Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện mỹ đức, thành phố hà nội hiện nay luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.55 KB, 111 trang )

nh÷ng ch÷ viÕt t¾t trong luËn v¨n
CNDVBC
CNDVLS
CNXH
CNH, HĐH
CHXHCN
CCB
CT/TW
ĐTNCSHCM
HĐND
HĐND- UBND
QĐ- TTg
QĐ-BNV
QĐ/HU
NQ/TW
NĐ-CP
UBMTTQVN
UBND
KL/TW
KHHGĐ
TL
XHCN

Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Cựu chiến binh
Chỉ thị Trung ương
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh


Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân- Ủy ban nhân dân
Quyết định Thủ tướng
Quyết định bộ Nội vụ
Quyết định huyện ủy
Nghị quyết Trung ương
Nghị định Chính phủ
Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Ủy ban nhân dân
Kết luận Trung ương
Kế hoạch hóa gia đình
Tỉnh lộ
Xã hội chủ nghĩa

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.........................................................................................................1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của cán bộ.
Người nói: Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh "cán bộ là cái gốc của mọi công việc",
"công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém" [48, tr.478-492].
Thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định:
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với sứ

mệnh lịch sử của Đảng, của đất nước và của chế độ. Trong các Văn kiện
Đại hội từ Đại hội VI đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, Đảng ta nhiều lần nêu rõ: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, mà trong công tác xây dựng Đảng
thì cán bộ và công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu "then chốt trong
vấn đề then chốt", là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Thực tế nhiều năm qua cho thấy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
luôn được các cấp uỷ Đảng quan tâm và có sự trưởng thành, đáp ứng với
nhiệm vụ chính trị, góp phần củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân
vào sự nghiệp cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, việc
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã thật sự có chất lượng còn nhiều
bất cập, nhiều vấn đề cần xem xét nghiên cứu làm sáng tỏ, nhằm xây dựng
cho được đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã thực sự đáp ứng với yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết số 17, Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), ngày 18-32002, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá: Hệ thống chính trị ở cơ sở

1


hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ
chức thực hiện và vận động quần chúng... Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được
đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Huyện Mỹ Đức thành phố Hà Nội, mặc dù điều kiện kinh tế còn
nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và nhân dân trong huyện luôn đoàn kết
một lòng, quyết tâm xây dựng huyện vững mạnh về mọi mặt. Cho đến nay
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong huyện đã được nâng cao
rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được bảo đảm ổn định
giữ vững và tăng cường… tạo thêm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Đạt nhiều thành tựu như vậy chính là do Đảng bộ
huyện đã coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ

chủ chốt cơ sở nói riêng. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán
bộ chất lượng vẫn còn nhiều bất cập yếu kém về phẩm chất, năng lực,
trình độ còn thấp. Do vậy việc xem xét đánh giá một cách khách quan,
toàn diện thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và đưa ra một hệ
thống giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội có đủ phẩm chất,
trình độ năng lực để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
hiện nay, trước mắt tập trung hoàn thành chương trình xây dựng nông
thôn mới là yêu cầu cấp bách của huyện Mỹ Đức.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội
hiện nay” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền Nhà nước.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến vấn đề cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nói
chung và cán bộ chủ chốt ở cơ sở nói riêng đã có một số nghị quyết Ban chấp

2


hành Trung ương Đảng đã ban hành về công tác này. Tiêu biểu là Nghị quyết
TW 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết TW 7 khóa
XI - Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28-5-2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở.
Nhiều công trình, sách, các bài báo, tạp chí của các học giả, các nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Chẳng hạn như: "Mác - Ăngghen Lênin - Stalin về vấn đề cán bộ" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974). "Tư tưởng Hồ

Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" (PGS.TS Bùi Đình Phong, Nxb Lao
động, Hà Nội, 2002). "Cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ
thống chính trị thời kỳ đổi mới” (Đề tài Khoa học cấp Nhà nước KX.05.11,
Hà Nội, 1994 - Chủ nhiệm Trần Xuân Sầm). Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán
bộ, đề tài khoa học cấp Nhà nước (KX.02.), (1991- 1995)- Chủ nhiệm GS
Đặng Xuân Kỳ. Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995 của PGS, TS Đức Vượng. Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị- xã hội ở nông thôn nước ta hiện
nay. Nxb Chính trị- Hành chính, Hà Nội, 2008, của TS. Mai Đức Ngọc.
Một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến công tác cán bộ
của Đảng cũng đề cập đến việc chuẩn hóa các chức danh cán bộ: “Xác định
cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi
mới”, PGS.TS. Trần Xuân Sầm chủ biên, 1998. Trong sách trình bày cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc xác định tiêu chuẩn cán bộ; thực trạng việc thực
hiện tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính
trị; xác định tiêu chuẩn cán bộ trong những năm tới và phương hướng, giải

