Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.26 KB, 22 trang )

Xã hội học gia đình

Bài tiểu luận

Môn : Xã hội học gia đình
Sinh viên: Lê Thị Phương Anh
Lớp: QLNN2
Đề tài: Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 1


Xã hội học gia đình

A.Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài:
Thế kỷ XXI với những tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mà đặc điểm nổi bật là tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự
toàn cầu hóa về kinh tế, đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trọng đời sống
xã hội, sinh hoạt văn hóa và tinh thần. Con người được giải phóng và vai trò cá thể
được đề cao. Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ vẫn
là lý tưởng mà nhân loại đã, đang và sẽ theo đuổi.
Dù thế giới đã có nhiều biến đổi to lớn; song, vấn đề bình đẳng giới vẫn chưa thực
sự diễn ra như mong muốn của chúng ta. Ngay ở những nước phát triển dù đời
sống cao, trình độ học vấn cao, nhận thức vấn đề nhạy bén, tư duy thoáng đạt
nhưng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn tồn tại. ở những nước chậm, kém
phát triển do điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ học vấn thấp; tư duy cổ hủ, trì
trệ; phong tục tập quán, thói quen lạc hậu còn tồn tại nhiều, cho nên tình trạng
bất bình đẳng giới diễn ra khá phổ biến, thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi,


mọi thành phần trong xã hội. Sự bất bình đẳng nam nữ đã ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung, đặc biệt là sự phát triển của các
nước chậm, kém phát triển nói riêng, như nền kinh tế càng ngày càng tụt hậu xa
hơn so với các nước khác, chất lượng cuộc sống thấp, đời sống người dân khổ
cực, bệnh tật, đói nghèo gia tăng; phụ nữ, trẻ em không được quan tâm đúng
mức nên tỷ lệ tử vong cao... Do đó, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở
thành một phong trào rộng khắp trên phạm vi thế giới cả về phương diện lý
thuyết và phương diện thực tiễn.
Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún đang
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Để hội nhập kinh tế đòi hỏi phải phát huy mọi nguồn lực trong xã hội, đặc biệt là
người phụ nữ - nguồn lực vốn chưa được chú ý nhiều từ trước tới nay. ở Việt Nam
phụ nữ chiếm hơn nửa dân số cả nước cho nên nguồn lực này tương đối dồi dào;
nếu được sử dụng đúng mục đích, đúng khả năng nguồn nhân lực này thì sẽ tạo ra
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 2


Xã hội học gia đình
động lực phát triển mạnh mẽ cho đất nước. Người phụ nữ Việt Nam trong gia
đình luôn là người vợ đảm đang, người mẹ hiền tảo tần, hết lòng chăm sóc, lo
lắng cho chồng con, gia đình của mình. Ngoài xã hội họ lại là những người lao
động hăng say, tạo ra nhiều của cải vật chất và tinh thần hữu ích.
Trước đây, những cống hiến lớn lao của phụ nữ chưa được xã hội, gia đình thừa
nhận một cách thỏa đáng. Họ chịu nhiều thiệt thòi, bị đối xử bất công. Hiện nay,
do điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, nhận thức của con người đã cao hơn, tư
duy đã đổi mới, cho nên việc công nhận, tạo điều kiện cho khả năng, trình độ của
người phụ nữ Việt Nam có cơ hội phát huy vai trò của mình đã tiến bộ đáng kể.
Ngày nay có nhiều phụ nữ hạnh phúc trong cuộc sống gia đình và thành đạt trong

sự nghiệp. Họ giữ cương vị cao trong các cơ quan, bộ máy nhà nước từ trung
ương tới địa phương, trong các doanh nghiệp lớn, nhỏ khắp cả nước. Mặc dù vậy,
trong thực tế sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ vẫn đang diễn ra trong xã hội
Việt Nam và có xu hướng gia tăng. Nhiều người phụ nữ còn phải chịu thiệt thòi
ngay chính trong gia đình của mình. Sự thiệt thòi ấy thể hiện rõ trong lĩnh vực kinh
tế, phân công lao động, giáo dục và đào tạo, việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là ở
vấn đề bạo lực gia đình. Chính vì vậy, cần phải thúc đẩy quá trình bình đẳng giữa
nam và nữ trong gia đình để nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia
đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Thực hiện bình đẳng nam nữ (hay còn gọi
là bình đẳng giới) là vấn đề mang tính cấp bách và lâu dài. Việc làm này sẽ góp
phần tạo ra sự phát triển toàn diện cho đất nước về mọi mặt như kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội... góp phần giải phóng và phát triển người phụ nữ, để phụ nữ làm
tốt hơn vai trò người vợ, người mẹ, người công dân. Với lý do trên, em đã quyết
định chọn đề tài: “Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam” cho bài tiểu luận của
mình

