VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM VĂN TRUNG
TỘI CƢỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số
: 62.38.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đề cập trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng
và chính xác.
Tác giả luận án
Phạm Văn Trung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................................... 7
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................................14
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu..........................................................23
Chƣơng 2: TÌNH HÌNH TỘI CƢỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN
ĐÔNG NAM BỘ........................................................................................................... 27
2.1. Tiếp cận từ lý luận Tội phạm học để làm sáng tỏ về tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ............................................................................ 27
2.2. Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2007
đến năm 2016 ..............................................................................................................35
Chƣơng 3: NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CƢỚP
GIẬT TÀI SẢN VÀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI CƢỚP GIẬT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ..........................................62
3.1. Tiếp cận từ lý luận Tội phạm học để làm sáng tỏ các nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ......................62
3.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2016 .............................................66
Chƣơng 4: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƢỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN MIỀN ĐÔNG NAM BỘ ................. 97
4.1. Tiếp cận từ lý luận Tội phạm học để làm sáng tỏ về phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ .............................97
4.2. Thực tiễn phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016……………………………….....100
4.3. Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
trong thời gian tới………………………………………………...…….........109
4.4. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn miền Đông Nam Bộ trong thời gian tới ...........................................................117
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 153
PHỤ LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANTT
An ninh trật tự
BCA
Bộ Công an
BLHS
Bộ luật hình sự
CAND
Công an nhân dân
CQĐT
Cơ quan điều tra
CSHS
Cảnh sát hình sự
CSND
Cảnh sát nhân dân
CSBM
Cơ sở bí mật
CTVBM
Cộng tác viên bí mật
CSKV
Cảnh sát khu vực
CGTS
Cướp giật tài sản
ĐNB
Đông Nam Bộ
THTP
Tình hình tội phạm
TAND
Tòa án nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
XDPT & PTX
Xây dựng phong trào và phụ trách xã
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Số liệu xét xử sơ thẩm số vụ án và bị cáo cướp giật tài sản từ năm 2007
đến năm 2016 trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ................................... 2
Bảng 2.2. Tỷ lệ tình hình tội cướp giật tài sản trong tình hình tội phạm chung trên
địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ...................... 3
Bảng 2.3. So sánh tỷ lệ tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
với tỷ lệ này trên phạm vi toàn quốc từ năm 2007 đến năm 2016 ............ 4
Bảng 2.4. Số vụ, số bị cáo trên số diện tích, dân số từ năm 2007 đến năm 2016 của
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ ............................................ 5
Bảng 2.5. Cơ cấu về mức độ của tình hình tội cướp giật tài sản từ năm 2007 đến năm
2016 của Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ xác định trên cơ sở
yếu tố dân cư và diện tích ....................................................................... 5
Bảng 2.6. Hệ số tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ . 6
Bảng 2.7. Số liệu xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ .... 6
Bảng 2.8.
Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản từ năm 2007 đến năm 2016 được
tính toán trên cơ sở số dân của các tỉnh, thành trên địa bàn miền Đông
Nam Bộ ................................................................................................................ 7
Bảng 2.9.
Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản từ năm 2007 đến năm 2016
được tính toán trên cơ sở diện tích của các tỉnh, thành trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ .................................................................................................... 7
Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản từ năm 2007 đến năm 2016 được
tính toán trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích của các tỉnh, thành
trên địa bàn miền Đông Nam Bộ ............................................................ 8
Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản theo loại tài sản bị cướp giật ......... 8
Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản theo loại và mức hình phạt đã
được áp dụng ........................................................................................... 8
Bảng 2.13. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản xét theo thời gian gây án .......... 9
Bảng 2.14. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản theo phương tiện thực hiện tội
phạm ....................................................................................................... 9
Bảng 2.15. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản theo hình thức phạm tội ....... 9
Bảng 2.16. Một số đặc điểm cơ bản của nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ........... 100
Bảng 2.17. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
theo đặc điểm nạn nhân từ năm 2007 đến năm 2016……………..…..11
Bảng 2.18. Cơ cấu tình hình tội cướp giật tài sản theo phương thức, thủ đoạn thực hiện
tội phạm……………………………………………………………...12
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1. So sánh số vụ cướp giật tài sản với số vụ cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản
trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ........... 14
Biểu đồ 2.2. So sánh số vụ cướp giật tài sản với tội phạm nói chung trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ........................................ 14
Biểu đồ 2.3. So sánh số bị cáo cướp giật tài sản với tội phạm nói chung trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ............................... 15
Biểu đồ 2.4. Diễn biến của tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam
Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ........................................................... 15
Biểu đồ 2.5. So sánh tội cướp giật tài sản với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt trên địa bàn miền Đông Nam Bộ từ năm 2007 đến năm 2016 ....... 16
Biểu đồ 2.6. Cơ cấu của tình hình tội cướp giật tài sản theo loại và mức hình phạt đã
được áp dụng ...................................................................................... 16
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Miền ĐNB là khu vực kinh tế trọng điểm năng động của cả nước, có đường biên
giới giáp Campuchia, đường hàng không, đường biển, đường sắt và là nơi giao cắt
nhiều tuyến giao thông đường bộ huyết mạch; tập trung nhiều khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao; có nhiều trường đại học, bệnh viện, bến xe, bến tàu lớn
của khu vực và cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, lượng dân di cư, sinh
viên tập trung về đây ngày càng đông, kéo theo nhiều dịch vụ nhà trọ, nhà cho thuê,
cầm đồ… khó quản lý.
