Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ QUẢN lý LIÊN kết đào tạo của TRƯỜNG CAO ĐẲNG sư PHẠM hà GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (876.73 KB, 101 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người, giáo dục có vai
trò hết sức to lớn. Thấy được vị trí quan trọng đó tại hội nghị Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII Đảng ta đã khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững” [15, tr.19].
Để nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực đủ về số lượng, hợp lý
về cơ cấu không chỉ là nhiệm vụ của giáo dục chính quy, mà có phần đóng
góp không nhỏ của giáo dục không chính quy (giáo dục thường xuyên). Muốn
thực hiện mục tiêu của GD&ĐT, thực hiện công bằng giáo dục “mọi người đi
học, học thường xuyên, học suốt đời” thì phải “mở rộng các hình thức học
thường xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa” [15, tr.34].
Hiện nay, hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều coi nhân tố con
người, nguồn lực con người hay nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, có vai trò
quyết định nhất đến sự phát triển nhanh và bền vững của một quốc gia. Các
nhà kinh tế đã khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động
giáo dục và đào tạo là đầu tư có hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững của đất nước. Nhờ có sự ưu tiên đầu tư cho
giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nước chỉ trong thời gian
ngắn đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp phát triển.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Đổi mới căn
bản toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội, nâng cao
chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
Trong những năm gần đây giáo dục thường xuyên ngày càng có vị trí,
vai trò nhất định trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta. Đặc biệt bằng


4


hình thức liên kết với các trường chuyên nghiệp đào tạo được nguồn nhân lực
tại chỗ, đào tạo theo địa phương, phục vụ nhu cầu học tập cho cán bộ của các
vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa trong cả nước.
Tuy nhiên giáo dục thường xuyên vẫn biểu hiện những yếu điểm của
mình: Chạy theo số lượng, hiệu quả quản lý còn yếu dẫn tới chất lượng đào
tạo chưa cao. Đặc biệt đối với hình thức liên kết còn nhiều bất cập trong công
tác quản lý đối với cả đơn vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo.
Trường Cao đẳng sư phạm (CĐSP) Hà Giang có chức năng đào tạo,
liên kết đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, trung cấp, cao
đẳng liên thông lên đại học, trung cấp chuyên nghiệp liên thông cao đẳng ở
nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển KT- XH địa
phương, làm cơ sở cho việc học tập suốt đời của con em đồng bào các dân tộc
Hà Giang. Cùng với các cơ sở giáo dục trên toàn tỉnh, thực hiện chủ trương xã
hội hóa giáo dục của Đảng. Nhận thức sâu sắc vị trí và vai trò của sự nghiệp
giáo dục đối với sự phát triển của đất nước, quán triệt tư tưởng xã hội hoá
giáo dục được định hướng từ các Nghị quyết Đại hội Đảng những năm qua,
dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hà Giang công tác xã hội hoá giáo
dục của trường CĐSP Hà Giang được tiến hành tích cực với nhiều hình thức
phong phú, cùng với việc vận động xã hội đóng góp nhân lực, vật lực, huy
động các nguồn đầu tư cho giáo dục.
Hình thức Liên kết đào tạo (LKĐT) nhằm tạo cơ hội cho mọi người
vừa làm, vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Tuy nhiên
hình thức LKĐT hiện nay còn nhiều bất cập trong công tác quản lý. Liên kết
mở quá nhiều lớp chạy theo số lượng buông lỏng quản lý, không kiểm soát
được dẫn đến hệ quả tất yếu là chất lượng đào tạo chưa cao, chưa tạo được
lòng tin đối với người học và xã hội. Trong những năm qua hoạt động LKĐT