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài :
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng phụ nữ, về bình đẳng
nam – nữ đã du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 là văn bản chính trị đầu tiên ở nước ta nêu
rõ mục tiêu đấu tranh cho sự bình đẳng nam – nữ và nâng cao vị thế của phụ nữ.
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 3


Xã hội học gia đình
Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và những Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980,
1992) đều khẳng định phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Hiện nay ở nước ta đã hình thành khoảng hơn 10 cơ sở nghiên cứu và giảng dạy
về giới. Đó là các trung tâm nghiên cứu, khoa, bộ môn thuộc Chính phủ và phi
chính phủ như:
- Viện Gia đình và giới thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
- Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Khoa Xã hội học - Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Minh.
- Bộ môn Nghiên cứu giới thuộc Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Ban Lý luận dân tộc và Giới thuộc Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính
trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh...
Ngoài ra một số viện nghiên cứu, trường đại học, một số bộ cũng có các
chương trình nghiên cứu có liên quan đến giới như: Viện Nghiên cứu thanh niên,
Viện Xã hội học, Trung tâm Tư vấn và Phát triển, Chương trình Việt Nam – Hà Lan
thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, ủy ban quốc gia về dân số, Bộ Y tế,
ủy ban phòng chống AIDS quốc gia, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo
dục và đào tạo, ủy ban bảo vệ trẻ em, Bộ Tư pháp... Các cơ quan, chương trình
nghiên cứu này đã không chỉ cuốn hút phụ nữ mà còn có cả nam giới, không chỉ
các nhà khoa học trong nước mà còn cả các nhà khoa học nước ngoài tham gia.
Có nhiều cuốn sách nói về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình nói
riêng và bình đẳng giới nói chung:
- “Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh tế thị trường” (1996), Nxb. Chính
trị quốc gia, của PTS. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân, nêu bật những khó khăn của phụ
nữ nông thôn và những khuyến nghị khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định
chính sách xóa đói giảm nghèo, giúp phụ nữ nghèo nông thôn vươn lên.
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 4


Xã hội học gia đình

- “Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” (2002), Nxb. Khoa học Xã
hội của GS. Lê Thi, cung cấp cho bạn đọc, những nhà làm khoa học, làm chính sách
một số tài liệu tham khảo về tình hình gia đình Việt Nam, các mối quan hệ giữa
các thành viên, đặc biệt là quan hệ giữa vợ và chồng trong bối cảnh đổi mới của
đất nước, nhằm xây dựng được gia đình ấm no, hạnh phúc, vợ chồng tôn trọng,
bình đẳng với nhau.
- “Vấn đề phụ nữ và trẻ em thời kỳ 2001 – 2010” (2002), của Vụ Tổng hợp – Pháp
chế (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) phối hợp với Nhà xuất bản Lao động –
Xã hội biên soạn, nhằm giúp các nhà nghiên cứu, các chuyên gia và cán bộ làm
công tác xã hội trong lĩnh vực bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em, hệ thống hóa
chủ trương, đường lối của Đảng, các giải pháp của Nhà nước và chương trình
hành động quốc gia trong lĩnh vực này. Cuốn sách cũng cung cấp cho chúng ta
đường hướng chính trong việc thúc đẩy quyền của phụ nữ và trẻ em thời kỳ 2001
– 2010.
- “Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình” (2003), Nxb. Khoa học Xã hội của TS.
Nguyễn Linh Khiếu, tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng những chính sách,
những chiến lược phát triển của gia đình, đời sống người phụ nữ và bình đẳng
giới trong gia đình ở Việt Nam. - “Gia đình học” (2007), Nxb. Lý luận Chính trị của
GS. Đặng Cảnh Khanh và PGS. Lê Thị Quý, trình bày một cách hệ thống những vấn
đề lý luận về gia đình, phụ nữ, bình đẳng nam nữ. Cuốn sách đã nêu ra nhiều thực
trạng bất bình đẳng giới trong gia đình và từ đó đưa ra biện pháp nhằm đạt tới sự
bình đẳng giới trong gia đình và nâng cao vai trò của gia đình trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- “Bình đẳng giới ở Việt Nam” (2008), Nxb. Khoa học Xã hội, của Trần Thị Vân Anh
– Nguyễn Hữu Minh, xác định tình trạng bình đẳng giới, góp phần xây dựng hệ
thống dữ liệu về vấn đề giới và bình đẳng giới, qua đó đáp ứng nhu cầu phân tích,
đánh giá về bình đẳng giới ở nước ta.
Ngoài ra, còn nhiều luận án, luận văn, bài viết dưới góc độ chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học đã đi sâu nghiên cứu vấn đề phụ nữ, gia đình, đặc biệt là
bình đẳng giới như luận án tiến sĩ của tác giả Chu Thị Thoa: “Bình đẳng về giới