Thực tiễn cho thấy, thời gian gần đây, ở các tỉnh, thành trên địa bàn miền ĐNB,
tình hình các tội phạm, như tình hình tội cưỡng đoạt tài sản, đâm thuê, chém mướn,
đòi nợ thuê, tội phạm núp bóng doanh nghiệp, tội giết người, cướp, cướp giật, trộm
cắp tài sản… đang có nhiều diễn biến phức tạp theo chiều hướng gia tăng. Theo số liệu
của TAND các cấp trên địa bàn miền ĐNB từ năm 2007 đến năm 2016 có 11.970 vụ
án CGTS được đưa ra xét xử, với 19.818 bị cáo, chiếm 14,07% số vụ án hình sự được
đưa ra xét xử và 12,15% tổng số bị cáo bị xét xử (xem bảng 2.2 – phần phụ lục). Trong
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thì tội CGTS đứng thứ 2 với tỷ lệ
23,14% chỉ đứng sau tội trộm cắp tài sản. Số vụ CGTS do các băng nhóm tội phạm
thực hiện có chiều hướng gia tăng (chiếm 56,4% các vụ CGTS) (xem biểu đồ 2.5 –
phần phụ lục). Nhiều băng, nhóm có phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho từng
người, trong đó có người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật, người đi sau cản đường
gây khó khăn cho việc truy bắt…
Hàng năm số vụ án CGTS xảy trên địa bàn miền ĐNB luôn cao nhất so với các
khu vực khác trên cả nước, trung bình mỗi năm xảy ra 1.197 vụ CGTS, với 1.982 bị
cáo. Miền ĐNB là khu vực có mức độ tình hình tội CGTS cao nhất 0,84 bị cáo/1km2,
trong khi đó địa bàn Tây Nguyên chỉ có 0,03 bị cáo/1km2, và Tây Nam Bộ là 0,10 bị
cáo/1km2 (xem bảng 2.4 – phần phụ lục). Hệ số THTP trung bình là 13,23 bị cáo trên
100.000 dân, cao hơn rất nhiều so với toàn quốc là 4,22 bị cáo trên 100.000 dân (xem
bảng 2.6 – phần phụ lục). Thời gian gần đây, tội CGTS diễn ra ngày càng manh động,
1
táo bạo, liều lĩnh. Có những thời điểm người phạm tội ngang nhiên hoạt động gây án
vào ban ngày, ở giữa nơi đông người, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB trong thời gian qua không chỉ xâm phạm
đến quyền sở hữu mà còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người. Ngoài ra, loại
tội phạm này còn gây ra nhiều hệ lụy khác làm cho gia đình và người thân của nạn nhân
phải gánh chịu những mất mát to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần, làm cho quần chúng nhân
dân hoang mang, lo lắng về sự bình yên của cuộc sống. Trước tình hình đó, các cấp ủy
Đảng và các cơ quan chính quyền trên địa bàn miền ĐNB đã triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như: Nghị quyết số 49/NQ/TW của Bộ chính trị,
ngày 2/6/2015 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 48 - CT/TW, ngày
22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới của Ban chấp hành trung ương Đảng; Nghị quyết số 37/2012/QH13
ngày 23/11/2012 của Quốc hội về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm,
công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án năm 2013; Chỉ thị 09-CT/TW
năm 2011 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
tổ quốc trong tình hình mới do Ban Bí thư ban hành; Kế hoạch 271/KH-BCĐ138/CP thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012-2015 do ban
chỉ đạo 138/CP ban hành; Thông tư liên tịch số 34/2009/TTLT-BGDĐT-BCA về hướng
dẫn phối hợp thực hiện công tác đảm bảo an ninh, trật tự tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống cơ sở giáo dục quốc dân... và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện vẫn chưa có được sự thống nhất giữa các địa phương nên việc triển khai thực
hiện các nội dung, mục tiêu, giải pháp ở một vài địa phương trong miền ĐNB đạt hiệu quả
chưa cao; các giải pháp phòng ngừa đã bộc lộ nhiều hạn chế; việc phân tích, đánh giá
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này chưa chính xác và đầy đủ; tội CGTS vẫn
đang có xu hướng gia tăng về tính chất và mức độ nguy hiểm. Vì vậy, việc nghiên cứu làm
rõ tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện, từ
đó làm cơ sở đề xuất những giải pháp phòng ngừa là một đòi hỏi hết sức cấp bách.
Từ những luận giải trên, tác giả chọn đề tài: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn
miền Đông Nam Bộ: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài
luận án tiến sĩ, chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, mã số: 62 38 01 05.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là xây dựng các giải pháp nhằm tăng cường
phòng ngừa tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung vào thực hiện các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài;
làm rõ những kết quả đã đạt được của các công trình nghiên cứu mà luận án có thể kế
thừa trong quá trình nghiên cứu và xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm
rõ trong luận án.
- Phân tích, đánh giá tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB từ năm 2007
đến năm 2016.
- Phân tích các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội CGTS và nhân thân
người phạm tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB từ năm 2007 đến năm 2016.
- Dự báo tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB và đề ra các giải pháp tăng
cường phòng ngừa tình hình CGTS trên địa bàn miền ĐNB trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tình hình tội CGTS, nguyên nhân, điều kiện và
thực tiễn thực hiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án được nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ Tội phạm học.
- Về thời gian: Từ năm 2007 đến năm 2016.
