp xếp các nội dung
giáo dục theo các nguyên tắc sư phạm và xây dựng thành môn GDH trong
trường sư phạm. Dạy môn GDH nhằm trang bị cho sinh viên sư phạm các tri
thức về GDH đại cương, lý luận dạy học, lý luận giáo dục và phương pháp
nghiên cứu khoa học. Mục đích cuối cùng của việc học môn GDH là nhằm
trang bị cho sinh viên một hệ thống các kiến thức, kỹ năng, phương pháp và
hệ thống các chuẩn mực thái độ, hành vi cần thiết để làm nghề dạy học.
Trường sư phạm là loại trường đào tạo sinh viên làm nghề dạy học. Vì
vậy ngoài những mục tiêu kiến thức, kỹ năng thực hành bộ môn còn có mục
tiêu hình thành cho sinh viên năng lực làm nghề dạy học, đặc biệt là năng lực
giáo dục con người. Một khóa đào tạo kém chất lượng, những sinh viên ra
trường yếu kém sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của 30, 40 thế hệ học
sinh. Đó là lý do vì sao nhiều nước đặc biệt quan tâm đến chất lượng đào tạo
đội ngò giáo viên.
Đầu thế kỷ XXI tổ chức UNESCO đã đề xướng mục tiêu phát triển cá
nhân là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình, học để làm
người. Đó cũng là mục tiêu phấn đấu của các sinh viên sư phạm. Theo cách
tiếp cận này học môn GDH nhằm đạt những mục tiêu như sau:
* Học để biết
12
Học để biết đối với sinh viên sư phạm là biết các kiến thức, kỹ năng về
chuyên môn nghiệp vụ bao gồm:
Biết lợi Ých, giá trị của việc học môn GDH đối với nghề dạy học;
Biết mục tiêu chương trình, các kiến thức, kỹ năng cơ bản về giáo dục
học đại cương, lý luận dạy học, lý luận giáo dục;
Biết các kiến thức cơ bản về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học, giáo dục, phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục;
Biết cách điều tra, phát hiện, chẩn đoán khả năng phát triển của cá
nhân, tập thể líp do mình phụ trách;
Biết các kiến thức về giao tiếp sư phạm phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
học sinh, với đồng nghiệp và cha mẹ học sinh;
Biết các kiến thức cơ bản về tổ chức dạy học, tổ chức các hoạt động
giáo dục, công tác chủ nhiệm;
Biết sử dụng các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập rèn luyện
của học sinh;
Biết các chuẩn mực đạo đức, chính trị về thái độ, hành vi của một giáo
viên trong ứng xử.
Tóm lại, khi học môn GDH sinh viên sư phạm phải biết những kiến
thức liên quan đến nghề dạy học. Đây là một trong những cơ sở ban đầu để
sinh viên học tốt môn GDH.
* Học để làm
Kết quả học tập của sinh viên đối với môn GDH được đánh giá bằng
điểm số. Học để làm là sinh viên phải biết vận dụng tổng hợp các kiến thức,
kỹ năng của các môn học để thực hiện nhiệm vụ cơ bản của một giáo viên là
giảng dạy, làm công tác giáo dục và tự học, tù nghiên cứu. Vì vậy học để làm
thể hiện ở những kỹ năng cơ bản (hay năng lực chuyên biệt) đối với các công
việc đó. Học để làm đối với sinh viên sư phạm là:
13
Biết kỹ năng soạn giáo án;
Kỹ năng tổ chức hoạt động dạy học trên líp;
Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục;
Kỹ năng lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với nội dung bài học;
Kỹ năng tiến hành bài tập nghiên cứu khoa học ;
Kỹ năng phát hiện đặc điểm líp, trình độ học sinh, nhu cầu, hứng thó
của líp mình dạy ;
Kỹ năng đánh giá kết quả học tập của học sinh ;
Kỹ năng làm công tác chủ nhiệm líp ;
Kỹ năng tự học nâng cao trình độ
Sau khi học GDH nếu sinh viên nắm được kỹ năng thực hành, chứng tỏ
họ đã nắm được lý thuyết, nghĩa là sinh viên đã đạt được các mục tiêu học để
biết, học để làm.