3


pháp xây dựng đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn xác định. “Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, PGS.TS. Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS.
Trần Xuân Sầm chủ biên, 2001. Nội dung đề cập đến cơ sở lý luận của việc sử
dụng tiêu chuẩn cán bộ trong công tác cán bộ; những kinh nghiệm xây dựng
tiêu chuẩn cán bộ của Đảng phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; những
quan điểm, phương hướng chung trong việc nâng cao chất lượng công tác cán
bộ, trong đó có nội dung về “tiêu chuẩn hóa cán bộ”.
Một số luận án thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh như: "Nâng cao năng lực cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vùng đồng

bằng Bắc bộ ở nước ta hiện nay" của Mai Đức Ngọc, 2002; "Nâng cao năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở" của Phan Văn
Hai, 1997; "Xây đựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp xã ở đồng
bằng sông Cửu Long giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Minh Châu, 2003; "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá hiện nay" của Bùi Khắc
Hằng, 2004.
Tài liệu Bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, cán bộ, do
Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh biên soạn, đã trình bày những vấn đề chủ yếu về xây dựng tiêu chuẩn
cán bộ và quy trình xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; yêu cầu của việc sử dụng tiêu
chuẩn cán bộ làm cơ sở cho công tác đánh giá, lựa chọn, bổ nhiệm, điều động,
luân chuyển, đào tạo… cán bộ và đổi mới và nâng cao chất lượng tổ chức
chính quyền và đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn.
Qua phân tích cho thấy, các công trình đều có những giá trị nhất định.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề “Chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay".

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức có đủ năng
lực đáp ứng được nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp xã.
- Khảo sát, điều tra, phân tích thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
- Xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã (xã, thị trấn ) ở huyện Mỹ Đức- Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu, khảo
sát chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các xã và thị trấn ở huyện Mỹ Đức
(bao gồm 22 xã và thị trấn của huyện Mỹ Đức).
Thời gian nghiên cứu tập trung từ 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp luận của CNDBC và CNDVLS của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Các phương pháp cụ thể: lô gíc và lịch sử, so sánh và
tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, phương pháp so sánh,… để giải quyết
những nhiệm vụ mà đề tài luận văn đã đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đánh giá khách quan về chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã hiện nay ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.

5


Luận văn đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà
Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
Luận văn cung cấp luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay.

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác, đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng; xây dựng chuẩn hóa cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn ở trung tâm Bồi dưỡng chính trị cấp quận, huyện hoặc
tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên ngành Xây dựng Đảng và chính
quyền Nhà nước.
8. Kết cấu của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 8 tiết.

6


Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ- MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã
1.1.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm về chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất trong mọi lĩnh vực hoạt
động của con người. Việc phấn đấu nâng cao chất lượng bao giờ cũng được
xem là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ một hoạt động nào. Mặc dù có tầm
quan trọng như vậy, nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa,
và cách hiểu của nhiều người về nó cũng khác nhau .
Tuy vậy, không phải chất lượng là một khái niệm quá trừu tượng đến
mức người ta không thể đi đến một cách diễn giải tương đối thống nhất, mặc
dù sẽ còn luôn luôn thay đổi. Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa ISO, trong
dự thảo DIS 9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau: “Chất lượng là khả năng
của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp
ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”. Trong cuốn sách

chuyên khảo “Công tác đào tạo sau đại học của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền- Thực trạng và giải pháp đổi mới” do PGS,TS. Trần Thị Anh Đào chủ
biên đã có nhiều cách tiếp cận khái niệm “chất lượng” :
Quan niệm xem xét chất lượng theo thang bậc giá trị từ thấp đến cao
với hệ chuẩn mực định trước cho rằng: “Sản phẩm hoặc dịch vụ được coi là
có chất lượng khi chúng đạt những chuẩn mực nhất định được quy định
trước. Chất lượng không được coi là cái đích mà nó được coi là phương tiện,
theo đó sản phẩm hoặc dịch vụ được đánh giá”.

7


Theo quan niệm đánh giá chất lượng từ sự hài lòng về khả năng đáp
ứng nhu cầu người sử dụng của dịch vụ cho rằng: “Chất lượng là sự đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, hoặc chất lượng là sự phù hợp với mục đích”. Cũng
có quan niệm cho rằng: “Chất lượng thường được định nghĩa như là sự tuân
thủ toàn bộ các đặc tính của sản phẩm mà làm cho việc đánh giá nó là một
sản phẩm có chất lượng. Chất lượng không chỉ là một đặc tính riêng lẻ mà là
toàn bộ các đặc tính quyết định mức độ đáp ứng các yêu cầu của khách
hàng”[11, tr.13].
Từ những khái niệm nêu trên, theo chúng tôi, có thể thấy chất lượng
được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm vì lý do nào đó mà
không đáp ứng được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém,
cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây
là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách,
chiến lược kinh doanh của mình. Do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu
cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử
dụng, vì vậy chất lượng cũng không cố định, mà cũng luôn luôn biến đổi phù
hợp với nhu cầu đó.
1.1.1.2. Khái niệm về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã

Từ khái niệm về chất lượng nêu trên và từ lý luận, thực tiễn xây dựng
đội ngũ cán bộ của Đảng ta cho ta thấy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
các cấp nói chung, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nói riêng không
phải là phép cộng đơn giản từ chất lượng của từng cán bộ mà là kết quả của
sự tác động tổng hợp, biện chứng giữa các yếu tố chính là: Chất lượng cán bộ,
số lượng cán bộ và cơ cấu đội ngũ cán bộ.
Trong ba yếu tố trên, yếu tố chất lượng cán bộ là hạt nhân, cốt lõi và
quan trọng nhất. Bởi vì con người là nhân tố cơ bản nhất, năng động nhất của
tổ chức; từng người mạnh làm cho tổ chức mạnh, hệ thống mạnh. Chất lượng