- Về địa bàn nghiên cứu: Miền Đông Nam Bộ.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận án
- Phương pháp luận
Luận án sử dụng phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt
3
Nam và của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong phòng, chống tội
phạm làm phương pháp luận.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Với phương pháp luận nêu trên, phương pháp nghiên cứu mà tác giả sử dụng là
các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của tội phạm học như mô tả, thống kê, hệ
thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết kinh nghiệm, nghiên
cứu tài liệu, nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghiên cứu điển hình... Tùy thuộc vào đối tượng
nghiên cứu trong từng chương, mục của đề tài, tác giả sẽ lựa chọn phương pháp nghiên
cứu phù hợp. Cụ thể là:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Nghiên cứu phân tích, tổng hợp các văn bản,
tài liệu liên quan đến đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội CGTS nói riêng
đã được áp dụng trong thực tiễn; các kết quả nghiên cứu về tội phạm học, khoa học
luật hình sự, khoa học điều tra tội phạm về phòng ngừa tình hình tội CGTS đã được
công bố và áp dụng.
+ Phương pháp thống kê hình sự: Phương pháp này được sử dụng để thống kê
tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB, kết quả phòng ngừa tình hình tội CGTS
của các cơ quan chức năng trên địa bàn miền ĐNB trong thời gian từ năm 2007 đến
năm 2016.
+ Phương pháp so sánh: Áp dụng phương pháp này để so sánh tình hình tội
CGTS trên địa bàn miền ĐNB với tình hình tội CGTS trên phạm vi cả nước, với địa
bàn Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và giữa các tỉnh, thành trên địa bàn miền ĐNB.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống các báo
cáo sơ kết, tổng kết tháng, quý, năm, các báo cáo chuyên đề về công tác phòng, chống
tình hình tội CGTS của các cơ quan chức năng trên địa bàn miền ĐNB trong thời gian
qua, rút ra những vấn đề có tính quy luật về tội CGTS và công tác phòng ngừa tình
hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
+ Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu các vụ án điển hình về tội
CGTS xảy ra trên địa bàn miền ĐNB để làm rõ tính chất, mức độ hành vi phạm tội,
động cơ phạm tội, phương thức thủ đoạn phạm tội, nhân thân người phạm tội…
4
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Sử dụng phiếu điều tra xã hội học để thu thập ý
kiến của một số đồng chí Điều tra viên, cán bộ trinh sát, CSKV, Công an XDPT & PTX
về những vấn đề có liên quan đến công tác phòng ngừa tình hình tội CGTS trên địa bàn
miền ĐNB, và để thu thập ý kiến của các phạm nhân phạm tội CGTS về hoàn cảnh gia
đình, nghề nghiệp, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc phạm tội của họ…
+ Phương pháp phỏng vấn xin ý kiến chuyên gia: Trực tiếp phỏng vấn, trao đổi
với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận và các cán bộ có nhiều kinh nghiệm
về công tác phòng ngừa tình hình tội CGTS nhằm giải quyết những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tội CGTS và công tác phòng ngừa tình hình tội này của các cơ quan chức
năng trên địa bàn miền ĐNB.
5. Những điểm mới của luận án
Thứ nhất, luận án làm rõ về tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB từ năm
2007 đến năm 2016.
Thứ hai, luận án phân tích làm sáng tỏ những nguyên nhân, điều kiện của tình
hình tội CGTS và nhân thân người phạm tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB từ năm
2007 đến năm 2016.
Thứ ba, luận án dự báo về tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB trong thời
gian tới và đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội CGTS trên địa
bàn miền ĐNB trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt khoa học
Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về phòng ngừa tình hình tội CGTS.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu
khoa học trong lĩnh vực tội phạm học và lĩnh vực khoa học luật hình sự.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án có thể là tài liệu tham khảo để cho các nhà lập pháp xem xét, sửa đổi, bổ
sung những quy định của pháp luật có liên quan đến tội CGTS. Đồng thời luận án còn
là tài liệu có giá trị tham khảo để các cơ quan, tổ chức và cá nhân xây dựng, áp dụng
các giải pháp phòng ngừa có hiệu quả tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB
trong thời gian tới.
5
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, đề
tài được kết cấu gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
Chương 3: Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản và nhân
thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
Chương 4: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn miền Đông Nam Bộ
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Trong thời gian gần đây tình hình tội CGTS có nhiều diễn biến phức tạp, đã và
đang thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và rất nhiều tổ chức, nhà
nghiên cứu tội phạm học ở hầu hết các quốc gia như: Liên bang Nga, Australia, Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia, Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang
Đức... Với nhiều cấp độ nghiên cứu và khía cạnh khác nhau về tội CGTS, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều luận cứ khoa học, những giải pháp phòng ngừa, ngăn
chặn tình hình tội CGTS. Trong số đó có nhiều công trình mang tính khái quát cao ở
tầm quốc gia và có liên quan trực tiếp đến nội dung đề tài luận án. Qua nghiên cứu
một số công trình cho thấy, hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng
ngừa một số loại tội phạm cụ thể luôn là đối tượng nghiên cứu của khoa học pháp lý
và tội phạm học, trong đó có một số công trình nghiên cứu về tình hình tội CGTS
như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản
- Why did they commit crimes? The state of juvenile deliquency in capitalist
countries (tạm dịch: Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên phạm tội ở các
nước tư bản chủ nghĩa) của Melinikova E.B, nhà xuất bản Max-xcơ-va, Molodajai, năm
1974 (bản dịch của Viện Thông tin Khoa học xã hội, xuất bản năm 1982) [119].