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 5


Xã hội học gia đình
trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay” (2002), hay luận văn
của tác giả Trần Thanh Hiển: “Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân ở
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” (2008). Bên cạnh đó còn có nhiều bài báo viết
về phụ nữ đăng trên nhiều tạp chí Cộng sản như: Khoa học về phụ nữ, Nghiên cứu
lý luận, Xã hội học,...

3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giới, bình đẳng giới trong gia đình và
các khái niệm liên quan; thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam, tiểu
luận đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiến tới thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề
giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ trong gia đình.
Thứ hai, đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất các phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tiến tới
bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : tập trung nghiên cứu bình đẳng giới trong gia đình ở Việt
Nam.

- Phạm vi nghiên cứu nghiên cứu: bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam qua
phân tích một số tài liệu Xã hội học và Triết học.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 6


Xã hội học gia đình
5.1. Cơ sở lý luận:
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề gia đình,
giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng nam nữ trong gia đình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, so sánh , phân tích kết quả một số cuộc điều tra xã hội học...

B. Nội dung
Chương I : Lý luận chung
Ngay từ ngày đầu mới lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong phần
mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
tuyên bố:“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hiếp pháp 1946,
đã ghi nhận “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1).“Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

dành suối nguồn nghĩa tình sâu nặng, trân quý các thế hệ phụ nữ Việt Nam. Tại lễ
kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Người đã ôn lại
truyền thống yêu nước đầy tự hào của người phụ nữ Việt Nam với hình ảnh Hai
Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân thủa trước “cho đến nay mỗi khi
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 7


Xã hội học gia đình
nước nhà gặp nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng
của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tại Đại hội liên hoan phụ nữ “Năm
Tốt” vào ngày 30-4-1964, Người đã khẳng định “Ngay từ lúc đầu, Đảng và Nhà
nước ta đã thi hành chính sách đối với phụ nữ cũng được bình quyền, bình đẳng
với đàn ông”1. Trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 6-1-1946, Người
vui sướng nói "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất". Trong bản di chúc
viết tháng 5 năm 1968, Người đã căn dặn: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước,
phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất,
Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp
đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo.
Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến
quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ"
Kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và thực hiện những lời di huấn
của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới, nhiều văn
bản chính sách đã được ban hành như: Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày
10/01/1967 “Về một số vấn đề về tổ chức công tác phụ vận”, trong đó nhấn mạnh
một số nhiệm vụ như“phân bố, sử dụng hợp lý sức lao động phụ nữ trong nông
nghiệp, hướng dẫn thực hiện quyết định của chính phủ về sử dụng lao động phụ
nữ trong công nghiệp”; “Tăng cường việc tổ chức đời sống, bảo vệ sức khoẻ cho
phụ nữ và trẻ em”. Nghị quyết số 153-NQ/TW ngày 10/01/1967 về “Công tác cán

bộ nữ”; Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 07/6/1984 “Về một số vấn đề cấp bách trong
công tác cán bộ nữ"; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về “Đổi mới và
tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới"; Chỉ thị số 37-CT/TW
ngày 29/9/1993 về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”;
Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ thời
kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước"… Một trong những văn bản quan trọng không
thể không nhắc đến, đó là Hiến pháp 1992 đã quy định: “Công dân nữ và nam có
quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình;
Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”
(Điều 63). Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp luật của Nhà nước đã
được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình
đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 8