5

của Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang được phát triển theo từng năm, hiện
nay chất lượng đào tạo các lớp liên kết của nhà trường chưa cao. Do vậy để
quản lý hoạt động LKĐT có chất lượng thì cần phải có những biện pháp phù
hợp với xu thế phát triển của xã hội và mục tiêu phát triển của nhà trường.
Xuất phát từ việc học tập, nghiên cứu lý luận về khoa học Quản lý giáo dục
(QLGD), từ thực tiễn công tác tôi thấy việc LKĐT cũng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của nhà trường, cần tìm ra những biện pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng các lớp đào tạo theo hình thức liên kết và hiện nhà
trường chưa có công trình nghiên cứu nào về quản lý liên kết đào tạo cũng
như liên kết đào tạo nên tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý liên
kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nghiên cứu trên thế giới
UNESCO đã có khuyến cáo đúng đắn khi coi giáo dục của thế kỷ 21 là nền
giáo dục của xã hội học tập và học suốt đời cho mọi người. Quan điểm này thực ra
có từ rất sớm, nó xuất phát từ quan điểm “ Giáo dục bình đẳng” trong tư tưởng của
Mác - Ăng ghen đó là “Mọi người ai cũng được học hành”. Như vậy giáo dục
không thể tách rời xã hội mà giáo dục và xã hội là một khối thống nhất. Xã hội học
tập bao gồm các hình thức: Giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy.
Các nghiên cứu về giáo dục trên thế giới thể hiện xu thế đổi mới giáo
dục ở tất cả các quốc gia. Những nghiên cứu này mang tính cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay để đối phó với sự bùng nổ tri thức, khoa học và công nghệ,
sự phát triển của kinh tế – xã hội và nhu cầu hoàn thiện tri thức của cá nhân
người học ở mọi cấp, bậc học khác nhau. Các hướng nghiên cứu về phát triển
giáo dục trên thế giới thể hiện chủ yếu ở các lĩnh vực sau: Cơ sở lý luận về
chương trình giáo dục; Các nghiên cứu về cải cách chương trình giáo dục;


6

Thời lượng thực hiện chương trình giáo dục; Nghiên cứu về chuẩn chương
trình giáo dục, các công trình trên đang phát triển theo hướng mở, hướng hội
nhập hợp tác liên kết đào tạo giữa các quốc gia, như một số quốc gia sau:
Thụy Điển nổi tiếng về sự đổi mới trong việc hợp tác giữa các ngành
công nghiệp và các học viện, điều này luôn được đánh giá ghiêm ngặt. Các
trường đại học Thụy Điển luôn luôn cải tiến và đầu tư vào các nghiên cứu và
các ý tưởng độc đáo. Thụy Điển luôn là một trong những nước có nền giáo
dục được đánh giá cao ở Châu Âu". Đặc biệt trong vài năm gần đây, chính
phủ Thụy Điển đã đẩy mạnh việc quốc tế hóa giáo dục đại học, sử dụng ngôn
ngữ tiếng Anh là chủ đạo, tạo điều kiện cơ hội cho sinh viên quốc tế đến du
học tại Thụy Điển, đay chính là điều kiện thuận lợi trong liên kết đào tạo. Điều
ấn tượng nhất trong giáo dục Thụy Điển là sự linh hoạt tối đa của chương trình
học và sinh viên được rèn luyện phong cách để chuẩn bị trở thành người lao
động trong nền kinh tế toàn cầu theo 4 chỉ tiêu: làm việc theo nhóm (teamwork),
rèn luyện kỹ năng kỹ thuật thực dụng (pragmatic technical skills), tập giải quyết
vấn đề (problem solving) và tinh thần dám nghĩ dám làm trong doanh nghiệp
(entrepreneuship). Các phong cách này thông qua làm việc từng nhóm học sinh
thực hiện các đồ án dưới sự hướng dẫn của người thầy. Quá trình thực hiện đồ án
luôn kèm theo các phân tích có tính phê phán (critical analysis)”.
Trung quốc hiện nay mở rộng liên kết đào tạo, hợp tác giáo dục, tiếp
nhận rất nhiều sinh viên quốc tế đến học tiếng và học các môn khoa học, kinh
tế xã hội khác. Trung Quốc đã xác định “Cần phải đưa giáo dục lên vị trí ưu
tiên cho sự phát triển” và Trung Quốc từ lâu đã được biết đến là một trong
những nước có nền văn hoá đồ sộ và lâu đời nhất thế giới.Nền giáo dục của
Trung quốc hiện đang thay đổi theo xu hướng của các nước phát triển. Trung
Quốc đã xác định “Cần phải đưa giáo dục lên vị trí ưu tiên cho sự phát triển”