* Học để tự khẳng định mình
Tự khẳng định được mình khi sinh viên đã thực hiện được tốt mục tiêu
học để biết, học để làm. Sinh viên chỉ có thể tự khẳng định mình khi hiểu sâu
sắc về giá trị của nghề dạy học. Học để tự khẳng định mình thể hiện:
Tự hào về nghề dạy học;
Tù tin vào sự hiểu biết về nghiệp vụ, kỹ năng thực hành dạy học, giáo
dục của mình;
Năng lực tự đánh giá mình, đánh giá học sinh và mọi người, biết học
hỏi, hợp tác trong công việc, giúp đỡ bạn bè đồng nghiệp trong tập thể;
Tích cực, chủ động trong học tập, trong thực hành nghề dạy học
* Học để làm người
Học để làm người thông qua môn GDH thể hiện:
Làm một công dân tốt, thực hiện tốt các quyền lợi, nghĩa vụ trách
nhiệm của công dân, của một giáo viên;
14
Hình thành những phẩm chất nhân cách của người thầy giáo;
Luôn cố gắng học hỏi, nâng cao trình độ nghiệp vụ, làm tốt nghề dạy
học để đem lại lợi Ých cho bản thân và xã hội;
Có lòng khoan dung, yêu nghề, yêu học sinh ;
Luôn có tinh thần trách nhiệm trong khi thực hành nghề dạy học…
Tóm lại, làm sáng tỏ mục tiêu học để biết, học để làm, học để tự khẳng
định mình, học để làm người trong quá trình dạy và học môn GDH là cơ sở
quan trọng để giáo viên, sinh viên hoàn thành mục tiêu và nâng cao chất
lượng học tập môn Giáo dục học.
1.2.2 Hoạt động dạy học
1.2.2.1 Quan niệm về hoạt động dạy học
Dạy học là một hoạt động kép bao gồm hoạt động dạy và hoạt động
học. Mỗi hoạt động đều có mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức và kết quả. Các yếu tố trong từng hoạt động có mối quan hệ biện chứng
lẫn nhau. Giữa các yếu tố của hoạt động dạy với hoạt động học còng có các
mối quan hệ biện chứng với nhau (mục đích dạy với mục đích học ; nội dung
dạy với nội dung học…). Các quan hệ này, được biểu hiện trong các khâu xây
dựng kế hoạch bài học, tổ chức phối hợp hoạt động của giáo viên và học sinh
trên líp và trong tự học của học sinh.
Trong dạy học, giáo viên là người giữ vai trò chủ đạo điều khiển hoạt
động nhận thức. Vì vậy, giáo viên là chủ thể, học sinh là đối tượng của hoạt
động dạy. Trong hoạt động học, học sinh là người tập trung chó ý, tích cực, tự
giác chiếm lĩnh tri thức khoa học theo yêu cầu của mục đích dạy học. Vì thế
học sinh là chủ thể của hoạt động học, tri thức là đối tượng. Do đó, mục đích,
nội dung, phương pháp, tổ chức, kết quả của hoạt động dạy và hoạt động học
có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Về thực
chất, hoạt động dạy học xét về mặt hình thức diễn ra qua ba khâu: hoạt động
15
độc lập của giáo viên (soạn giáo án) – hoạt động phối hợp của giáo viên và
học sinh (dạy học trên líp) – hoạt động độc lập của học sinh (tự học ở nhà).
Cải tiến dạy học có thể bằng cách nâng cao chất lượng soạn giáo án ; lùa chọn
phương pháp để nâng cao chất lượng phối hợp hoạt động dạy học trên líp và
trang bị cho học sinh các kiến thức, kỹ năng cơ bản để nâng cao chất lượng tự
học của học sinh. Chúng tôi cho rằng, dạy học hướng vào người học (tăng
cường hoạt động chiếm lĩnh tri thức của học sinh) cần tác động đồng thời vào
cả ba khâu soạn giáo án, phối hợp dạy học trên líp và hoạt động tự học của
học sinh.