8


đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã phụ thuộc trước hết chất lượng cán bộ. Vì vậy
mối quan tâm hàng đầu của Đảng ta là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
nói chung, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp nói riêng, trong đó có
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Cũng như chất lượng cán bộ chủ chốt các cấp, chất lượng cán bộ chủ
chốt cấp xã có nội dung rất toàn diện, bao gồm cả phẩm chất đạo đức cách
mạng, uy tín, cả tri thức và năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ. Đó
là sự tổng hợp các yếu tố tạo nên phẩm chất và năng lực của mỗi cán bộ.
Trước tiên, chất lượng cán bộ là sự tổng hợp các yếu tố tạo nên phẩm chất
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ: tức là uy tín, lòng trung
thành, sự giác ngộ và niềm tin vào mục đích, lý tưởng của Đảng ta, được thể
hiện bằng hành động của cán bộ trong việc gương mẫu, đi đầu trong các
phong trào cách mạng của quần chúng; vận động, lôi cuốn, hướng dẫn, tổ
chức quần chúng tham gia các hoạt động cách mạng, thực hiện tốt các nhiệm
vụ chính trị của địa phương; là khả năng chấp hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và là khả năng vận động gia đình, người thân và quần

chúng nhân dân. Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn là sự tổng
hợp các yếu tố năng lực trí tuệ, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, năng
lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn. Những kiến thức, năng lực và trình độ đó có
được một mặt do thông qua các quá trình đào tạo ở các nhà trường một cách
có hệ thống, bài bản trong hệ thống giáo dục quốc dân và hệ thống giáo dục
trong các học viện, các trường của Đảng; mặt khác, nhờ quá trình trải nghiệm,
rèn luyện trong thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng. Nhờ được đào tạo
trong các nhà trường và rèn luyện trong thực tiễn cách mạng, đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã tiếp cận, lĩnh hội tri thức và kinh nghiệm để làm việc với tinh
thần năng động, chủ động, tự giác, sáng tạo; thêm vào đó là sự thể hiện thái

9


độ tích cực, nêu gương về mọi mặt trước cán bộ, đảng viên, hội viên và quần
chúng nhân dân, xác lập và sáng tạo ra được các phương pháp, cách thức hợp
lý để có thể vận động, cổ vũ giáo dục, hướng dẫn, lôi cuốn và tổ chức lãnh
đạo, chỉ đạo được cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng hăng hái thực
hiện các nhiệm vụ chính trị đạt kết quả cao nhất.
Như vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có thể được hiểu
đó là sự tổng hợp toàn bộ các giá trị về phẩm chất và năng lực của cán bộ. Đó
là tổng thể những khả năng thực lực của cán bộ biểu hiện thông qua kết quả
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do cấp ủy Đảng,
chính quyền phân công và Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể tín nhiệm giao.
Cần nhận thức rõ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chất lượng
mỗi cán bộ và đội ngũ cán bộ trong sự cấu thành chất lượng đội ngũ cán bộ.
Từng cán bộ có chất lượng sẽ tạo nên đội ngũ cán bộ có chất lượng. Nhưng
phải có một số lượng cán bộ chủ chốt nhất định mới xây dựng được tổ chức,
mới có đủ lực lượng để bố trí công tác, mới có thể thực hiện tốt từng nội dung
cụ thể của nhiệm vụ chính trị, qua đó mà phát huy được sức mạnh tổng hợp

của cả đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Với ý nghĩa đó, số lượng có quan hệ chặt chẽ với chất lượng. Điều đó
có nghĩa là chất lượng cán bộ và số lượng cán bộ tồn tại trong liên hệ ràng
buộc, phụ thuộc lẫn nhau để tạo thành chất lượng đội ngũ cán bộ.
Cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là cách thức tổ chức, sắp xếp, bố
trí các thành phần trong đội ngũ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ được phân
công. Xác định cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hợp lý là phương pháp
bố trí, sắp xếp các thành phần trong đội ngũ sao cho ngày càng thật khoa học,
tạo ra một tỷ lệ cân đối, hợp lý hài hòa về số lượng và chất lượng; vừa chú
trọng đảm bảo ngày càng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất
khoa học và cách mạng của Đảng, tăng cường lực lượng cán bộ trẻ, giàu tiềm

10


năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, lại vừa
luôn giữ vững thế ổn định, bền vững và liên tục phát triển của Đảng bộ, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành, đoàn thể.
Như vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay được hiểu
là một chỉnh thể các yếu tố, được cố kết, tạo thành từ sự tác động biện chứng,
tổng hợp và toàn diện của cả hệ thống gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
phong phú, trong đó chủ yếu xoay quanh ba yếu tố chính là: chất lượng cán
bộ, số lượng cán bộ và cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, mà yếu tố quan
trọng hàng đầu là chất lượng cán bộ. Cũng cần chú ý rằng, đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã chỉ có thể có chất lượng và phát huy sức mạnh thực sự khi nó
được tồn tại trong một điều kiện tổ chức nhất định. Nếu không như vậy, rất có
thể chẳng những trong thực tế cả đội ngũ sẽ không mạnh lên mà thậm chí còn
yếu đi ngay trong trường hợp từng yếu tố chính cấu thành chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã căn bản đã thỏa mãn các yêu cầu cần thiết. Ngoài ra
còn phải hết sức lưu ý những dấu hiệu chủ yếu đáng tin cậy trong việc xác