Melinikova E.B là nhà tội phạm học người Nga đã dựa trên cơ sở quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin để nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm và tình trạng
thanh, thiếu niên phạm tội ở các nước tư bản chủ nghĩa. Tác giả đã chỉ ra những
nguyên nhân chủ yếu của THTP, như sự thiếu thốn về vật chất ở xã hội tư bản. Điều
kiện vật chất là một yếu tố có sự ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân thân con
người về cách xử sự của họ, ảnh hưởng đó lại càng lớn đối với những người chưa
thành niên, khi mà họ được đặt vào trong các mối quan hệ xã hội rất phức tạp, không
có kinh nghiệm sống, không có nghề nghiệp, trình độ học vấn không vững chắc... mặt
khác, sự chênh lệch rất lớn giữa giàu và nghèo, làm ảnh hưởng tới cách xử sự của thanh,
7
thiếu niên, đặc biệt là những thanh, thiếu niên xuất thân trong các gia đình nghèo. Có hai
trường hợp sẽ xảy ra, một trường hợp phát sinh từ kết quả của các điều kiện vật chất và
điều kiện xã hội khó khăn của con người; trường hợp thứ hai, phát sinh từ kết quả của
những nhu cầu quá mức có thể thỏa mãn được, từ những người thuộc tầng lớp giàu có
trong xã hội. Quan trọng hơn, vẫn còn tồn tại quan niệm về quyền tự do hành động mà
không bị trừng phạt, khi người nghèo phạm tội sẽ bị đưa ra tòa để xét xử làm gương cho
người khác, còn đối với người giàu phạm tội thì chỉ bị xem xét, giải quyết theo cách
thức ngoài Tòa án.
Công trình đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản và nguyên nhân chủ yếu của THTP
nói chung, tình hình tội CGTS nói riêng do người chưa thành niên thực hiện, từ đó làm
cơ sở để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa. Tuy
nhiên, tác giả mới chỉ phân tích làm rõ được nguyên nhân phạm tội của một nhóm người
nhất định là những người chưa thành niên chứ chưa phân tích được nguyên nhân phạm
tội của người phạm tội nói chung. Đồng thời kết quả của nghiên cứu trên được rút ra
trong các nước tư bản chủ nghĩa ở những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ trước. Vì vậy, với
tình hình kinh tế - xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay thì các nguyên
nhân và điều kiện của THTP trong lứa tuổi thanh, thiếu niên được phân tích trong công
trình nghiên cứu trên đã không còn phù hợp.
- Crime and criminology in Japan (tạm dịch: Tội phạm và tội phạm học ở Nhật
Bản hiện đại) của Can Ueda, giáo sư, tiến sĩ luật học, Trường Đại học Tổng hợp
Ritsumeikan, dịch từ bản dịch tiếng Nga của Nhà xuất bản Tiến Bộ, Moskva, năm
1989 [112]. Với công trình khoa học này, nhà tội phạm học người Nhật cho rằng tội
phạm học không phải là khoa học duy nhất nghiên cứu tội phạm. Tội phạm là đối
tượng nghiên cứu của một số ngành khoa học khác như: Luật hình sự, Luật tố tụng
hình sự, Xã hội học, Tâm lý học, Thần kinh học... Tác giả đã đưa ra khái niệm “Tội
phạm học là khoa học nghiên cứu tội phạm và đề ra các biện pháp đấu tranh, phòng
chống”. Tác phẩm đã nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm,
đưa ra các điều kiện cá nhân và xã hội của tội phạm như giới tính, lứa tuổi, cụ thể:
Trong số phụ nữ phạm tội bị Cảnh sát bắt giữ có 42,3% là nữ vị thành niên (năm
1980); trung bình cứ 100.000 người dân trên 15 tuổi thì có 65,6 người phạm tội, trong
8
số những người bị bắt giữ vì phạm tội năm 1981 có 0,7% người bị tổn hại về thần
kinh, sự bất bình thường nhiễm sắc thể giới tính và tội phạm không có mối quan hệ với
nhau. Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong quá trình đô thị hóa xã hội, quá trình
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, sự di cư, tập trung dân cư do quá trình đô thị hóa
đã gây ra sự xáo trộn trong xã hội, gây ra sự mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội,
hạn chế sự đoàn kết dân cư trong khu vực về phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
- An introduction to Crime and Criminology (Tạm dịch: Giới thiệu về tội phạm
và tội phạm học), sách chuyên khảo của Hennessy Hayes và Tim Prenzler, xuất bản
tại Pearson Australia, năm 2014 [114]. Tài liệu được tổng hợp và nghiên cứu của hai
chuyên gia tội phạm học người Australia là Hennessy Hayes và Tim Prenzler. Công
trình là sự đúc kết từ thực tiễn nghiên cứu. Bằng việc phân tích và tổng hợp những
quan điểm khác nhau của các cá nhân, cơ quan có uy tín của Australia trong lĩnh vực
nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, về THTP, các tác giả cho rằng, nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố tiêu cực như:
Từ phía người bị hại, từ môi trường cộng đồng xã hội, từ chính sách pháp luật của
quốc gia, từ môi trường giáo dục... các nhận thức, và hướng tiếp cận nghiên cứu trên
sẽ được nghiên cứu sinh tiếp thu và vận dụng trong nghiên cứu những nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
- Youth crime and youth culture in the inner city (Tạm dịch: Tội phạm thanh, thiếu
niên và văn hóa giới trẻ trong khu vực nội thành) của tác giả Sanders, Bill, Nhà xuất bản
New York: Routledge, năm 2005 [121]. Công trình nghiên cứu đã phân tích làm rõ bức
tranh toàn cảnh về tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện trong nội thành thành phố của
xã hội hiện đại với xu hướng ngày càng gia tăng trong đó đáng chú ý là các hành vi phạm
tội như CGTS, trộm cắp, mua bán ma túy... Các tác giả cũng tập trung làm rõ về động cơ,
thái độ của những người phạm tội, qua đó cho thấy phần nào các đặc điểm nhân thân
người phạm tội và vai trò của môi trường kinh tế - xã hội tác động đến quá trình hình
thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Những nghiên cứu này rất có giá trị trong
phân tích nguyên nhân của các hành vi phạm tội, trong đó có tội CGTS trên các tuyến
trọng điểm trên địa bàn miền ĐNB.