1.2.2.2 Quan niệm về hoạt động dạy
Hoạt động dạy là quá trình điều khiển hoạt động nhận thức của người
học nhằm thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học. Người học - đối tượng
của hoạt động dạy là chủ thể tích cực, năng động trong quá trình học tập của
chính mình. Theo Trần Bá Hoành nÕu người học không chủ động học, không
có cách học tốt thì việc dạy học khã mà đạt được kết quả mong muốn [18].
Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy và là người hướng dẫn, tổ chức,
điều khiển hoạt động nhận thức của người học. Với vị trí là người tổ chức,
giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học. Nghĩa là, trong mọi tình
huống dạy học, người dạy luôn là người chỉ đường, gợi mở, dẫn dắt người
học khám phá, tìm kiếm, kiến thức, kỹ năng, phương pháp học cho chính
mình. Người dạy là người hướng dẫn người học cách chiếm lĩnh và vận dụng
tri thức. Vì vậy giáo viên phải biết cách tổ chức hoạt động dạy của mình theo
mét quy trình hợp lý sao cho khi thực hiện đạt kết quả mong muốn. Có thể nói
tổ chức hoạt động dạy thực chất là đưa người học vào quá trình thực hiện các
hành động học bằng hệ thống các thao tác theo mét quy trình cụ thể.
Mét trong những mục tiêu cơ bản của dạy học ngày nay là dạy cách
học. Vì thế người thầy trước hết phải là người biết cách học, biết cách nghiên
16
cứu khoa học, biết thu thập, xử lý và vận dụng thông tin. Nếu như trước đây
vai trò chính của người thầy là truyền đạt tri thức (còn người học tiếp thu tri
thức chủ yếu từ thầy) thì ngày nay vai trò của dạy là sự hướng dẫn, là cố vấn,
là người “châm mồi” gợi mở cho sù học, còn người học tiếp thu tri thức chủ
yếu thông qua tự học, phát triển các năng lực sở trường của cá nhân. Vì vậy,
dạy học không đơn thuần cung cấp tri thức mà quan trọng hơn là dạy cho học
sinh con đường tìm kiếm tri thức. Nói cách khác phương pháp dạy chủ yếu là
thông qua dạy các kiến thức cơ bản để dạy cách chiếm lĩnh tri thức, tức là dạy
cách học, dạy phương pháp tự học. Đây là chiếc “chìa khóa” hữu hiệu mà
người học cần có để tự học tất cả những gì cần cho cuộc sống nghề nghiệp.
Ngày nay có rất nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Mỗi phương pháp
đều có thể phát huy tính tích cực nhận thức của người học trong từng tình
huống cụ thể tùy thuộc vào nội dung, đặc điểm của người học, khả năng của
giáo viên và các điều kiện dạy học Do đó người dạy cần biết phát huy tối đa
những ưu điểm của các phương pháp dạy học để hình thành cho người học
phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập,
phương pháp giải quyết vấn đề.
1.2.2.3 Lùa chọn phương án tối ưu cho từng bài học
Lùa chọn tối ưu được hiểu là sự lùa chọn tốt nhất nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất. Lùa chọn phương án tối ưu cho từng bài học có thể hiểu là trong
những điều kiện cụ thể về nội dung, phương tiện, trình độ người học, quỹ thời
gian người giáo viên biết lùa chọn những phương pháp dạy học phù hợp
nhằm đem lại hiệu quả dạy học cao nhất. Đối với môn GDH, để dạy người
học nắm vững kỹ năng học cơ bản, giáo viên căn cứ vào tính chất, đặc điểm
của từng bài học, từng môn học để soạn giáo án theo hướng rèn kỹ năng học
cơ bản.
17
Giáo viên lùa chọn phương án tối ưu cho từng bài học được tiến hành
theo các bước sau:
Bước 1: Phân tích tính chất, nội dung của bài học.