định mức độ lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã, đó là: mức độ dân chủ thực sự cả trong nội bộ mỗi tổ chức và
ngoài quần chúng; mức độ lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể giao, mức độ chấp hành kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước
và mức độ tín nhiệm của cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân
đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã.
Từ những phân tích trên ta có thể hiểu: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực của từng thành viên
với số lượng và cơ cấu các thành viên trong tổ chức một cách hợp lý nhằm
phát huy cao nhất kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, hoàn thành các nhiệm vụ chính
trị ở cơ sở trong từng thời kỳ cụ thể.

11


Vậy, một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là đội ngũ có đủ bản lĩnh,
phẩm chất và năng lực nắm bắt được những yêu cầu của thời đại, có đủ tài
năng, đạo đức và ý chí để thiết kế và tổ chức thực hiện những kế hoạch của
tiến trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng nông thôn mới trên mọi lĩnh vực,
bảo đảm thực hiện có hiệu quả mục tiêu của cách mạng đề ra.
Cán bộ luôn gắn với tổ chức. Muốn có cán bộ tốt thì phải có tổ chức
vững mạnh. Điều đó đúng với toàn Đảng, từng tổ chức Đảng, cho đến từng
chi bộ và các tổ chức đoàn thể cũng như cơ quan nhà nước. Cho nên, khi xem
xét chất lượng cán bộ ở một tổ chức cơ quan nào đó, phải căn cứ vào chất lượng của tổ chức đó. Chất lượng cán bộ phản ánh toàn bộ chất lượng cao hay
thấp, tốt hay kém của công tác cán bộ. Nếu tất cả các khâu của công tác cán
bộ đều làm tốt thì sẽ có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt. Chỉ cần một trong
những khâu đó bị xem nhẹ, làm không đến nơi đến chốn, sẽ khiến cho chất lượng đội ngũ cán bộ yếu kém.
Mỗi chức danh, mỗi cương vị và mỗi loại cán bộ khác nhau lại có yêu
cầu chất lượng ở mức độ khác nhau.Từ đó hình thành nên tiêu chuẩn của từng

loại cán bộ cụ thể.
1.1.2. Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã
1.1.2.1. Tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là căn cứ để lựa chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá sử dụng cán bộ. Có tiêu chuẩn cán bộ đúng mới có cơ sở để
rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ hiện có, sắp xếp cán bộ phù hợp
cũng như loại bỏ những cán bộ cơ hội, thoái hoá biến chất. Mặt khác, căn cứ
vào tiêu chuẩn chung đã qui định, để từng cán bộ tự nỗ lực phấn đấu hoàn
thiện bản thân mình.

12


Đảng ta đã xác định tiêu chuẩn cán bộ là một yêu cầu khách quan, có
tính lịch sử, cụ thể phản ánh những đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Tiêu chuẩn cán bộ không ngừng vận động và phát
triển phù hợp với sự vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng. Tuy
nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, tiêu chuẩn cán bộ có tính ổn định
tương đối làm căn cứ để xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn đó. Từ nhận thức chung như
vậy, tiêu chuẩn cán bộ được hiểu “Là những tiêu chí thể hiện yêu cầu về
phẩm chất và năng lực của cán bộ để hoàn thành nhiệm vụ, phải luôn được
bổ sung, cụ thể hoá phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng”.
Như vậy khi nói đến tiêu chuẩn cán bộ là nói về những qui định người
cán bộ phải có về phẩm chất và năng lực tương ứng với chức trách, nhiệm vụ
họ phải đảm nhiệm trong giai đoạn cách mạng nhất định. Những qui định đó
không nhất thành bất biến mà được bổ sung phát triển, thậm chí thay đổi khi
hoàn cảnh, nhiệm vụ đó hoàn toàn thay đổi.
1.1.2.2. Tiêu chuẩn về phẩm chất cán bộ chủ chốt cấp xã

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước nêu rõ tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới. Những tiêu chuẩn
chung đó là: có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết
quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; cần kiệm,
liêm chính, chí công vô tư; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực, không cơ hội, gắn bó mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có trình độ hiểu biết về lý luận
chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc

13


có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở xác định tiêu
chuẩn chung đó, Đảng ta xác định tiêu chuẩn đối với cán bộ lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, đoàn thể nhân dân (cán bộ chủ chốt) cần phải:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh; có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển,
tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết
phục và tổ chức nhân dân thực hiện; có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Gương mẫu về đạo đức, lối sống; có tác phong dân chủ, khoa học, có khả
năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh
đạo và quản lý; đã học tập có hệ thống ở các trường của Đảng, Nhà nước và
đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả. [17, tr.79-80].
Đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, mặc dù là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo thấp nhất trong tổ chức hệ thống chính trị, đội ngũ này cũng là

những cán bộ lãnh đạo chính trị, vì vậy cũng phải đạt những tiêu chuẩn cơ
bản trên. Tuy nhiên, do mức độ yêu cầu cụ thể có tính lịch sử ở cấp xã, một số
mặt về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, năng lực dự báo, định
hướng phát triển... có thể còn ở mức thấp hơn. Căn cứ vào Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 (khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cấp xã, phường, thị trấn; Nghị định 114/2013/NĐ-CP ngày 10-102003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn; Quyết định
04/2004/QĐ- BVN ngày 16-1-2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn
đối với cán bộ công chức xã, phường, thị trấn và theo chúng tôi, nói đến phẩm
chất, năng lực đối với đội ngũ này cần nhấn mạnh những đặc thù sau:
Một là, do trực tiếp với quần chúng nhân dân, là người đại diện cho
Đảng, Nhà nước và các ngành, các lĩnh vực ở địa phương, mỗi cán bộ phải

14


thể hiện đúng vai trò của mình, phải biết giữ uy tín của Đảng, Nhà nước trước
dân; đồng thời cũng để giữ vững lòng tin của dân với đối với Đảng, Nhà
nước. Do đó, phẩm chất chính trị-tư tưởng phải được coi trọng.
Hai là, ở môi trường chủ yếu là các vùng nông thôn, quan hệ xã hội
mang tính cổ truyền là thân tộc, cán bộ hầu hết xuất thân từ nông dân. Để giữ
đúng vai trò, vị trí của mình, mỗi cán bộ phải rèn luyện để có bản lĩnh chính
trị vững vàng; vì lợi ích của tập thể, đặt lợi ích của tập thể lên trên hết, gạt bỏ
lợi ích cá nhân.
Ba là, ở môi trường vừa thực hiện sự lãnh đạo chính trị, lại đồng thời
quản lý các cơ sở vật chất, giám sát và thực hiện các chế độ chính sách do đó dễ
tạo cho cán bộ chủ chốt mắc những sai phạm, rơi vào các hiện tượng tiêu cực
như tham ô, nhận hối lộ, tham nhũng... Vì vậy, để tránh được những sai lầm đó
đòi hỏi mỗi cán bộ phải rèn luyện để có đạo đức cách mạng chân chính.
Yêu cầu hiện nay đối với cán bộ chủ chốt cấp xã cần có những phẩm
chất, năng lực sau đây:

*Về phẩm chất chính trị- tư tưởng: Có bản lĩnh chính trị vững vàng,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, tin tưởng tuyệt đối và
chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách đó trong thực tiễn, phù hợp
với tình hình của địa phương, cơ sở. Có lòng nhiệt thành cách mạng, thực sự
tâm huyết với cơ sở, có tinh thần trách nhiệm đối với địa phương, ngành
mình, lĩnh vực mình phụ trách; có nhận thức tư tưởng đúng đắn, lành mạnh,
giữ vững tính Đảng, biết quan tâm đến cộng đồng, đồng chí đồng nghiệp; dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; vận dụng sáng tạo chủ trương, chính
sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, cán bộ chủ chốt
cấp xã phải có ý chí chiến đấu cao, can đảm và có khả năng đấu tranh với cái

15


sai, bảo vệ cái đúng, không xuê xoa, né tránh, buông xuôi sự lãnh đạo, chỉ
đạo; kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng không lành mạnh.
Phẩm chất đạo đức- lối sống: Phẩm chất hàng đầu của cán bộ chủ chốt
cấp xã hiện nay là phải hết lòng vì dân, sát dân, hiểu dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, không cửa quyền sách nhiễu dân, dựa vào
dân để hành động. Phải trung thực, thẳng thắn, cần kiệm, liêm chính, chí công
vô tư; làm gương cho cán bộ, đảng viên và cho nhân dân về đạo đức, lối sống,
không lợi dụng chức quyền để thu vén cá nhân, làm giầu bất chính, không
dung túng cho vợ con, gia đình, người thân làm giầu phi pháp; gương mẫu
thực hiện pháp luật và chính sách; không quan liêu, tham nhũng; kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng và các việc làm sai trái, tệ nạn xã hội; không cục
bộ, bè phái, địa phương, họ tộc chủ nghĩa; khiêm tốn, giản dị, tế nhị trong ứng
xử, biết làm chủ bản thân trong mọi tình huống. Cán bộ chủ chốt cấp xã cần
phải nói đi đôi với làm, nói hay làm giỏi; không sợ khó khăn, gian khổ; tâm
huyết với công việc. Đặc biệt, phải có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng,

trước dân, biết lắng nghe ý kiến của cán bộ dưới quyền, của đảng viên, hội
viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở, kể cả những ý kiến trái ngược với ý
kiến của mình. Đối với đồng chí, đồng nghiệp, phải thẳng thắn góp ý, làm rõ
đúng sai; trong công việc phải thẳng thắn, trung thực, biết hy sinh vì lợi ích
chung. Trong điều hành, chỉ đạo công việc phải công tâm, công khai, rõ ràng,
không thiên vị; có ý thức cầu thị, luôn “mở mình” cho tổ chức và nhân dân
kiểm tra, giám sát.
1.1.2.3. Tiêu chuẩn về năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ chủ chốt nói riêng dù ở cấp
nào cũng phải có năng lực nhất định. Trong đó, năng lực trí tuệ và năng lực tổ
chức thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có quan hệ chặt
chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có năng lực trí tuệ thì không có khả