7
đặc biệt việc mở rộng giáo dục theo hướng liên kết đào tạo với các quốc gia

trên thế giới.
Sự phát triển của các chương trình liên kết đào tạo đã mang lại những
lợi ích cho các quốc gia, các cơ sở giáo dục và cho mỗi cá nhân người học,
các chương trình liên kết đào tạo đã góp phần huy động được nguồn lực của
sự nghiệp giáo dục và đào tạo mỗi quốc gia, đáp ứng giải quyết nhu cầu học
tập ngày càng tăng của số đông người học trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
* Nghiên cứu ở Việt Nam
Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, giáo dục ở
nước ta đã có những bước phát triển mới. Quan điểm giáo dục của Đảng và
Bác Hồ đã thực sự đi vào lòng dân và đã khơi dậy được truyền thống hiếu học
của dân tộc, tạo nên một sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn thử thách
để “ai cũng được học hành”.
Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng số 73-HĐBT ngày 12/7/1983 về
công tác giáo dục trong những năm trước mắt đã cho phép thành lập trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng tại chức cấp tỉnh trên cơ sở các tổ chức ở địa phương
đã hình thành từ trước đó. Đây là mô hình cơ sở giáo dục mới dựa trên sự liên
kết của các trường đại học với các tỉnh, thành trong cả nước và là một bước
đột phá trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đại học, tại chức, từ xa. Việc liên
kết này là một kinh nghiệm quý báu, thiết thực cần được tổng kết, phát huy và
nâng cao vai trò của các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo, liên kết đào tạo với
nhiều hình thức học tập khác nhau.
Đại hội Đảng VI năm 1986, với đường lối đổi mới trong lĩnh vực Giáo
dục, nghị quyết đã chỉ rõ: “Phải bố trí hợp lý cơ cấu giáo dục, thể hiện tính
thống nhất của quá trình giáo dục, bao gồm nhiều hình thức đào tạo, bồi
dưỡng chính quy và không chính quy, tập trung, tại chức…”
Hệ đào tạo đại học không chính quy với nhiều hình thức mới, tên gọi
mới như đại học mở, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn đã được mở ra. Từ


8

năm 1988 đến 1991 đã có 2 Viện đại học mở được thành lập ỏ Hà Nội và
Thành Phố Hồ Chí Minh.
Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “ Hệ thống giáo dục quốc dân
bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên”, “nhà nước có chính
sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây
dựng xã hội học tập”.
Theo đánh giá của Ủy ban VHGDTNTN&NĐ, việc liên kết đào tạo trong
nước cũng đã có những đóng góp nhất định vào việc đào tạo nguồn nhân lực phục
vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận với đào tạo
trình độ cao cho đối tượng người học vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn. Tuy
nhiên trên thực tế, hoạt động liên kết đào tạo trong nước thời gian qua, đặc biệt là
việc tổ chức đào tạo liên kết ngoài cơ sở chính để cấp bằng CĐ, ĐH chính quy
bộc lộ nhiều bất cập; nội dung, chương trình đào tạo cũng thường bị cắt xén; cơ sở
vật chất, trang thiết bị của đơn vị liên kết còn thiếu thốn, lạc hậu, không phù hợp,
… dẫn tới chất lượng đào tạo liên kết không bảo đảm.
Trong vòng 1 thập kỷ gần đây chúng ta đã chuyển dần từ mô hình giáo
dục đào tạo khép kín sang mô hình giáo dục mở với hệ thống tạo điều kiện
học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học, thực
hiện liên kết đào tạo giữa các nhà trường. Công tác quản lý giáo dục đào tạo
trong các trường cao đẳng, đại học cũng đã được đổi mới một bước để thích
ứng với mô hình và cơ chế mới. Những năm qua đã xuất hiện nhiều sự liên
kết trong quá trình đào tạo sinh viên giữa các trường tuy nhiên vẫn còn gặp
nhiều khó khăn, bất cập vì thiếu những nghiên cứu cơ bản về mặt lý luận
trong đó có cả lý luận về quản lý giáo dục đào tạo, các cơ sở đào tạo như:
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Học viện quản lý giáo dục, Đại học Giáo
dục – Đại học Quốc Gia Hà Nội….những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý
giáo dục, quản lý đào tạo ở các nhà trường đã thu hút hàng trăm học viên lựa
chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ. Những nghiên cứu đã dẫn ra ở trên đã có
những đóng góp nhất định về lý luận quản lý giáo dục đào tạo ở Việt Nam