Phân tích mức độ phức tạp của nội dung, nội dung hoàn toàn mới hay
mới một phần, chủ yếu là hình thành lý thuyết hay hình thành kỹ năng hay thí
nghiệm chứng minh, cung cấp thông tin chủ yếu bằng văn bản, dùng lời hay
thông qua bài tập.
Bước 2: Phân tích trình độ của học sinh.
Đa số học sinh học bài này là dễ hay khó hay bình thường.
Nhịp độ học tập của líp là nhanh hay chậm, tích cực hay thụ động.
Những khó khăn thắc mắc học sinh có thể gặp phải.
Bước 3: Phân tích khả năng của bản thân giáo viên.
Mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng của bài này.
Những tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học có thể có được.
Quỹ thời gian cho phép để sử dụng các phương pháp dạy học.
Quan hệ thầy trò đã xây dựng được trong dạy học.
Bước 4: Xác định mục đích yêu cầu của bài học.
Chọn hình thức dạy học phù hợp: trên líp, ở phòng thực hành hay ở cơ
sở sản xuất.
Hình thức dạy học theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân hay cả líp.
Có thể cho học sinh tự học từng phần, thảo luận.
Nếu dạy cả líp thì kết hợp các hình thức dạy học như thế nào.
Bước 5: Cô thể hóa nội dung bài học bằng các thao tác hành động.
Căn cứ vào kết quả phân tích của các bước 1,2,3,4 để lùa chọn những
phương pháp dạy học cụ thể.
Phương pháp dùng trực quan theo nhóm hoặc cả líp.
18
Phương pháp học với các văn bản, tự đọc từng phần theo nhóm nhỏ
hoặc cá nhân để thảo luận trên líp.
Chọn phương pháp làm bài tập, giải quyết vấn đề.
Chọn phương pháp dùng lời: diễn giảng, vấn đáp, thảo luận nhóm, nêu
vấn đề, liên hệ thực tế
Bước 6: Biểu đạt kế hoạch bài học (giáo án) bằng văn bản.
Xác định mục tiêu, các yêu cầu cơ bản của bài.
Những đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, các kiến thức kỹ năng đã
học liên quan đến bài này.
Cách đặt vấn đề kích thích hứng thó học tập.
Hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên líp.
Rèn luyện kỹ năng, củng cố hệ thống kiến thức, hướng dẫn tự học ở
nhà.
1.2.3 Hoạt động học
1.2.3.1 Quan niệm về hoạt động học và tự học
Theo Brown, Bull và Pendlebury, “Học là một sự thay đổi về kiến
thức, cách hiểu, kỹ năng và thái độ thông qua quá trình nhận thức và suy
nghĩ về quá trình nhận thức đó” [45]
Theo lý thuyết thông tin “học là quá trình trong đó chủ thể tự biến đổi
mình, tự làm phong phú mình bằng cách xử lý thông tin lấy từ môi trường
sống xung quanh mình”. [20, 230]
Lý thuyết sư phạm tương tác thì coi việc học nh là sự tương tác giữa bộ
ba người dạy – người học – môi trường. Trong đó người học là “người thợ”
của quá trình tìm kiếm tri thức; người dạy giúp đỡ, là người phục vụ người
học; môi trường ảnh hưởng đến hoạt động của người dạy và hoạt động học
của người học và chính họ cũng có thể làm thay đổi môi trường.
19
Phan Trọng Ngọ cho rằng “học là quá trình tương tác giữa cá thể với
môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi về mặt nhận thức, thái độ hay
hành vi của cá thể đó”. [29,15]
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “học là quá trình tự giác, tích cực, tự
lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo
viên” [43, 57].