Xã hội học gia đình
lệnh Dân số... và không thể không nhắc đến là Luật Phòng chống bạo lực gia đình,
Luật Bình đẳng giới.
Tại Điều 24 - Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định “Phụ nữ có quyền bình đẳng với
nam giới trong mọi lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa trong gia đình và
ngoài xã hội”. Đặc biệt chính sách, pháp luật lao động đối với lao động nữ luôn
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12 tháng 7 năm 1993 đã khẳng
định “Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển
mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng ta trong
mọi thời kỳ cách mạng”. Trong lĩnh vực lao động - việc làm Nghị quyết chỉ rõ “Một
trong những công tác lớn quan trọng của Đảng ta hiện nay là giải quyết việc làm,
chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi

của phụ nữ”.
Luật BĐG (Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ
1/7/2007) quy định về BĐG trên tám lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao động - việc
làm, văn hóa-thông tin, y tế, giáo dục-đào tạo, thể dục thể thao v.v... BĐG trong
gia đình được Luật BĐG quy định tại Điều 18:
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình.
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng
trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực
trong gia đình.
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử
dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc
con ốm theo quy định của pháp luật.
- Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
- Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 9


Xã hội học gia đình
Và theo Luật hôn nhân và gia đình tại Điều 19. Quy định: “Vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”
Và Điều 13. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, quy định: Nam, nữ
bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi
làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động
và các điều kiện làm việc khác. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được
đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức
danh.

Xuất phát từ đặc điểm của phụ nữ ngoài việc thực hiện những nghĩa vụ lao động
còn phải đảm nhận thiên chức làm mẹ, Bộ Luật Lao động đã dành một chương
riêng – Chương X đối với lao động nữ nhằm đảm bảo các quyền làm việc của phụ
nữ được bình đẳng về mọi mặt với nam giới. Tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo từng thời kỳ phát triển; khả năng ứng dụng khoa học
công nghệ; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và chủ trương đường
lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng, các văn bản quy phạm pháp
luật đã thể hiện rõ những nội dung chủ yếu về tuyển dụng, sa thải và chấm dứt
hợp đồng lao động đối với lao động nữ; về các chính sách đào tạo; về tiền lương
và tiền công;…
Theo quy định như trên của pháp luật thì các thành viên trong gia đình bình đẳng
với nhau trong lao động và tham gia vào thị trường lao động.

Chương II. Thực trạng
1. Bình đẳng giới gia đình trong lao động.
Những năm gần đây do bình đẳng giới gia đình trong lao động được ghi
nhận chi tiết trong pháp luật, đẩy mạnh tuyên truyền đến quần chúng nhân dân
và được thực hiện một cách nghiêm túc cho nên đã đạt được những thành quả
khả quan. Có thể nhận thấy là đa số các gia đình trong nước ta đặc biệt ở những
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 10


Xã hội học gia đình
vùng có dân trí cao như ở các thành phố, thị xã đã đạt được kết quả cao về bình
đẳng giới trong gia đình trong lao động. Ta có thể thấy là ở đây không phải chỉ có
người vợ mới làm công việc gia đình hoặc những công việc mang tính giản đơn
nữa. Ta có thể thây trong các gia đình ở các thành phố người phụ nữ là kinh
doanh, làm trí thức…Tuy vậy nhưng ta còn thấy không ít sự mất bình đẳng giới
trong các gia đình trong lao động đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực

miền núi, dân tộc ít người. Ta có thể thấy ở đó người phụ nữ, người vợ thường
làm việc nhà và những công việc giản đơn còn người chồng, ngời con trai thường
đảm nhiệm những công việc chính trong gia đình.
Cùng với tiến bộ xã hội, ngày càng có nhiều công cụ và các điều kiện giúp con
người giảm nhẹ sức lao động, công việc trong gia đình. Mặc dù, tư tưởng gia
trưởng, trọng nam khinh nữ đã dần dần mất đi, nhưng có một nghịch lý vẫn đang
tồn tại là việc nội trợ, nuôi dưỡng con cái, chăm sóc các thành viên trong gia đình
vẫn được coi là công việc của phụ nữ và vẫn có quan niệm cho rằng các hoạt động
này không mang lại giá trị kinh tế.
Định kiến giới và tư tưởng trọng nam giới hơn phụ nữ vẫn còn tồn tại khá phổ
biến ở trong gia đình và một bộ phận dân cư trong xã hội với các biểu hiện như
thích đẻ con trai hơn con gái, coi việc nội trợ, chăm sóc con cái là của phụ nữ, khi
chia tài sản thừa kế thường dành cho con trai nhiều hơn, ưu tiên đầu tư vào con
trai, quan niệm nam giới là người trụ cột, quyết định chính trong gia đình và đóng
vai trò chính trong các quan hệ xã hội bên ngoài gia đình.

