Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Skkn một số kinh nghiệm của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.49 KB, 14 trang )

1.TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG
CÔNG TÁC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
2.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Một trong những nguyên lí giáo dục cơ bản của đất nước chúng ta là giáo
dục con người toàn diện. Nhiệm vụ của hệ thống giáo dục Việt Nam là đào tạo,
bồi dưỡng học sinh cả đức lẫn tài. Học sinh đến trường không chỉ để học chữ,
hay chỉ để trang bị cho mình vốn tri thức cần thiết cho hành trang nghề nghiệp
mai sau mà còn để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, và hình thành nên
những phẩm chất tốt đẹp, tiêu biểu cho con người Việt Nam. Hiểu theo nghĩa
truyền thống, học trước tiên là để làm người hay như câu nói “Tiên học lễ, hậu
học văn”. Như vậy, nhà trường phải thực hiện nhiệm vụ kép vừa dạy chữ vừa
dạy cách làm người cho học sinh, nghĩa là vừa trang bị cho các em kiến thức để
hòa nhập, để mưu sinh, đề tiếp tục học lên bậc cao hơn vừa hình thành nhân
cách, đạo đức để các em trở thành người tốt, có ích cho xã hội, cho đất nước.
Bác Hồ đã từng nói:
Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người.
Để đảm bảo được nhiệm vụ trồng người thì mỗi giáo viên phải có nhiệm
vụ đào tạo nên những con người có đức, có tài cho xã hội. Bởi thế nhiệm vụ của
mỗi người không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tự nhiên, xã hội
mà còn phải xây dựng và hình thành cho các em ý thức tự chủ, tinh thần trách
nhiệm cao ngay từ nhỏ… Nói cách khác, giáo viên vừa dạy chữ, vừa dạy cách
làm người cho các em khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Từ nhận thức trên, người giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo học sinh theo mục đích giáo dục toàn
diện. Giáo viên vừa là thầy, vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là
người bạn tốt nhất của các em. Từ đó mới có thể uốn nắn các em đi theo quỹ
đạo của mình. Qua đó rút ra được những kinh nghiệm của mình trong công tác

1




giáo dục kĩ năng sống cho các em. Khi mọi hoạt động của lớp đã đi vào nề nếp
thì việc học tập của các em chắc chắn sẽ tốt hơn.
Đó chính là lí do mà tôi chọn đề tải : “Một số kinh nghiệm của giáo viên
chủ nhiệm trong công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh”
3. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Nói đến kỹ năng sống là nói đến khả năng thích nghi với cuộc sống của
mỗi một cá nhân. Cá nhân đó phải biết vận dụng những hiểu biết của mình
trong cuộc sống và có những hành động, ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội. Trong mỗi lĩnh vực, phạm vi của cuộc sống đòi hỏi mỗi cá nhân
phải có những kỹ năng riêng. Từ các em nhỏ bậc mầm non đến các cụ cao niên
đều cần có những kỹ năng để ứng phó với cuộc sống.Vì vậy, việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh là một việc làm cần thiết.
Để có cơ sở giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, sau đây là một số nội
dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông mà bản
thân tôi tâm đắc nhất (trích trong tập sách Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
phổ thông _ nxb Giáo dục), đó là:
1. Kĩ năng tự nhận thức.
Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân.
Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như
cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá
đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…của
bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra
lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người
giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm
thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có
thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng
của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá

không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất
bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác.
2


Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế,
đặc biệt là giao tiếp với người khác.
2. Kĩ năng thể hiện sự tự tin
Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng với bản thân; tin rằng mình có
thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có
nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ
suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết
vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp người đó có suy nghĩ tích
cực và lạc quan trong cuộc sống.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin là yếu tố cần thiết trong giao tiếp, thương lượng, ra
quyết định, đảm nhận trách nhiệm.
3. Kĩ năng giao tiếp
Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình
thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa,
đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu,
mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và
điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ,
cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này
giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ
mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng
cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và
đây là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp

kết thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng khác như bày tỏ sự
cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn,
kiếm soát cảm xúc. Người có kĩ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong
đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với
3


những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều
người khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn
một cách chính đáng.
4. Kĩ năng hợp tác.
Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Kĩ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và
cùng làm việc có hiêu quả với những thành viên khác trong nhóm.
Biểu hiện của người có kĩ năng hợp tác:
- Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng những
quyết định chung, những điều đã cam kết.
- Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các
thành viên khác trong nhóm.
- Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người
trong nhóm.
- Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm
vụ đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong
quá trình hoạt động.
- Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng
mắc để hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
- Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại của nhóm, về những sản