16


năng khái quát, sáng tạo và vận dụng đúng đắn linh hoạt các qui luật khách
quan. Ngược lại, không có năng lực thực tiễn thì sa vào bệnh giáo điều, chủ
quan duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh xa rời thực tiễn, thoát ly cuộc sống đầy
sôi động đang cuộn chảy.
Cấp xã là cấp trực tiếp triển khai, tổ chức, vận động nhân dân thực thi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đòi hỏi
đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị phải có năng lực toàn diện,
nhất định trên nhiều lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, cán bộ chủ chốt cấp xã còn phải có năng lực sáng tạo, tính quyết
đoán và khả năng làm việc với con người.
Về năng lực trí tuệ: Cán bộ chủ chốt cấp xã phải là người có trình độ
hiểu biết tương đối toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội … ở
địa phương; nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới, cái hay, cái tiến bộ; nắm
vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của

Nhà nước thuộc trách nhiệm được giao; có hiểu biết sâu rộng về điều kiện tự
nhiên, xã hội, phong tục, tập quán của địa bàn phụ trách; biết vận dụng lý
luận, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn
địa phương, cơ quan, đoàn thể mình; có khả năng vận dụng kiến thức, hiểu
biết để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở.
Ngoài các yếu tố nêu trên, cán bộ chủ chốt cấp xã còn phải có sức khỏe
tốt, có khả năng làm việc bền bỉ, dẻo dai, kiên trì, có sức tập trung cao khi
nhiệm vụ yêu cầu; có khả năng chịu đựng được sức ép của công việc; sẵn
sàng đáp ứng nhiệm vụ khi có tình huống nảy sinh; có phẩm chất tâm lý, tinh
thần lành mạnh; có khả năng truyền cảm sự nhiệt tình, nghị lực của mình tới
cộng sự và nhân dân trên địa bàn.
Về năng lực lãnh đạo, quản lý cần phải có:

17


- Năng lực hoạt động thực tiễn: Khả năng thu nhận và xử lý thông tin
liên quan đến các mặt của đời sống xã hội ở cơ sở một cách nhanh chóng, kịp
thời và có hiệu quả; có khả năng đưa ra những quyết định có tính chất tình
huống cụ thể, chính xác và có tính khả thi; biết tổ chức thực hiện quyết định,
tổ chức bộ máy, bố trí và phối hợp các lực lượng ở cơ sở; có khả năng đoàn
kết, quy tụ cán bộ, đảng viên xung quanh mình; có khả năng tập hợp và phát
huy sức mạnh của quần chúng; biết phát huy và khơi dậy sức mạnh cộng đồng
để thực hiện các phong trào ở cơ sở. Khả năng làm kinh tế và hiểu biết pháp
luật; lăn lộn trong phong trào thực tiễn ở cơ sở, xây dựng được mối quan hệ
mật thiết với dân, hiểu dân, tôn trọng dân, học tập dân và luôn xuất phát từ lợi
ích của nhân dân để hành động. Có như thế “dân chúng mới tin cậy cán bộ và
nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ”[49, tr.275.]. Biết hình thành quy
chế, biết áp đặt và thực thi quy chế, biết cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước thành những quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể của cơ

sở đối với ngành, lĩnh vực mình phụ trách; biết dựa vào dân để lựa chọn cán
bộ và quyết định các chủ trương, nhiệm vụ công tác lớn. Biết tổ chức công tác
kiểm tra, giám sát thực hiện các quyết định để duy trì, điều chỉnh tiến độ thực
hiện quyết định, phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để giải quyết;
biết tìm ra những sai sót, lệch lạc để sửa chữa, hoàn chỉnh quyết định, bảo
đảm quyết định được thực thi chính xác, hiệu quả.
- Năng lực sáng tạo, tính quyết đoán: Cán bộ chủ chốt cấp xã phải biết
phán đoán chính xác tình hình, đưa ra được quyết định chỉ đạo kịp thời, chính
xác trong những tình huống bất ngờ mà không có thời gian để phân tích dữ
kiện hoặc chưa có đủ dữ kiện cần thiết để phân tích; biết đưa ra quyết định
một cách dứt khoát và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; có khả năng
ngăn ngừa và giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong tập thể; biết xử lý điểm
nóng diễn ra trên địa bàn.