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 11


Xã hội học gia đình

Thời gian làm việc của phụ nữ thường dài hơn nam giới: Mặc dù, pháp luật quy
định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn
bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo
cho con cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia
đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng.
Còn các công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi
là “thiên chức” của phụ nữ. Tính chất bảo thủ của sự phân công lao động truyền

thống theo giới ở các mức độ khác nhau vẫn còn được bảo lưu trong một bộ phận
gia đình Việt Nam đã làm hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em gái, cản trở phụ
nữ tham gia vào các hoạt động xã hội và có địa vị, thu nhập bình đẳng như nam
giới. Các kết quả thống kê cho thấy, trung bình thời gian làm việc một ngày của
phụ nữ là 13 giờ, trong khi của nam giới là khoảng 9 giờ. Sự chênh lệch này chủ
yếu do phụ nữ còn đảm nhiệm chính công việc nội trợ, chăm sóc con cái... ngoài
vai trò sản xuất và công tác như nam giới.

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 12


Xã hội học gia đình

Phân công lao động trong gia đình ở nhiều vùng miền trên cả nước còn mang tính
chất phân biệt theo giới rõ rệt. Công việc gia đình vẫn tập trung vào vai người phụ
nữ là chủ yếu. Do đó, phụ nữ ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi
giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ,
người phụ nữ không chỉ gánh vác hầu hết mọi công việc gia đình, chăm sóc con
cái, mà đồng thời còn là lao động chính trong gia đình. Đây thực sự là gánh nặng
quá tải, gây ảnh hưởng xấu tới tình trạng sức khoẻ của phụ nữ.
Trong gia đình, phụ nữ tham gia vào việc ra quyết định thấp hơn nam giới: Mặc
dù đã có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung phụ nữ ít đựơc quyền quyết định công
việc gia đình so với nam giới. Quyền lực cao hơn của một người chồng thể hiện ở
quyền quyết định ở một số việc như mua sắm, sản xuất kinh doanh, quan hệ họ
hàng, còn người vợ thường chỉ có tiếng nói ở những việc như sử dụng biện pháp
tranh thai, việc học của con hay các công việc nội trợ của gia đình…
2. Bình đẳng giới trong khi tham gia vào thị trường lao động.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia hoạt

động kinh tế ở mức cao (83% so với nam giới 85%). Phụ nữ đóng vai trò ngày càng
quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; tham gia ngày càng nhiều hơn
trong khu vực phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu
cầu kỹ thuật, công nghệ cao.
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 13


Xã hội học gia đình
Nhìn chung, phân bố cơ cấu nam, nữ trong các ngành nghề cho thấy, nam giới vẫn
thường chiếm tỷ lệ cao hơn ở những nhóm việc như công nhân, lãnh đạo, dịch vụ
cá nhân, công việc chuyên môn kỹ thuật và lực lượng vũ trang. Phụ nữ thường
chiếm tỷ lệ cao ở một số nhóm nghề khác như nông nghiệp, buôn bán nhỏ, nhân
viên văn phòng.
Vị thế việc làm của lao động nữ cũng có sự thay đổi tích cực. Trong 10 năm từ
1997 đến 2007, nhóm lao động làm công ăn lương tăng rất mạnh trong cơ cấu
phân bố lao động, từ 18,6% (1997) lên tới 30% (2007), trong đó lao động nam
chiếm 59,8% và lao động nữ chiếm 40,2% (2007). Nếu so sánh với năm 2005 thì có
sự thay đổi rõ rệt. Năm 2005, tỷ trọng lao động làm công ăn lương chiếm 25,6%,
trong đó lao động nam chiếm 78,7% và lao động nữ chiếm 21,3%. Tỷ trọng lao
động nữ trong số người làm công ăn lương tăng mạnh (19%), thể hiện sự thay đổi
theo hướng giảm sự bất bình đẳng giới về việc làm có thu nhập ổn định giữa nam
và nữ. Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình bình đẳng giới của Việt
Nam có nhiều tiến bộ.
Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động khu vực
thành thị cũng có xu hướng giảm nhẹ, từ 4,82% năm 2006, xuống còn 4,64% năm
2007, ước tính năm 2008 là 4,65%, tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp của lao động
nữ ở khu vực thành thị là 5,25%; 5,10% và 5,10%. Nhìn chung, kết quả này đều
thực hiện đạt chỉ tiêu phấn đấu đề ra trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của