Các quan niệm trên đây đều có điểm chung là khi nói học là nói đến
quá trình trong đó người học tích cực, chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Tích cực là trạng thái cá nhân luôn luôn chủ động, huy động cao nhất các
chức năng tâm lý, cơ bắp cũng như kinh nghiệm cá nhân trong quá trình lĩnh
hội tri thức. Người tích cực trong học tập là người khao khát hiểu biết do đó
luôn chủ động sử dụng các thao tác trí tuệ cũng như cơ bắp để tham gia việc
học một cách hiệu quả. Karptrerép đã chia tính tÝch cực thành tích cực bên
ngoài và tích cực bên trong. Tích cực bên trong được thúc đẩy bởi nhu cầu,
động cơ nhận thức và luôn có sự tham gia của các thao tác tư duy vào quá
trình học tập. Tích cực bên trong giữ vai trò quan trọng quyết định trực tiếp
kết quả học tập cũng như kết quả của quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tích cực
bên ngoài thể hiện qua hành vi, cử chỉ, sự chăm chú… mà ta có thể quan sát
được. Tích cực bên ngoài là một trong các điều kiện để thực hiện tích cực bên
trong. Trong quá trình học, người học dùa vào các kết quả nhận thức cảm tính
bằng các giác quan để tiến hành phân tích, tổng hợp khái quát, tìm các mối
liên hệ bản chất của sự vật. Đó là quá trình tư duy diễn ra trong óc người học.
Nhờ kết quả tư duy đó mà người học tiếp nhận được các kiến thức, kỹ năng,
phương pháp mới. Cho nên người ta nói học là hoạt động không ai làm thay
thế được. Dù học được tiến hành bằng bất cứ hình thức nào: trực tiếp “mặt đối
mặt” với thầy, học ở nhà, học với sách giáo khoa, học từ xa, trực tuyến thì
bản thân người học còng phải tập trung chó ý, tích cực, chủ động tù mình tìm
20
kiếm, xử lý thông tin nhằm đem đến sự thay đổi về mặt nhận thức, thái độ,
hành vi, nhờ đó mà nhân cách ngày càng phát triển. Như vậy, hoạt động học
đã bao hàm nghĩa tự học.
Tự học (self – learning) theo Nguyễn Cảnh Toàn “là tự mình động não,
sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất của
mình để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực
đó thành sở hữu của mình”. [35]
Nguyễn Quang Huỳnh thì cho rằng: “tự học là một hình thức hoạt
động nhận thức nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản
thân người học tiến hành ở trên líp hoặc ở ngoài líp” [20, 241].
Đối với sinh viên, tự học là hình thức người học tự tổ chức hoạt động
học tập, tự điều khiển hoạt động nhận thức của chính mình. Tự học không chỉ
giúp sinh viên mở rộng, đào sâu những điều đã học mà còn là con đường chủ
yếu để rèn luyện các kỹ năng, vận dụng, hình thành phẩm chất năng lực cá
nhân. Nếu như người thầy, nội dung, chương trình… là ngoại lực của quá
trình học tập thì người học, động cơ học tập, khả năng tự học chính là nội lực
của quá trình tạo nên chất lượng học tập. Nội lực là yếu tố chính quyết định
trực tiếp chất lượng của việc học. Hai yếu tố nội lực và ngoại lực của quá
trình học tập nếu được tổ chức hợp lí sẽ tạo nên chất lượng học tập. Học và tự
học được định nghĩa như thế nào thì đều có bản chất giống nhau là người học
phải luôn tập trung chó ý, tích cực, chủ động lĩnh hội các tri thức. Giáo sinh
sư phạm là những giáo viên tương lai, có kỹ năng tự học là mục đích và cũng
là phương tiện để họ hình thành năng lực nghề nghiệp và cũng là cơ sở quan
trọng để họ biết cách tổ chức dạy cho học sinh cách tự học.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng: tự học là quá trình cá nhân
tập trung chó ý, tự giác, tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức
nhằm đạt được mục đích học tập của mình.
21
1.2.3.2 Đặc điểm của hoạt động học
Bản chất của hoạt động học hay tự học được thể hiện qua những đặc
điểm cơ bản như sau:
Đối tượng của hoạt động học là tri thức.
Đó là hệ thống kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo được lùa chọn phù hợp với
nội dung môn học. Cái đích (mục đích) mà người học hướng tới là chiếm lĩnh
tri thức thông qua sự tái tạo của cá nhân. Vì vậy hoạt động học còn được gọi
là "hoạt động chiếm lĩnh"[13, 55]. Quá trình chiếm lĩnh tri thức đòi hỏi sự tích
cực năng động của chủ thể – người học. Hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
là đối tượng của hoạt động học. Chất lượng tiếp nhận và sử dụng thông tin nói
lên chất lượng của quá trình học tập.