phẩm do nhóm tạo ra.
Có kĩ năng hợp tác là một yêu cầu quan trọng đối với người công dân trong một
xã hội hiện đại, bởi vì:
- Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng. Sự hợp tác trong
công việc giúp mọi người hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ,
4


tinh thần và thể chất, vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao
hơn cho công việc chung.
Trong xã hội hiện đại, lợi ích của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đều phụ
thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau; mỗi người như một cái chi tiết của một cỗ
máy lớn, phải vận hành đồng bộ, nhịp nhàng, không thể hành động đơn lẻ.
Kĩ năng hợp tác còn giúp cá nhân sống hài hòa và tránh xung đột trong
quan hệ với người khác.
Để có được sự hợp tác hiệu quả, chúng ta cần vận dụng tốt nhiều KNS
khác như: tự nhận thức, xác định giá trị, giao tiếp, thể hiện sự cảm thông, đảm
nhận trách nhiệm, ra quyết định, giải quyết mâu thuẫn, kiên định, ứng phó với
căng thẳng…
5. Kĩ năng kiên định:
Kĩ năng kiên định là khả năng con người nhận thức được những gì mình
muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó. Kiên định còn là khả năng tiến hành
các bước cần thiết để đạt được những gì mình muốn trong những hoàn cảnh cụ
thể, dung hòa được giữa quyền, nhu cầu của mình với quyền, nhu cầu của người
khác.
Kiên định khác với hiếu thắng, nghĩa là luôn chỉ nghĩ đến quyền và nhu cầu của
bản thân, bằng mọi cách để thỏa mãn nhu cầu của mình, không quan tâm đến
quyền và nhu cầu của người khác.
Thể hiện tính kiên định trong mọi hoàn cảnh là cần thiết song cần có cách thức
khác nhau để thể hiện sự kiên định đối với từng đối tượng khác nhau.

Khi cần kiên định trước một tình huống/ vấn đề, chúng ta cần:
Nhận thức được cảm xúc của bản thân.
Phân tích, phê phán hành vi của đối tượng.
Khẳng định ý muốn của bản thân bằng cách thể hiện thái độ, lời nói và hành
động mang tính tích cực, mềm dẻo, linh hoạt và tự tin.
Từ các nội dung của các kĩ năng sống nêu trên, các thầy cô giáo cần có
các phương pháp thích hợp để giúp học sinh tiếp thu và ứng dụng vào cuộc
sống.
5


4.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trong trường học, lâu nay chúng ta nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người.
Nếu chúng ta dạy người thật tốt thì công dân đó sẽ có ý thức tự học suốt đời, sẽ
trở thành những công dân có ích.
Việc thiếu kỹ năng sống đã khiến một bộ phận giới trẻ hiện nay sống lệch
lạc. Biểu hiện tiêu cực trong một số bộ phận học sinh như đánh chửi nhau hay
thái độ lạnh lùng vô cảm trước nỗi đau của người khác; ỷ lại, thiếu thích nghi,
thiếu nghị lực sống vươn lên… ngày càng trầm trọng. Hiện tượng học sinh đến
lớp không học mà chỉ làm việc riêng, hoặc mang điện thoại di động đến lớp
trong giờ học ngồi nhắn tin bậy bạ…Dư luận cho rằng vấn đề đạo đức, lối sống
của một bộ phận học sinh, sinh viên đang bị xuống cấp, đang bị tác động, bào
mòn bởi các giá trị lệch chuẩn. Theo nhiều chuyên gia, một trong những căn
nguyên của tình trạng này là do học sinh, sinh viên ít được trang bị kỹ năng
sống, kỹ năng mềm để xử lý, giải quyết, thích nghi với cuộc sống
Trình trạng học sinh đến trường ít được trang bị kĩ năng sống là do nhiều
nguyên nhân, trong đó nổi cộm lên các nguyên nhân sau :
- Nội dung kiến thức sách giáo khoa quá tải, chưa thu hút học sinh, học
sinh nặng về học bài, ghi nhớ kiến thức, dẫn đến các em lười học.
- Giáo viên dạy trên lớp còn nặng về lí thuyết, ít tạo cơ hội cho các em