phụ nữ Việt Nam Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ
học vấn của phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo
dục cấp 2 trở lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức độ chênh lệch
giữa nam và nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo Kết quả chủ yếu của
Điều tra Dân số-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ
của nam giới là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia
dẫn nguồn từ website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100
thạc sĩ có 34 nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ, 25 năm
qua, giải thưởng Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới khoa học
Việt Nam được trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002, Thủ tướng

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 14


Xã hội học gia đình
Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam” nhằm
khuyến khích và tôn vinh phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực.
Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về việc làm, thu
nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hoá gia đình hay tham gia lĩnh vực chính trị.
Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Mở cánh cửa giáo dục là
mở ra các cơ hội mới.
Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và nam giới là 76%.
Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham gia lao
động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia lao
động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển”
(Gender equality and Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ
lệ phụ nữ (30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hơn nam giới
(26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu

thuộc về khu vực thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản[6].
Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản
thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu
nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được 0,69$ (số liệu năm 2007). Điều
này khác xa so với nhiều nước trên thế giới. Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu
nhập và mang đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ
Đến nay, tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc làm đã
tăng lên và có khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch. Theo Điều tra lao động - việc làm
ngày 1/8/2007 của Tổng cục Thống kê, năm 2005, lao động nữ chiếm khoảng
21,14 triệu người trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc dân (48,6% so với
43,45 triệu lao động), đến 8/2007 đã tăng lên khoảng 22,77 triệu người (49,4% so
với tổng số trên 46,11 triệu lao động).
Chênh lệch lao động sau 2 năm 2006 – 2007 tương ứng với số lao động được giải
quyết việc làm mới là 2,76 triệu người (trong đó, lao động nam là 1,08 triệu người
và lao động nữ là trên 1,67 triệu người), bình quân mỗi năm giải quyết việc làm
cho trên 1,33 triệu người, trong đó, lao động nữ là 835 nghìn người.

Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 15


Xã hội học gia đình
Tuy vậy nhưng vẫn có những hạn chế sau:
Thứ nhất, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức, phụ nữ cũng tham gia rất
nhiều vào lực lượng lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, ước tính
khoảng 70% đến 80%. Tuy nhiên, điều kiện lao động, thu nhập và an sinh xã hội
(bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) đối với lao động nữ làm việc trong khu vực này
còn rất nhiều hạn chế.
Thứ hai, nhiều quy định của pháp luật lao động chưa được các doanh nghiệp

nghiêm túc thực hiện, thậm chí một số doanh nghiệp còn trốn tránh thực hiện bởi
họ nhìn nhận những quy định ưu tiên, ưu đãi đối với lao động nữ là những gánh
nặng tài chính hoặc đem lại rủi ro cho họ vì vậy những quy định ưu tiên đối với lao
động nữ có thể trở thành bất cập

Thứ ba, còn khoảng cách giữa quy định của chính sách pháp luật và thực tiễn thực
hiện nên lao động nữ không thực sự thụ hưởng, cụ thể theo các quy định về giảm
thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ thì các khoản chi cho lao
động nữ được coi là các khoản chi hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thuế
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 16


Xã hội học gia đình
theo quy định của pháp luật không mang tính bắt buộc. Vì vậy, nếu doanh nghiệp
chi thêm cho lao động nữ thì doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục phức tạp để
đề nghị được xét giảm thuế. Do vậy, các doanh nghiệp thường chọn cách không
chi thêm cho lao động nữ. Mặt khác, các khoản chi phí thực hiện chính sách ưu
đãi phải hạch toán vào giá thành sản phẩm dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp khiến doanh nghiệp né tránh thực hiện các quy định ưu đãi đối với lao động
nữ. Trong khu vực nông thôn, lao động nữ chưa được điều chỉnh bởi hệ thống
chính sách pháp luật này, mặc dù họ chiếm đa số lực lượng lao động ở đây. Một
sự bất bình đẳng mới phát sinh ngay giữa các nhóm lao động nữ trong lực lượng
lao động.