18


Thực tiễn lãnh đạo, quản lý ở cơ sở cho thấy, có nhiều tình huống nảy
sinh đòi hỏi cán bộ chủ chốt cấp xã phải chủ động, sáng tạo trong giải quyết
công việc. Có những tình huống nảy sinh từ vấn đề lấn chiếm, tranh chấp đất
đai, tài chính: thiếu kinh phí để hoạt động, kinh phí bị thất thoát, sử dụng sai
mục đích…; tình huống nảy sinh khi ra những quyết định có những điểm trái
với văn bản của cấp trên; tình huống nảy sinh so thiên tai, địch họa, do va
chạm xóm giềng, dòng tộc… Do vậy, cán bộ chủ chốt phải nắm vững và biết
vận dụng sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
vào thực tiễn của địa phương, cơ sở; phải am hiểu thực tế ở địa phương để
giải quyết đúng đắn, kịp thời các tình huống nảy sinh ở cơ sở.
- Năng lực làm việc với con người: Có khả năng tiếp xúc với các loại
đối tượng với nhiều tư cách khác nhau; có khả năng tác động vào con người
bằng tình cảm, ý chí và nhân cách của bản thân; biết thiết lập các mối quan

hệ, biết động viên, khuyến khích, tập hợp nhiều người tham gia vào công
việc chung. Biết đặt mình vào vị trí người khác, biết khêu gợi tính tích cực
của đồng sự, của cấp dưới và của nhân dân; có thái độ điềm tĩnh, cư xử nhã
nhặn, lịch sự, tế nhị, khiêm tốn với dân, tôn trọng dân, hiểu rõ tâm tư, tình
cảm của họ, biết nghe dân nói, biết nói cho dân nghe, biết khuyến khích cái
hay, cái tốt của người khác, biết tôn trọng, phát huy sáng kiến của dân. Khi
tiếp dân, phải khiêm tốn, chu đáo, tận tụy và chân thành; giải quyết công
việc dứt điểm, có lý, có tình, không để dân đi lại nhiều lần hoặc gây khó dễ
cho dân; khi sinh hoạt cùng dân, phải bình dị, không xa cách, hòa đồng với
dân trong ăn mặc, giao tiếp, ứng xử, đi lại; tôn trọng, lắng nghe ý kiến phản
ánh của dân; thường xuyên rèn luyện, nâng cao năng lực để xứng đáng là
người đại diện tin cậy của dân.
Tóm lại, cán bộ chủ chốt cấp xã phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định lập trường cách mạng, giữ vững nguyên tắc và có sự khôn khéo,

19


linh hoạt; vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, lối sống, biết tập
hợp, đoàn kết và thu hút được trí tuệ tập thể; phát huy dân chủ nội bộ, tôn
trọng tập thể, tuyệt đối không được độc đoán cá nhân, biết thuyết phục và
dám đấu tranh; biết lắng nghe và dám quyết đoán, biết trọng dân, gần dân, sát
dân, học dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân.
1.1.2.4. Về cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có thể được xem là hợp lý khi
bố trí đội ngũ này đảm bảo được yêu cầu về chất lượng, số lượng hợp lý của
từng xã, thị trấn, trong đó chú trọng yêu cầu về trình độ năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ, sở trường; giới tính, tuổi đời, tuổi đảng, về chức vụ, thâm niên
công tác, dân tộc, tôn giáo…Chẳng hạn, ở xã có nhiều người dân tộc sinh
sống, khi bố trí cán bộ giữ cương vị chủ chốt ở xã ngoài tiêu chuẩn chung cần

chú ý đến các yếu tố đặc thù như: có lối sống giản dị, gần gũi quần chúng lao
động nông dân, biết tiếng nói, chữ viết, am hiểu văn hóa dân tộc đó, có kinh
nghiệm thực tế trong việc ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công
nghệ vào đồng ruộng, tiểu thủ công nghiệp ở địa phương sẽ có kết quả tốt hơn
trong công tác lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Đối với những xã có nhiều người
dân là đồng bào Công giáo cần bố trí những cán bộ chủ chốt xã có đặc điểm
nổi trội như: bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm thật vững về quan điểm, chủ
trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, am hiểu sâu sắc
về những đặc điểm của Công giáo.
Tóm lại, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nhất thiết
phải dựa chủ yếu vào sự tác động biện chứng giữa ba yếu tố đã nêu trên, đồng
thời nó được thể hiện rõ nét nhất qua việc hoàn thành nhiệm vụ trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, qua chất lượng
xây dựng, củng cố, kiện toàn các Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các

20


đoàn thể ở các xã, thị trấn đó, qua sự đoàn kết, thống nhất, dân chủ, kỷ luật kỷ
cương và uy tín của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đối với nhân dân.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về cán bộ và vai trò của cán bộ
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.2. Khái niệm về cán bộ
Xung quanh khái niệm cán bộ cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác
nhau. “ Ở nước ta, theo cách hiểu thông thường cán bộ được coi là tất cả
những người thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể,
quân đội. Trong quan niệm hành chính, cán bộ được coi như những người có
mức lương từ cán sự (cũ) trở lên, để phân biệt với nhân viên có mức lương
thấp hơn cán sự một” [59, tr.16].