9
- Cuốn sách The Liverpool underworld: crime in the city, 1750-1900 (Tạm dịch:
Thế giới ngầm ở Liverpool: Tội phạm trong thành phố giai đoạn 1750 – 1900) của tác
giả Macilwee, Mick. Nhà xuất bản Liverpool University Press, năm 2011 [118]. Với
354 trang, công trình nghiên cứu đã làm rõ được thực trạng THTP ở thành phố
Liverpool trong thế kỉ 19. Theo đó, Liverpool được mệnh danh là thiên đường ẩn náu
của tội phạm trong cả nước. Thông qua các số liệu thống kê về tội phạm và tệ nạn xã
hội, tác giả đã làm rõ về thực trạng của THTP và các tệ nạn như mại dâm, rượu chè,
cướp giật... ngoài ra, tác giả còn đi sâu vào phân tích những nguyên nhân, điều kiện,
hoàn cảnh xã hội, các sự kiện diễn ra trong xã hội tác động đến sự gia tăng của THTP.
Tác giả cũng đi sâu phân tích về vai trò của những đặc điểm bên trong của người phạm
tội, như: Động cơ, nỗi sợ hãi, sự tự hào hay khát vọng… trong cơ chế hành vi phạm tội.
Như vậy, những công trình nghiên cứu của các tác giả người nước ngoài về nhân
thân người phạm tội và nguyên nhân và điều kiện của THTP đã chỉ ra được một số đặc
điểm nhân thân người phạm tội, các thông số của THTP và những nguyên nhân và
điều kiện của THTP nói chung, tội CGTS nói riêng. Kết quả nghiên cứu của các công
trình trên sẽ được nghiên cứu sinh tiếp thu và sử dụng để nghiên cứu về tình hình,
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội CGTS cũng như các đặc điểm nhân thân
của người phạm tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về giải pháp phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản
- Trong tác phẩm Crime prevention – Theory and Practice (Tạm dịch: Phòng
ngừa tội phạm – Lý luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider giáo sư về lĩnh vực
khoa học xã hội học và tội phạm, thuộc Đại học Saint mary, Halifax, Nova Scotia,
Canada, năm 2005 [124]. Tác giả nhấn mạnh các vấn đề lý luận về phòng ngừa tội
phạm, tình huống phòng ngừa tội phạm và phòng chống tội phạm thông qua thiết kế môi
trường. Theo tác giả, việc phòng ngừa tội phạm còn được thực hiện thông qua hoạt động
phát triển xã hội cho thanh, thiếu niên và người lớn, thông qua cộng đồng xã hội... Với
công trình này, Stephen R. Schneider đã đưa ra và giải thích một cách khoa học về hoạt
động phòng ngừa tội phạm như: Giảm nguy cơ phạm tội bằng cách thay đổi hành vi của
các nạn nhân tiềm tàng trong xã hội; giám sát mọi cơ hội tiếp cận để phòng ngừa hành vi
10
phạm tội; các biện pháp kiểm soát lãnh thổ, không gian, kiểm soát xã hội không chính
thức, nhằm giảm những nguyên nhân, điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm. Tác giả
cũng chỉ ra được những hạn chế và cách giải quyết những hạn chế của việc áp dụng các
giải pháp giải quyết vấn đề xã hội cho người phạm tội, tập trung vào công tác phòng
ngừa tái phạm, nâng cao trách nhiệm của cộng đồng trong phòng ngừa tội phạm. Những
luận điểm trên có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu để xây dựng hệ thống các giải
pháp phòng ngừa tình hình tội CGTS trên địa bàn miền ĐNB, đặc biệt là các giải pháp
phòng ngừa tái phạm.
- Theoretical basis of crime prevention (Tạm dịch: Cơ sở lý luận của việc
phòng ngừa tội phạm) của Mikovskij G.M, Nxb. Max – xcơ –va, Jurid, Literature,
năm 1977, (bản dịch của Viện thông tin Khoa học xã hội, năm 1982) [120]. Đây là
công trình nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở lý luận của phòng ngừa tội phạm. Công
trình chỉ rõ tội phạm là một hiện tượng xã hội và phương hướng đấu tranh chống tội
phạm cơ bản nhất là phòng ngừa tội phạm. V.I Lênin đã chỉ ra rằng, khâu quyết định
của việc phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác là phải xác định được
nguyên nhân và các biện pháp để loại trừ các nguyên nhân đó. Trong đó, phải giải
quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất của quần chúng, phải không ngừng tăng
cường tính tự giác của quần chúng, tích cực, tạo điều kiện cho quần chúng tham gia
quản lý công việc của nhà nước, của xã hội; đồng thời phải theo dõi, thống kê đầy đủ
và kịp thời tội phạm và các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm để có cơ
sở đề xuất các biện pháp phòng, chống tội phạm có hiệu quả; áp dụng kịp thời các
hình phạt để bảo đảm tính răn đe, giáo dục để phòng ngừa tội phạm.
Theo các tác giả, hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội phạm, gồm:
+ Tổng hợp các giải pháp chung của toàn xã hội và các giải pháp đặc thù kết hợp
và phối hợp chặt chẽ với nhau, trong đó có xác định rõ các biện pháp chủ đạo;
+ Kết hợp nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục;
+ Hoạt động phòng ngừa tội phạm phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và các cơ quan nhà nước;
11
+ Tạo điều kiện thuận lợi nhất, vận động quần chúng tham gia rộng rãi và tích
cực vào việc phòng ngừa tội phạm;
+ Nghiên cứu tội phạm học và các biện pháp phòng ngừa tội phạm một cách sâu
sắc và toàn diện, có kế hoạch, chiến lược cụ thể cho từng giai đoạn; phân loại các biện
pháp phòng ngừa theo mức độ, nhân thân người phạm tội, kết hợp các biện pháp tác
động chung, tác động theo nhóm và tác động cá nhân;
+ Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền công dân trong phòng ngừa
tội phạm.