thực hành.
- Hiệu quả việc giáo dục thông qua những bài học đạo đức, Giáo dục công
dân trên lớp còn mờ nhạt, do vậy không chuyển hóa được thành ý thức để
mỗi học sinh lại có ý thức cao hơn nữa trong việc vận dụng những hiểu
biết trở thành kỹ năng và thiếu thời gian để rèn luyện.
- Trong gia đình, bố mẹ mải mê kiếm sống, lơ là quản lý, giáo dục con cái,
để các em có những hành vi sai trái …
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đã có sự quan
tâm lớn, chỉ đạo đưa nội dung giảng dạy về kỹ năng sống vào các nhà trường từ
bậc học mầm non điển hình là phong trào thi đua xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực. Tuy nhiên, để công tác giảng dạy kỹ năng sống cho các
em đạt hiệu quả, muốn thu hút được sự quan tâm và nhiệt tình tham gia của các
6


em, phương thức sinh hoạt phải đổi mới, hấp dẫn, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi
của các em. Có như thế, những sinh hoạt tập thể, những hoạt động ngoại khóa,
những thông điệp truyền tải kỹ năng sống mới có thể đạt hiệu quả mong đợi.
`

5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:

Từ những thực trạng nêu trên, là giáo viên chủ nhiệm tôi luôn bám sát
lớp, cố gắng truyền đạt những kĩ năng sống cho học sinh thông qua những giải
pháp là giúp các em nhận thức và vận dụng các kĩ năng sống vào cuộc sống.
Để giúp học sinh nhận thức được một số kĩ năng nêu trên (Phần cơ sở lí
luận), bằng các biện pháp thể hiện qua các tiết sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, 15
phút đầu giờ, tiết sinh hoạt cuối tuần, tiết sinh hoạt dưới cờ và lồng ghép trong
tiết dạy bộ môn của mình lần lượt theo các trình tự sau:
1. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết hoạt động ngoài giờ

lên lớp:
Tiết hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của tất cả các khối lớp ở cấp
trung học cơ sở đều theo trình tự chủ điểm các tháng của năm học; tùy từng nội
dung chủ điểm mà GVCN có thể lồng ghép giáo dục các kĩ năng sống cho học
sinh; cụ thể như sau:
-Tháng 9: Truyền thống nhà trường: Giáo dục học sinh tự giác chấp hành đúng
nội quy, kỉ luật của trường, của lớp, ra sức học tập, rèn luyện để bảo vệ và vun
đắp truyền thống tốt đẹp của trường.
-Tháng 10: Chăm ngoan học giỏi: Rèn luyện kĩ năng điều khiển, tự quản hoạt
động học tập và kĩ năng trình bày, trao đổi ý kiến trước tập thể.
-Tháng 11: Tôn sư trọng đạo: Rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử với thầy cô
giáo, phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo.
-Tháng 12: Uống nước nhớ nguồn: Giúp học sinh biết giữ gìn và phát huy
truyền thống cha anh bằng hành động: kỉ luật tốt, học tập tốt.
-Tháng 1 & tháng 2: Mừng Đảng, đón xuân: Giáo dục học sinh tự giác học tập
tốt, rèn luyện tốt để đền đáp công ơn của Đảng. Biết tôn trọng, giữ gìn bảo vệ
7


và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa
của dân tộc mình.
-Tháng 3: Tiến bước lên Đoàn: Học tập và rèn luyện theo các gương tốt đoàn
viên, có ý thức phấn đấu trở thành đoàn viên.
-Tháng 4: Hòa bình và hữu nghị: Biết tỏ thái độ đồng tình với những cách ứng
xử có văn hóa trong đời sống hằng ngày; biết phê phán những thái độ và cách
ứng xử thiếu văn hóa, không thân thiện.
-Tháng 5: Kính yêu Bác Hồ: Có thói quen rèn luyện thường xuyên theo 5 điều
Bác Hồ dạy.
Trong các tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp theo các chủ điểm nêu trên,
GVCN phải có sự phân công rõ ràng từng nhiệm vụ cho học sinh sao cho em

nào cũng có trách nhiệm, cũng tham gia hoạt động, tránh để các em thụ động thì
sẽ không phát huy hết các kĩ năng của các em. Vì vậy, khi tổ chức tiết sinh hoạt
ngoài giờ lên lớp, GVCN cần lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, chú ý đến sự đa dạng của các hình thức hoạt động nhằm lôi
cuốn học sinh tham gia hoạt động, kích thích tính tích cực hoạt động của các
em. Muốn vậy, người giáo viên cần phải thay đổi các hình thức hoạt động trong
từng chủ điểm giáo dục, tránh chỉ lặp đi lặp lại một vài dạng hoạt động mà học
sinh đã quá quen thuộc.
Thứ hai, tăng cường vai trò chủ thể của học sinh trong hoạt động. Điều
này có hai tác dụng: một là, tạo ra cơ hội để học sinh được rèn luyện và tự
khẳng định mình; hai là, với vai trò chủ thể, học sinh sẽ tự thể hiện những khả
năng của mình trong hoạt động và giúp giáo viên thể hiện ý tưởng của mình
trong tiết ngoài giờ lên lớp.
Thứ ba, cần khai thác tiềm năng của các lực lượng xã hội trong việc tổ
chức cho học sinh.
Thứ tư, khi tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh GVCN
cần phối hợp chặt chẽ với Tổng phụ trách đội để nắm bắt kế hoạch hoạt động
đội thiếu niên, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của tổ chức đội để thực
hiện các hoạt động có hiệu quả.
8