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói về khái niệm cán bộ. Trong tác
phẩm sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng” [48, tr.269].
Theo Luật “cán bộ công chức” của Việt Nam hiện hành phạm trù cán
bộ, công chức bao gồm: “Công dân Việt Nam trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách Nhà nước”.[38, Điều 4].
Như vậy theo quan niệm chung nhất: cán bộ là khái niệm chỉ những
người làm công ăn lương Nhà nước, có chức vụ, vai trò và cương vị trong một
tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ
trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự phát triển
của tổ chức.
1.2.3. Khái niệm về cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp xã
* Cán bộ chủ chốt

21


Theo Từ điển tiếng Việt - 2000, “Chủ chốt” có nghĩa là “quan trọng
nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”[63, tr.174].
Mỗi cơ quan, tổ chức,… dù ở cấp trung ương, địa phương hay cơ sở
đều có người lãnh đạo quản lý, có tổ chức có tập thể lãnh đạo, nhưng trong
tập thể lãnh đạo đó có một người đứng đầu. Người đứng đầu đó là người chủ
chốt, có quyền ra quyết định về các chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều
hành một đơn vị, một tổ chức, một tập thể… để thực hiện nhiệm vụ của đơn
vị, tổ chức, tập thể đó.
Vậy, cán bộ chủ chốt được hiểu là người có chức vụ cao nhất, nắm giữ
các vị trí quan trọng nhất, có quyền quyết định, điều hành, chịu trách nhiệm
chính của một tổ chức, đơn vị hoặc một địa phương… với tư cách là nhân tố

then chốt, chủ yếu, có tác dụng làm nòng cốt trong việc thực hiện nhiệm vụ
của tổ chức, đơn vị, địa phương đó.
Việc xác định cán bộ chủ chốt hay không chủ chốt cần căn cứ vào chức
trách cụ thể của mỗi người cán bộ và được đặt trong mối quan hệ với hệ thống
tổ chức. Có cán bộ ở cương vị này và trong tổ chức này là chủ chốt, nhưng
trong mối quan hệ khác, vị trí khác thì không còn là chủ chốt nữa. Ví dụ: một
bí thư đảng ủy xã là cán bộ chủ chốt của xã nhưng không phải là cán bộ chủ
chốt của huyện, mặc dù anh cũng có thể tham gia vào ban chấp hành của
huyện, là huyện ủy viên. Vì vậy, nói cán bộ lãnh đạo chủ chốt chỉ là tương đối.
* Cán bộ lãnh đạo: Theo nghĩa rộng “bao gồm những ai giữ chức vụ và
trách nhiệm cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ
chức, của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của
cả bộ máy” [59, tr.33]
Theo Lênin, cán bộ lãnh đạo là “người đại diện tiên tiến có khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [42, tr.473].

22


Ở nước ta khái niệm cán bộ lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ
quản lý, đó là những người có chức vụ và trách nhiệm điều hành, đứng đầu
trong các cơ quan, tổ chức, sự nghiệp….giám đốc, hiệu trưởng, viện trưởng...
Nội hàm khái niệm cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có những điểm giống
nhau vì đều là những chủ thể ra quyết định điều khiển hoạt động của một tổ
chức do vậy vừa thực hiện chức năng lãnh đạo vừa thực hiện chức năng quản
lý. Tuy nhiên, khái niệm lãnh đạo và quản lý không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Hoạt động lãnh đạo chủ yếu là định hướng khách thể thông qua hệ
thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách …Còn hoạt động quản lý
mang tính điều khiển, vận hành thông qua những thiết chế có tính pháp lệnh
được qui định từ trước.

* Cán bộ lãnh đạo chủ chốt: "Đó là những người đứng đầu quan
trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền ra những quyết
định và chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một
đơn vị, một tổ chức, để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức
ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức
nhất định [59, tr.33].
* Cán bộ chủ chốt cấp xã
Từ khái niệm cán bộ chủ chốt có thể hiểu cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cơ sở cấp xã là những người đứng đầu giữ vị trí quyết định trong các
cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị cơ sở, có tác
động chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức các nhiệm vụ kinh
tế-xã hội trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách.
Theo đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội được đề tài tiến hành khảo sát điều tra bao gồm: Bí thư, phó bí thư
(Thường trực Đảng ủy), Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND- UBND, Chủ tịch

23


UBMTTQVN, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Bí thư ĐTNCSHCM, Chủ tịch Hội
CCB, Chủ tịch Hội nông dân xã, thị trấn.
1.2.4.Vai trò của đội ngũ cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng
sản Việt Nam.
1.2.4.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin:
Trong bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán
bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một
trong những nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng, quyết định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Đó là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, các nhà
kinh điển đã đưa ra các quan điểm, tư tưởng của mình về cán bộ và công tác
cán bộ của Đảng Cộng sản.
Mác - Ănghen khẳng định: “Muốn thực hiện tốt những tư tưởng cần
có con người sử dụng một thực tiễn” [45, tr. 181].
Mác-Ănghen muốn nói đến vai trò của người cán bộ là nguồn tuyên
truyền, tổ chức thực hiện của đảng. Chính đảng của giai cấp công nhân muốn
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải chăm lo xây dựng cho được
một đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ chính
trị trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Lênin- Người kế tục xuất sắc sự nghiệp của Mác- Ănghen đã tổng kết
rằng: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị
nếu không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào”[39, tr.413]. Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, Lênin đã rất coi
trọng công tác cán bộ, Người đã cho mở các trường đào tạo cán bộ và chính
Người đã trực tiếp giảng bài ở các trường lớp đó.

24


×