Trong hệ thống các biện pháp phòng ngừa, có các biện pháp phòng ngừa riêng
được áp dụng với các chủ thể cụ thể nhằm: Loại trừ những sự tác động không tốt đối
với cá nhân đó; làm thay đổi cách ứng xử tiêu cực không được sự chấp thuận của xã
hội hoặc các học thuyết, quan điểm, quan niệm, sở trường theo hướng sai lệch hoặc đề
phòng việc thực hiện hành vi phạm tội.
Theo quan điểm đó, các nhà luật học đã xác định những biện pháp phòng ngừa
riêng được áp dụng với các chủ thể có dấu hiệu đặc trưng sau:
+ Chưa phạm tội nhưng đang ở trong môi trường có đầy đủ những điều kiện
thuận lợi để có thể phạm tội;
+ Những người đang có quan điểm, lối sống tiêu cực, chống lại các giá trị đạo
đức, truyền thống tốt đẹp của xã hội, có những vi phạm nhỏ chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự;
+ Những người có ý đồ phạm tội, đang hình thành động cơ phạm tội, đang chuẩn
bị phạm tội;
+ Đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa thực hiện hành vi phạm tội
đến cùng.
Về các biện pháp đặc biệt phòng ngừa tội phạm, các tác giả cho rằng đó là những
biện pháp do các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân
tiến hành nhằm trực tiếp loại trừ các yếu tố tội phạm học, các nguyên nhân, điều kiện
làm nảy sinh tội phạm, nhằm giáo dục và cải tạo những người có thể phạm tội hoặc đã
phạm tội. Các biện pháp này gồm hai loại, loại thứ nhất là những biện pháp mang tính
chất “tín hiệu”, tức là những dự kiến về sự cần thiết phải tác động một cách có mục
12
đích, có định hướng vào những yếu tố tội phạm học hay những người, nhóm người
nhất định; thứ hai là những biện pháp tác động trực tiếp.
Về mặt nội dung, các biện pháp phòng ngừa đặc biệt có thể được phân thành các
loại sau:
+ Các biện pháp kinh tế - xã hội, nhằm điều chỉnh biến động của dân cư, số
lượng, cơ cấu dân cư từng vùng, có tính đến nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm;
+ Các biện pháp điều chỉnh các hướng chính trong chính sách và đường lối đấu
tranh phòng, chống tội phạm;
+ Các biện pháp tư tưởng, văn hóa, giáo dục: để giải quyết nhiệm vụ phòng ngừa
bằng các biện pháp tổng hợp trong công tác giáo dục nhằm loại trừ các quan điểm
chống đối xã hội, các thói quen, tập quán lệch chuẩn, chống lại xã hội...;
+ Các biện pháp tổ chức và quản lý nhằm phổ biến những kinh nghiệm tốt trong
phòng ngừa tội phạm để hoàn thiện hệ thống phòng ngừa.
Qua những phân tích ở trên, cho thấy đây là một công trình nghiên cứu khoa học
có chất lượng cao, đã làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm, cơ sở pháp lý chung của phòng
ngừa tội phạm nói chung, tội CGTS nói riêng. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã phân
tích phương pháp đặc trưng, chủ thể chính, các chủ thể phối hợp, các đối tượng của
các hoạt động phòng ngừa tội phạm trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Tuy công
trình nêu trên nghiên cứu đã lâu nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự giao
thoa giữa các nền văn hóa như hiện nay, thì nó vẫn còn giá trị tham khảo để nghiên
cứu cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn và làm rõ cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng
ngừa các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội CGTS và đề xuất các giải pháp phòng
ngừa THTP này.
- Đặc điểm hình sự tội phạm cướp giật tài sản công dân trên địa bàn thành phố
Phnômpênh vương quốc Campuchia, Ly SuViChhay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện CSND, năm 2005 [117]. Nội dung của luận văn đã xác định những nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm CGTS trên địa bàn Phnômpênh và hệ thống các biện pháp
phòng ngừa nhằm kéo giảm, hướng tới xóa bỏ loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã
hội. Tác giả chỉ rõ, để phòng ngừa đối với loại tội này cần áp dụng đồng bộ, có hiệu
quả các biện pháp phòng ngừa sau:
13
+ Thực hiện tốt công tác xây dựng đặc tình và CSBM trên những tuyến, khu vực
phức tạp nhằm chủ động phát hiện các đối tượng phạm tội CGTS;
+ Công tác sưu tra quản lý đối tượng có nhiều khả năng gây ra các vụ CGTS
công dân, trong đó chú ý đến các đối tượng thuộc loại nguy hiểm như: Lưu manh
chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự...;
+ Tuần tra, kiểm soát công khai các khu vực thường xuyên xảy ra các vụ CGTS,
trong đó chú ý các tuyến trọng điểm, tổ chức phục kích, đón lõng vào những thời gian
cao điểm ở các khu vực, tuyến thường xảy ra tội phạm.