Chương III.Một số nguyên nhân
Hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn có nhiều khó khăn đã hạn chế
các điều kiện đầu tư cho công tác bình đẳng giới, các chính sách thúc đẩy bình
đẳng giới.

Tư tưởng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại trong một bộ
phận nhân dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi; mặt khác nhận thức về
vấn đề bình đẳng giới tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa cao, do vậy, việc thực
hiện bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội còn có những hạn chế. Nhận
thức của các cấp, các ngành còn nhiều bất cập; chưa tích cực, chủ động triển khai
thực hiện Luật Bình đẳng giới và còn có tư tưởng coi công tác bình đẳng giới là
của phụ nữ và cho phụ nữ nên nhiều hoạt động thực hiện còn mang tính hình
thức.
Một số quy định trong các lĩnh vực có liên quan đến bình đẳng giới còn
chưa phù hợp đã dẫn tới những hạn chế điều kiện và cơ hội tham gia bình đẳng
của phụ nữ như vấn đề tuổi nghỉ hưu; tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm…
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 17


Xã hội học gia đình
của cán bộ, công chức nữ. Thiếu chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng
giới; một số chính sách khuyến khích sử dụng lao động nữ không được thi hành
như chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ
được ban hành đã lâu nhưng chậm và khó thực hiện, do vậy không tạo động lực
cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ và nâng cao các điều kiện bảo
hộ lao động, chế độ đãi ngộ đối với lao động nữ.
Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật, cũng như các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội chưa
được quan tâm đúng mức nên việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật
đảm bảo lồng ghép bình đẳng giới cũng còn lúng túng và có hạn chế nhất định.

IV.Một số kiến nghị
- Cần có tổng kết, đánh giá việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản

quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực không phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng
giới theo quy định tại Điều 6 của Luật bình đẳng giới.
- Tiếp tục tiến hành lồng ghép giới, đánh giá tác động giới trong các chính sách,
chương trình, đề án về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề… nhằm
đảm bảo bình đẳng giới trong quá trình tổ chức thực hiện.
- Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về giới, phân tích giới,
lồng ghép giới cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở
trung ương và địa phương.
- Nghiên cứu xây dựng các chính sách hỗ trợ việc điều hòa các trách nhiệm của
nam, nữ trong tham gia chia sẻ công việc gia đình và làm kinh tế, trao cho người
cha cơ hội phát huy vai trò chăm sóc gia đình và con cái, giảm bớt gánh nặng công
việc gia đình không trả công của phụ nữ do phải kết hợp các hoạt động kinh tế và
chăm sóc gia đình, trẻ em.
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 18


Xã hội học gia đình
- Khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của mình đối với lao
động nữ, đồng thời tạo cơ hội cho người sử dụng lao động có thể cạnh tranh
trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
- Tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động, đặc biệt thị
trường lao động chính thức hơn là đưa ra những ưu tiên, ưu đãi mà có thể trở
thành những rào cản đối với họ
- Phát huy vai trò của Hội LHPN Việt Nam trong giám sát và phản hồi chính sách về
bình đẳng giới