Phương pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết hoạt
động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả nhất là tạo tình huống sinh động và vui
nhộn cho học sinh, cho các em sắm vai trong chuyên đề.
2. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt dưới cờ:
Tiết sinh hoạt dưới cờ đầu tuần được tổ chức theo quy mô toàn trường
với sự tham gia và điều khiển của giáo viên và học sinh. GVCN cần quán
xuyến, quản lí và động viên học sinh lớp mình tham gia vào hoạt động chung
của nhà trường, qua đó giáo dục được các kĩ năng như kĩ năng tự nhận thức, kĩ

năng hợp tác,…
3. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết sinh hoạt cuối tuần:
Trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, GVCN sẽ cung cấp các kĩ năng sống cho
học sinh thông qua các hoạt động chuyên đề sinh động và vui nhộn. Sự sinh
động và vui nhộn này sẽ mang lại niềm vui, sự hứng thú cho các em trong giờ
học. Đồng thời, tiết sinh hoạt cuối tuần là một dịp thuận lợi để học sinh được
rèn luyện khả năng tự quản. Các em tự nhận xét, đánh giá các mặt hoạt động
trong tuần vừa qua, tự đưa ra các biện pháp phù hợp cho hoạt động tuần đến, và
tất cả học sinh đều được quyền có ý kiến của mình, như vậy sẽ rèn được kĩ năng
thể hiện sự tự tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng kiên định, ….
4. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua 15 phút đầu giờ:
Trong các buổi học, 15 phút đầu giờ cũng rất quan trọng nếu thầy cô làm
công tác chủ nhiệm nhiệt tình, quan tâm đến lớp. GVCN nên tạo ra cho học sinh
một thói quen tự quản, nề nếp học tập, biết tự kiểm tra, đánh giá lẫn nhau, truy
bài đầu giờ sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Như vậy sẽ rèn luyện cho các em kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng hợp tác, …
5. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua tiết dạy bộ môn:
Là GVCN cũng là GV bộ môn trong lớp học, thông qua các tiết học, giáo
viên thường xuyên lồng ghép các kĩ năng sống cho học sinh qua từng bài học,
tăng cường kĩ năng thực hành sẽ giúp học sinh rèn luyện được nhiều kĩ năng
sống trong học tập. Qua đó sẽ gây hứng thú học tập, yêu thích bộ môn và nâng
cao chất lượng.
9


Khi học sinh đã nhận thức đầy đủ các kĩ năng sống, các em sẽ vận dụng
tốt trong đời sống của mình.
6. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Từ việc nhận thức đúng đắn về cơ sở lý luận và thực tế trong quá trình
làm công tác chủ nhiệm, với những giải pháp nêu trên mà chúng tôi đã thực

hiện trong những năm học vừa qua. Sau những năm học tập và rèn luyện ở
trường THCS, học sinh đã biết cách tổ chức và điều khiển một số hoạt động phù
hợp với lứa tuổi. Các em hiểu được phải làm gì và làm như thế nào để thực hiện
hoạt động có hiệu quả. Thực tế đã cho thấy, các em học sinh từ chỗ nhút nhát, ít
tham gia vào các hoạt động của lớp, của trường nay đã mạnh dạn hơn. Các kỹ
năng sống của các em như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thể
hiện sự tự tin, kĩ năng hợp tác, kĩ năng kiên định, …, đã dần được hình thành và
phát triển một cách rõ rệt. Đầu năm các em còn lúng túng, ít tham gia các hoạt
động nhưng đến cuối năm thì hầu hết đều tham gia một cách hào hứng. Từ đó,
chất lượng học lực và hạnh kiểm tăng lên đáng kể, cụ thể là:
* Kết quả học lực và hạnh kiểm cuối năm của các lớp tôi đã chủ nhiệm trong
các năm gần đây như sau:

Năm học

Lớp

Học lực TB trở lên %

Hạnh kiểm khá tốt %

2010 - 2011

9/3

98%

91%

2011 - 2012


9/1

100%

97%

2012 - 2013

9/2

100%

100%

Trong năm học 2013-2014, lớp 7/3 mà tôi đang chủ nhiệm cũng đạt nhiều
thành tích đáng kể. Tuy chưa có kết quả cuối năm nhưng qua kết quả học kì I là
học lực 100% trung bình trở lên, hạnh kiểm hầu như các em đều tốt. Ý thức các
em được nâng cao ví dụ như việc tham gia bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn
đạt 100% .
7. KẾT LUẬN:
10


Việc giáo dục kĩ năng sống góp phần vào việc hình thành và phát triển
nhân cách học sinh một cách hợp lý, thiết thực và hiệu quả.
Để giúp học sinh có những kĩ năng sống cần thiết trong cuộc sống thì
người thầy giáo làm công tác chủ nhiệm phải có một số kinh nghiệm trong việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, cung cấp cho các em những hiểu biết đó
thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên đề sinh động và vui nhộn. Sự sinh

động và hứng thú của việc được tham gia vào các hoạt động có liên quan sẽ
giúp học sinh nâng cao ý thức một cách tự nhiên và dễ dàng. Và cũng nhờ vào
các hoạt động này cùng với sự tin tưởng và sẻ chia của thầy cô mà các em sẽ có
được niềm tin, định hướng và nghị lực để phát triển nhân cách. Có câu “Gieo
hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận”.
Hành vi tích cực xuất phát từ sự hiểu biết và ý thức của mỗi con người. Học
sinh cần sự hiểu biết và tự ý thức để phát triển nhân cách theo hướng tích cực.
Muốn như vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cần được xem trọng,
cần được thực hiện trước tiên trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh.
Nội dung giáo dục KNS cần được vận dụng linh hoạt tùy theo từng lứa
tuổi, cấp học, môn học, hoạt động giáo dục và điều kiện cụ thể. Ngoài các KNS
cơ bản trên, tùy theo đặc điểm vùng, miền, địa phương. GV có thể lựa chọn
thêm một số KNS khác để giáo dục cho HS của trường, lớp mình cho phù hợp.
Tuy nhiên, việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh không thể có được
trong một sớm một chiều mà cần có thời gian, quá trình để rèn luyện. Nếu
chúng ta giáo dục, rèn luyện các em tốt trong trường học phổ thông thì sau này
nhất định các em sẽ là người công dân tốt cho xã hội.
8. ĐỀ NGHỊ:
Trong quá trình thực hiện để có được kết quả như trên tôi rút ra một số ý
kiến sau:
1. Người thầy, cô, cha, mẹ , người lớn tuổi phải là tấm gương sáng cho các
em noi theo.
2. Có thể xây dựng lồng ghép những bài học kỹ năng sống, lịch sử, đạo đức
ngay trong tiết chào cờ bằng hình thức phong phú như: hoạt cảnh, văn nghệ, thi
11


vấn đáp, diễn đàn trao đổi... thu hút đông đảo các em tham gia sẽ để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng mỗi học sinh. Giáo dục đạo đức, nhân cách, kỹ năng
sống thông qua hoạt động này sẽ giúp học sinh trưởng thành nhanh chóng so

với hình thức khác.
3. Luôn có sự phối kết hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình, địa phương….
Trong các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho các em.
*Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song không
thể tránh khỏi những thiếu sót và những biện pháp tối ưu.
Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ, ý kiến đóng góp của Hội đồng
khoa học nhà trường bổ sung thiếu sót để kinh nghiệm này đạt kết quả cao hơn.
Đại Đồng, tháng 03/2014
Người viết

HUỲNH THỊ KIM MAI

12


10. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Tập sách Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông _ nxb Giáo dục.
- Tài liệu tập huấn ngoài giờ lên lớp THCS
- Sách hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 7 – Nhà xuất bản giáo dục năm
2003

13


11.
MỤC LỤC

STT


Tiêu đề

Trang

1.

Tên đề tài .......................................... ........................1

2.

Đặt vấn đề .................................................. ...............1

3.

Cơ sở lí luận ...............................................................2

4.

Cơ sở thực tiễn ...........................................................6

5.

Nội dung nghiên cứu ................................................. 7

6.

Kết quả nghiên cứu ...................................................10

7.


Kết luận .....................................................................11

8.

Đề nghị ......................................................................12

10.

Tài liệu tham khảo..................................................... 13

11.

Mục lục...................................................................... 18

14



×