Học là một loại hình lao động đặc biệt mang tính độc đáo.
Tính độc đáo thể hiện ở chỗ mục đích học là thay đổi chính mình, hình
thành năng lực nghề nghiệp và hoàn thiện bản thân. Những lao động khác làm
thay đổi đối tượng lao động nhưng lao động học không làm biến đổi đối
tượng là tri thức, mà ngược lại nã làm thay đổi chính chủ thể. Quá trình thay
đổi chủ thể học tập là một quá trình kiến tạo những tri thức mới trên cơ sở
tiếp thu, tích lũy, sử dông tri thức của nhân loại. Chủ thể càng tập trung chó ý,
tích cực học tập trong lĩnh vực nào thì tri thức trong lĩnh vực đó càng sâu sắc
hơn.
Học là quá trình chủ thể học một cách độc lập, tự giác, tích cực
trong quá trình nhận thức.
Trong mọi tình huống học tập, đòi hỏi người học phải tích cực trong
quá trình nhận thức. Người học càng tự lực tập trung cao các chức năng tâm
lý, về cơ bắp, huy động toàn bộ kinh nghiệm cá nhân để học trong lĩnh vực
nào càng nắm vững kiến thức, kỹ năng, phương pháp học trong lĩnh vực đó
bấy nhiêu. Tuy hoạt động học tập chịu sự ảnh hưởng của nhân tố khách quan
22
nhưng các nhân tố chủ quan mới là yếu tè quyết định tạo nên chất lượng học
tập. Học bằng bất cứ hình thức nào muốn thành công phải độc độc lập, tự điều
khiển từ bên ngoài đến bên trong (từ hành vi bên ngoài đến thao tác tư duy
bên trong).
Học tập không những tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn
hướng vào việc tiếp thu về cách thức tổ chức hoạt động học, hay nói
cách khác là học cách học.
Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học
(phương pháp học) nghĩa là phải có tri thức về bản thân hoạt động học. Học
cách học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập, hình thành năng
lực nghề nghiệp đồng thời đó là một trong những con đường cơ bản giúp
người học không ngừng bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp.
Hoạt động học bao giê cũng mang cái mới đến cho người học.
Các kiến thức học sinh có được trong hoạt động học không là mới đối
với khoa học nhưng là mới đối với bản thân. Các kỹ năng, phương pháp học
sinh tiếp thu được không là mới với các nhà sư phạm nhưng là mới đối với
học sinh. Nhờ có cái mới đó mà học sinh luôn cảm thấy hứng thó trong học
tập.
Nhu cầu động cơ học tập được người học tiếp nhận trở thành
động lực thúc đẩy hoạt động học.
“Động cơ là động lực kích thích trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của
hành vi”[41, 206]. Trong hoạt động học tập động cơ là những yếu tố cơ bản
thúc đẩy sự nỗ lực học tập của học sinh. Có nhiều loại động cơ khác nhau và
cũng có nhiều cách chia động cơ khác nhau: động cơ gần và động cơ xa, động
cơ quá trình và động cơ kết quả, động cơ bên ngoài và động cơ bên trong
Trong quá trình học tập, người học có thể chi phối bởi nhiều động cơ khác
nhau. Mức độ tích cực của người học chịu sư chi phối bởi động cơ chủ đạo.
23
Ví dụ: học ngành sư phạm vì yêu thích chính nghề dạy học là chủ yếu người
học sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại để trở thành giáo viên. Ngược lại, nếu
học ngành sư phạm do sù Ðp buộc của gia đình (không yêu thích) thì khi gặp
khó khăn trong học tập thì mức độ nổ lực sẽ không cao và người học dễ nản
lòng. Có thể tồn tại nhiều động cơ khác nhau trong cùng hoạt động nhưng
hoạt động học tập phải được kích thích bởi những động cơ phù hợp. Tức là
những động cơ đó phải gắn liền với nội dung học tập (hệ thống tri thức).