C.KẾT LUẬN
Lê Thị Phương Anh – QLNN2


Page 19


Xã hội học gia đình
Phụ nữ bình đẳng với nam giới không chỉ góp sức cho xã hội giàu
mạnh, văn minh mà trong gia đình là ngọn nguồn của hạnh phúc, đã sản sinh và
nuôi dưỡng thế hệ trẻ tốt đẹp. Bình đẳng nam nữ là nền tảng văn hoá của con
người, của gia đình và hạnh phúc. Vai trò của phụ nữ được phát huy bình đẳng
trong xã hội và trong gia đình, mang một ý nghĩa lớn đối với sự giữ gìn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và truyền thống văn hoá của dân tộc.
Văn hoá gia đình là nền tảng của văn hoá xã hội, ở đó vai trò của người phụ nữ với
chức năng sàng lọc và giữ gìn văn hoá dân tộc mang ý nghĩa đặc biệt. Để phụ nữ
làm được chức năng quan trọng này với gia đình và dân tộc, trước hết họ phải
được bình đẳng để tiến bộ và theo kịp thời đại. Trong cuộc sống đổi mới và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta lấy dân
làm gốc, lấy việc trồng người để mưu cầu lợi ích trăm năm. Trồng người là sự
nghiệp tạo dựng thế hệ công dân mới có đức, có tài, thể lực tốt mà gia đình là cái
nôi ban đầu và người mẹ đồng thời cũng là người thầy dạy con ngay từ thời mới
còn chập chững. Không phải ngẫu nhiên mà phương Đông ta đề cao Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín. Nguyễn Du có câu "Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài". Trong dân gian
truyền tụng câu "Làm mẹ phải biết để đức cho con", đức thuộc phạm trù văn hoá.
Người mẹ ViệtNam thời đại hôm nay đứng trước sứ mệnh sàng lọc và truyền nối
để bảo vệ nền văn hoá dân tộc, trước tiên gia đình mình phải là người có đức, có
trí, có lực. Họ phải được bình đẳng thì mới đạt được những chuẩn mực mang nội
dung thời đại để từ đó xây dựng hạnh phúc gia đình, nuôi dưỡng con cái trở thành
con người mới, công dân mới xã hội chủ nghĩa. Trong gia đình, vợ chồng thương
yêu, tôn trọng lẫn nhau thì con cái mới được chăm sóc đầy đủ và cảm nhận được
sự ấm êm, hạnh phúc, luôn luôn là điển tựa cho con người vượt qua mọi thử
thách.

Bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong mọi thời đại, đặc biệt là
ở cuộc sống hiện đại hóa công nghiệp hóa hiện nay. Bình đẳng giới trong gia đình
là môi trường lành mạnh để con người, đặc biệt là trẻ em được đối xử bình đẳng,
được giáo dục về quyền bình đẳng, được hành động bình đẳng; bình đẳng giới
trong gia đình là tiền đề quan trọng cho sự thành công trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục trẻ em; bình đẳng giới trong gia đình góp phần tăng chất lượng
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 20


Xã hội học gia đình
cuộc sống của các thành viên gia đình, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước; và
bình đẳng giới trong gia đình góp phần giải phóng phụ nữ và góp phần xây dựng
thể chế gia đình bền vững.

D.Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ LĐ – TBXH, kết quả điều tra lao động việc làm các năm 2003, 2004, 2005,
2006. Hà nội, NXB Lao động – xã hội 2003, 2004, 2005, 2006.
2.
Naila Kabeer – Trần Thị Vân Anh, toàn cầu hoá, vấn đề giới và việc làm trong
nên kinh tế chuyển đổi, trường hợp Việt nam năm 2006. Hà nội năm 2007;
3. Ngân hàng thế giới, Báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt nam năm 2006, Hà
nội 2007
4.
Ngân hàng thế giới, báo cáo phát triển năm 2006. Hà nội năm 2007, NXB
Chính trị quốc gia năm 2007;
5.
Ngân hàng thế giới – Viện kinh tế Việt nam, báo cáo sự tham gia của công
đồng ngư dân nghèo trong xác định nguồn lực và nhu cầu đuầ tư phát triển thuỷ

sản Việt nam năm 2006. Hà nội;
6.
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), báo cáo tình hình phát triển kinh tế – xã
hội Việt năm năm 2006, Hà nội, NXB chính trị quốc gia năm 2007.
7.

Quốc hội nước CHXHCNVN, Luật bình đẳng giới năm

8.
Trần Thị Báo (2003), Quyền bình đẳng của phụ nữ trong sự nghiệp và cuộc
sống gia đình, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
9.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000), Hội nghị tổng kết KHHGĐ vì sự tiến bộ của
phụ nữ Việt Nam 1997 - 2000, xây dựng chiến lược 10 năm và KHHGĐ 5 năm, Hà
Nội
10.
Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới (2002), Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội
Lê Thị Phương Anh – QLNN2

Page 21


Xã hội học gia đình
11.

Ngô Công Hoàn (1992), Tâm lý học gia đình, Đại học Sư phạm Hà Nội.

Lê Thị Phương Anh – QLNN2


Page 22



×