Như vậy, có thể khẳng định đây là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về
cơ sở lý luận, đặc điểm hình sự của tội CGTS công dân, tác giả đã đưa ra được một hệ
thống các biện pháp phòng ngừa đối với tội phạm này. Tuy nhiên, đây là một công
trình nghiên cứu với chủ thể phòng ngừa chính là lực lượng CAND nên các biện pháp
đưa ra còn mạng nặng tính nghiệp vụ đặc thù mà chưa đưa ra được các biện pháp
phòng ngừa xã hội mang tính chuyên sâu.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội cướp giật
tài sản và công tác phòng ngừa loại tội này
Thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận
về tội CGTS, có thể kể đến các công trình khoa học tiêu biểu sau đây:
- Bình luận khoa học BLHS, của Nguyễn Ngọc Điệp, Nhà xuất bản Thanh niên,
năm 2009 [37]; Bình luận khoa học BLHS, của Trần Minh Hưởng, Nhà xuất bản Hồng
Đức, năm 2012 [51]; Bình luận khoa học BLHS, do Nguyễn Đức Mai chủ biên, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2010 [55]; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần
các tội phạm, của Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, năm 2011; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, của Trường Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản
CAND, năm 2010 [91]; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, của
Đại học Huế - Nhà xuất bản CAND, năm 2008 [89]. Các giáo trình, tài liệu trên đều đề
cập đến khái niệm về tội CGTS, các khái niệm, định nghĩa về tội này cơ bản đã phản
ánh được nội dung, bản chất của tội CGTS đã làm rõ được tính công khai và nhanh
chóng; làm rõ được khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội
14
CGTS. Đây là tiền đề, là cơ sở pháp lý để nghiên cứu sinh tiếp cận và nghiên cứu tội
CGTS trên địa bàn miền ĐNB.
- Tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, của
Trần Văn Hiệp, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, năm 2014 [47]. Đây là công trình khoa
học nghiên cứu tương đối toàn diện về mặt lý luận đối với tội CGTS và thực tiễn trong
việc áp dụng pháp luật đối với tội phạm này. Theo tác giả, “CGTS là hành vi chiếm đoạt
tài sản đang do người khác quản lý một cách công khai và nhanh chóng” [47, tr5]. Với
những kết quả đạt được của luận văn sẽ giúp cho nghiên cứu sinh tham khảo về tội
phạm này dưới góc độ pháp luật hình sự và đưa ra cơ sở khoa học hoàn thiện pháp luật
và đề ra hệ thống giải pháp phòng ngừa có hiệu quả với tội phạm này, có cơ sở để so
sánh giữa tội CGTS trên cả nước với miền ĐNB.
- Tội cướp giật tài sản theo Luật hình sự Việt Nam: Một số khía cạnh pháp lý
hình sự và tội phạm học, Luận văn thạc sĩ luật học, của Lê Thị Thu Hà, Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2004 [38]. Đây là công trình khoa học nghiên cứu tiếp cận tội CGTS
trên hai phương diện: Phương diện Luật hình sự và phương diện Tội phạm học. Thứ
nhất, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội CGTS như
lịch sử phát triển của Luật hình sự Việt Nam về tội phạm này, khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý và trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Những kết luận của tác giả là
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu sinh khi nghiên cứu về tội CGTS
trong luận án của mình.
- Giáo trình tội phạm học, của Trường Đại học Huế [100], GS.TS.Võ Khánh
Vinh đã xác định “Công tác đấu tranh với THTP có hai phương hướng tác động
chặt chẽ với nhau: Phòng ngừa và việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các tội
phạm”[100, tr.154]. Tác giả nhấn mạnh “Việc phòng ngừa THTP là hệ thống nhiều
mức độ các biện pháp mang tính chất nhà nước, xã hội và nhà nước xã hội nhằm
khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm
yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ THTP” [100,
tr.155].
Theo tác giả, việc phòng ngừa THTP được thực hiện bằng cách giải quyết cả
những nhiệm vụ xã hội (phòng ngừa chung toàn xã hội) lẫn những nhiệm vụ chuyên
15
môn (chuyên ngành). Trong đó, phòng ngừa chung toàn xã hội được thực hiện một
cách nhất quán bởi quá trình phát triển và hoàn thiện về mọi mặt của xã hội chúng ta,
bởi việc thực hiện các quy luật và tính ưu việt của xã hội. Còn phòng ngừa chuyên
môn (chuyên ngành) được hiểu là tổng thể các biện pháp tác động pháp luật và các
biện pháp giáo dục, tổ chức kỷ luật hướng đến việc phòng ngừa THTP nói chung,
THTP của một loại tội phạm nào đó hoặc các tội phạm cụ thể như: Tội phạm giết
người, cướp tài sản, CGTS... Các biện pháp phòng ngừa THTP được phân loại theo:
Nội dung; khối lượng; phạm vi; khách thể và những người nhận sự tác động; cơ chế
tác động, cường độ (sự tương quan của các yếu tố thuyết phục và cưỡng chế). Trong
đó theo nội dung có các biện pháp phòng ngừa mang tính chất kinh tế, nhân chủng
học, chính trị, tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật và pháp lý, theo khối lượng được chia thành
các biện pháp phòng ngừa chung, riêng và cá nhân, theo phạm vi gồm có các biện
pháp của Nhà nước, của khu vực, địa phương...
Các chủ thể của hoạt động phòng ngừa là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã
hội và các tập thể, cũng như mọi công dân trong phạm vi, trách nhiệm của mình
trong công tác phòng ngừa tội phạm. Mỗi chủ thể này có các chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, nghĩa vụ nhất định và phải chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện chúng.
Giáo trình đã nêu rõ các chủ thể của hoạt động phòng ngừa THTP bao gồm: Các tổ
chức Đảng, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan của Hội đồng nhân dân các
cấp; các chủ thể quản lý về mặt quyền lực nhà nước; các cơ quan quản lý chung và
quản lý kinh tế; các cơ quan bảo vệ pháp luật; các tổ chức xã hội, các tập thể lao
động và công dân.
- Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, cuốn sách chuyên khảo của
GS. TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản CAND, năm 2001 [107], đã phân tích và
đưa ra khái niệm về phòng ngừa tội phạm. Theo đó, “phòng ngừa tội phạm là hoạt
động cải tạo các quan hệ xã hội nhằm mục đích loại trừ những nguyên nhân tội phạm,
loại trừ các điều kiện tạo thuận lợi phát sinh ra các hành vi phạm tội, hạn chế hoặc cô
lập các nhân tố tội phạm hoặc có sự ảnh hưởng đến sự hình thành các đặc điểm chống
xã hội của con người phạm tội” [107, tr.196]. Ở nghĩa rộng “phòng ngừa tội phạm
được hiểu như là một bộ phận của hoạt động hạn chế, xóa bỏ các nguyên nhân làm
16
nảy sinh tội phạm, là một phần nhiệm vụ của hệ thống kiểm tra xã hội, hoàn thiện lối
sống xã hội chủ nghĩa, và hình thành con người mới” [107, tr.197]. Như vậy, ngoài
việc làm triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện nảy sinh, tồn tại và phát triển của tội
phạm còn phải kết hợp với việc hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, gắn liền
với mục đích của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác giả xác định: Chủ thể
phòng ngừa tội phạm là toàn bộ các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các công
dân ở những mức độ và quy mô khác nhau đang tiến hành lãnh đạo, lập kế hoạch các
biện pháp phòng ngừa tội phạm, quản lý hoặc trực tiếp thực hiện những biện pháp
phòng ngừa hoặc đảm bảo cho việc thực hiện nó.
- Tội phạm học Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của tập thể tác giả
Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do TS. Phạm Hồng Hải làm chủ biên, Nhà
xuất bản CAND, năm 2000 [39]. Trong phần IV Vấn đề phòng ngừa tội phạm trong tội
phạm học. Tác giả đã phân tích và đưa ra khái niệm: “Phòng ngừa tội phạm là tổng
hợp các biện pháp khác nhau của Nhà nước, xã hội nhằm khắc phục, hạn chế và loại
trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn, hạn chế và tiến tới thủ tiêu
tội phạm trong xã hội. Như vậy, khái niệm phòng ngừa tội phạm được tác giả xây
dựng phù hợp với các nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc nhân đạo
xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc bảo đảm sự phối hợp đồng bộ trong phòng ngừa tội
phạm” [39, tr.237].
- Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, năm 1994 [94], cuốn sách chuyên khảo của tập thể các nhà khoa
học Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật do GS. TSKH Đào Trí Úc chủ biên đã liệt
kê các cơ quan, tổ chức sau có thể coi là những chủ thể chính của hoạt động phòng
ngừa tội phạm: Các tổ chức của Đảng cộng sản Việt Nam; Hội đồng nhân các cấp; các
cơ quan quản lý hành chính, kinh tế nhà nước; các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và
Tòa án; các cơ quan thuộc Bộ tư pháp, các tổ chức xã hội, tập thể lao động và cá nhân.
Theo tác giả, trong tội phạm học Việt Nam có thể có những biện pháp phòng ngừa sau:
Phòng ngừa tội phạm theo cấp độ xã hội chung; phòng ngừa tội phạm theo cấp độ
chuyên ngành; các biện pháp phòng ngừa tội phạm theo phạm vi lãnh thổ. Công trình
đã nghiên cứu và chỉ rõ nội dung của các biện pháp phòng ngừa tội phạm được xác
17
định trên cơ sở tính chất của sự phòng ngừa. Theo đó, có: Biện pháp kinh tế, chính trị
xã hội, văn hóa tư tưởng, tổ chức quản lý, pháp luật và biện pháp phòng ngừa theo
chức năng.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến tình hình tội cướp giật
tài sản, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản
- Theo GS. TS Võ Khánh Vinh thì “Tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản đầu
tiên của khoa học tội phạm học. Đó là một thuật ngữ khoa học, nhưng đồng thời cũng
là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn ngữ đời
thường” [100, tr.54]. Thông qua các dấu hiệu, các thuộc tính của THTP Giáo sư đã
đưa ra khái niệm về THTP như sau: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội,
pháp lý – hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng
thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất
định và trong một khoảng thời gian nhất định” [100, tr.61].
Ngoài những dấu hiệu, đặc điểm chung của THTP, sự thống nhất biện chứng của
tất cả các yếu tố cấu thành THTP còn biểu hiện ở các thông số (đặc điểm) về lượng và
các thông số về chất của nó. Sự thay đổi một trong những thông số đó ở dạng tổng thể
hay dạng từng phần đều dẫn đến sự thay đổi của THTP nói chung.
+ Những thông số (đặc điểm) về lượng của THTP là thực trạng (mức độ) và động
thái (diễn biến) của nó.
Trong đó thực trạng của THTP là số lượng các tội phạm đã được thực hiện và
những người thực hiện các tội phạm đó ở một địa bàn nhất định và trong một khoảng
thời gian nhất định.
Khi xác định số lượng các tội phạm đã được thực hiện cần phải tính tổng cộng
các số lượng sau: Số lượng các tội phạm và những người bị Tòa án xét xử và tuyên
bản án buộc tội; số lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng
minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; các số liệu về số
lượng các tội phạm không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn); hệ số của THTP;
mức độ của THTP tái phạm. Khi phân tích thực trạng của THTP người ta sử dụng cả
hệ số của THTP tức là mối tương quan của số lượng các tội phạm đã thực hiện với số
lượng dân cư tính trên 10.000 hoặc 100.000 người.
18