Những động cơ xuất phát từ chính bản thân hoạt động sẽ tăng cường hơn tính
tích cực và kết quả học tập sẽ cao hơn. Có động cơ học tập đúng đắn sẽ giúp
người học đạt kết quả học tập mong muốn.
Nhiệm vụ học “là đơn vị (tế bào) của hoạt động học tập.
Sự khác nhau cơ bản của nhiệm vụ học tập với các nhiệm vụ khác là ở
chỗ: mục đích và kết quả của nó là sự thay đổi của bản thân chủ thể hoạt
động, chứ không phải sự thay đổi của các đối tượng mà chủ thể hành động với
chúng” [12, 231]. Nhiệm vụ học tập có thể hiểu là những việc làm mà người
học đề ra cho mình phải thực hiện để lĩnh hội hệ thống tri thức theo yêu cầu
từng môn học để đạt được mục đích học tập.
Hành động học là bộ phận cấu thành của hoạt động học, được
thúc đẩy bởi động cơ của hoạt động và tương ứng với mục đích học tập.
Hành động luôn hướng vào để giải quyết một mục tiêu cụ thể nào đó.
Nhờ hành động học mà người học giải quyết nhiệm vụ học. Hành động học
bao gồm hành động bên ngoài và hành động bên trong: hành động học bên
ngoài có thể quan sát thông qua hành vi; hành động học bên trong là những
thao tác trí tuệ diễn ra trong đầu người học thông qua quá trình nhận thức. Kết
quả hành động bên trong được thể hiện thông qua các hành động học tập bên
ngoài. Nhờ vậy mà có thể đánh giá được kết quả tư duy.
Hoạt động học luôn mang tính sáng tạo.
24
Trong quá trình dạy, giáo viên mong muốn truyền đạt cho học sinh
những kiến thức, kỹ năng theo mục tiêu dạy học. Nhưng học sinh chỉ hứng
thó, tích cực với các nội dung phù hợp với mục tiêu, nhu cầu và năng lực của
mình. Nghĩa là trong quá trình học, học sinh luôn có sự lùa chọn, nhận xét,
phê phán. Nhờ tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo của tư duy mà có thể học
sinh có cách học, cách vận dụng theo cách nghĩ của mình. Đó là mầm mèng
của sự phát triển của tư duy sáng tạo của người học.
Tóm lại, hoạt động học bao giê cũng bao hàm nghĩa tự học và có mục
đích, có đối tượng, có phương pháp học cụ thể. Về bản chất, đây là hoạt động
không chỉ giúp người học lĩnh hội hệ thống tri thức xã hội mà sâu xa hơn là
giúp người học “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Học đại
học chủ yếu là học phương pháp, học cách tư duy. Sinh viên sư phạm là
những giáo viên tương lai (những kỹ sư tâm hồn). Muốn trở thành giáo viên
giỏi người giáo sinh phải biết cách học, cách tổ chức hoạt động nhận thức của
bản thân để sau khi tham gia công tác giảng dạy, có thể tổ chức hoạt động
nhận thức cho học sinh.
1.2.3.3 Hình thức tổ chức hoạt động học
Hoạt động học bao giê cũng được tiến hành thông qua những hình thức
cơ bản như sau:
Hoạt động học có sự điều khiển hướng dẫn của giáo viên.
Hoạt động dạy và hoạt động học luôn có mối quan hệ thống nhất biện
chứng. Giáo viên – chủ thể của hoạt động dạy luôn tổ chức, hướng dẫn, điÒu
khiển hoạt động học; Học sinh – chủ thể thể của hoạt động học dưới sù hướng
dẫn, điều khiển của giáo viên tự điều khiển hoạt động học của mình.
Hình thức tự điều khiển hoạt động học tập.
Đây là hoạt động mà người học độc lập, tự giác hoàn toàn trong quá
trình tổ chức chiếm lĩnh tri thức. Hình thức tổ chức này đòi hỏi tính tự giác
25