9
hiện nay, đề xuất được những giải pháp quản lý phù hợp, có tính khả thi nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Những năm gần đây, trong các báo, tạp chí thuộc chuyên ngành giáo
dục, tạp chí phát triển giáo dục, tạp chí dậy và học, báo giáo dục và trong các
báo cáo tổng kết công tác giáo dục thường xuyên hàng năm của bộ Giáo dục
và Đào tạo cũng đã đề cập tới công tác quản lý liên kết kết đào tạo.
Đã có nhiều cơ sở giáo dục có đề tài nghiên cứu về liên kết đào tạo và
quản lý hoạt động liên kết đào tạo để nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình học tập tôi đã tham khảo một số luận văn cao học
nghiên cứu về liên kết đào tạo như tác giả Đào Thị Lợi (2008) “ Những biện
pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng các lớp đào tạo bậc đại học theo hình
thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bắc Giang”; tác giả
Nguyễn Khánh Thọ(2009) “Biện pháp quản lý hệ vừa làm vừa học tại các cơ
sở liên kết đào tạo của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội”; tác giả Công
Văn Hướng (2009) “ Biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo văn bằng 2
hệ đại học ở trường cán bộ thanh tra thuộc thanh tra Chính Phủ”; tác giả
Nguyễn Đình Trường (2009)“ Quản lý hoạt động liên kết đào tạo giữa Trường
Cao đẳng nghề điện Luyện kim Thái Nguyên với các doanh nghiệp”. Các đề
tài nghiên cứu trên nhìn chung đã chỉ ra được thực trạng công tác quản lý liên
kết đào tạo tại cở sở mình, chỉ ra những mặt mạnh, mặt hạn chế, nhưng chưa
mạnh dạn đánh giá đúng thực trạng liên kết đào tạo. Một số giải pháp đưa ra
chưa mang tính lâu dài, chưa có tầm chiến lược, còn mang tính chung chung
theo lối mòn, không mang tính đột phá.
Trước những yêu cầu phát triển giáo dục của cả nước trong thời kỳ đổi
mới, hiện nay còn ít công trình nghiên có hệ thống, có thực nghiệm tại một cơ
sở giáo dục cụ thể, với những hiểu biết trên trong luận văn này tôi mạnh dạn

phân tích một cách tương đối toàn diện có hệ thống thực trạng của sự liên kết


10
đào tạo giữa trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang với các trường Cao đẳng,
Đại học, các cơ sở giáo dục mà nhà trường liên kết. Đồng thời bước đầu đề
xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý nhằm kết hợp chặt chẽ giữa đơn
vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý liên kết đào tạo của nhà trường. Đề tài mong muốn đúc rút được
những kinh nghiệm để góp phần đề ra các biện pháp quản lý LKĐT một cách
đồng bộ, có tính khả thi cao, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và đáp
ứng được mục tiêu phát triển của nhà trường.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn quản lý liên kết đào tạo các
trường cao đẳng, đại học, từ đó đề xuất những biện pháp quản lý liên kết đào
tạo góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo của trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Giang
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận liên kết đào tạo, quản lý liên kết đào tạo, quản lý
liên kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang
Tìm hiểu và phân tích thực trạng liên kết đào tạo, quản lý liên kết đào
tạo của Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang từ năm 2009 đến 2013.
Đề xuất biện pháp quản lý liên kết đào tạo của Trường Cao đẳng Sư
phạm Hà Giang với mục đích nâng cao chất lượng đào tạo.
Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lý
hoạt động liên kết đào tạo.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Liên kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang

* Đối tượng nghiên cứu


11
Quản lý liên kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang
* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý liên kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà
Giang trong thời gian từ năm 2009 – 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Liên kết đào tạo và quản lý liên kết đào tạo ở các trường cao đẳng,
đại học nói chung và quản lý liên kết đào tạo phụ thuộc và nhiều nhân tố
khách quan và chủ quan vì vậy trong quản lý liên kết đào tạo, nếu đề xuất
và thực thi từng bước các biện pháp quản lý liên kết đào như: Kế hoạch
hóa chương trình đào tạo liên kết; Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị cho
hoạt động liên kết đào tạo; Quản lý chất lượng giảng dạy của giảng viên và học
tập của sinh viên; Chỉ đạo công tác chủ nhiệm của các lớp liên kết đào tạo;
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả liên kết đào tạo; Tăng cường công tác
xã hội hóa liên kết đào tạo trên cơ sở khoa học quản lý giáo dục hiện đại và
phù hợp với thực tiễn địa phương thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương trong giai
đoạn hiện nay.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục và đào tạo, quản lý giáo dục và đào tạo. Đồng thời dựa vào quan điểm hệ
thống - cấu trúc; lôgíc - lịch sử, quan điểm thực tiễn làm cơ sở xem xét và phân
tích những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận



12
Phân tích, tổng hợp, đánh giá, nêu vấn đề, nghiên cứu các tài liệu lý
luận về khoa học quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, luật giáo dục, các văn
bản pháp quy, những quy định của ngành GD&ĐT, các quan điểm lý luận thể
hiện trong các văn kiện của Đảng, văn bản của Chính phủ, nghiên cứu trên
sách, báo chí, các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm
Thu thập thông tin qua việc quan sát các hoạt động quản lý của Ban
giám hiệu và hoạt động của các phòng chức năng, hoạt động dạy và học của
giáo viên và học viên.
Chủ yếu là thu thập, xử lý dữ liệu, tìm hiểu thực trạng. Các phương
pháp cơ bản: Phân tích, tổng hợp, đánh giá, nêu vấn đề và đề xuất những giải
pháp kết hợp với trao đổi, phỏng vấn, điều tra và thử nghiệm.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
Bước 1: Xây dựng phiếu điều tra
Bước 2: Tiến hành điều tra
Bước 3: Thu thập phiếu điều tra và sử lý số liệu
- Phương pháp thống kê
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu của đề tài.
7. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài luận văn góp phần bổ sung cho lý luận quản lý liên kết đào tạo
của các trường ở nước ta hiện nay. Đề xuất những biện pháp quản lý phù hợp
với thực tế và có tính khả thi góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở một số
trường cao đẳng. Những kết quả nghiên cứu còn là cơ sở và là tài liệu tham
khảo cho cán bộ quản lý, giảng viên đang làm công tác đào tạo.
8. Cấu trúc luận văn



13
Luận văn gồm: mở đầu, 3 chương (9 tiết), kết luận và khuyến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục


14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Liên kết đào tạo
* Liên kết: Liên kết là “ kết, buộc lại với nhau, gắn bó chặt chẽ với
nhau”(từ điển Từ ngữ Hán Việt).
Theo Đại từ điển Tiếng Việt - NXB Văn hóa - Thông tin 2005 (Nguyễn
Như Ý chủ biên) thuật ngữ “liên kết” cũng được định nghĩa là: “Kết lại với
nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm cùng thực hiện mục
đích”. Khái niệm liên kết phản ánh các mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa các thành phần trong một tổ chức hoặc giữa các tổ chức với
nhau nhằm hướng đến một mục đích chung nào đó. Tính hướng đích là tiêu
điểm, là cơ sở và động lực của các mối liên kết giữa chúng.
Tiền nhân có câu “ Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
Sự liên kết giữa các tổ chức theo một mục đích nào đó (lợi ích chung,
giải quyết một vấn đề chung…) tạo nên một sức mạnh mới, khả năng mới mà
từng thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ không thể có . Tùy theo từng loại hình
mà có các mối liên hệ trong hoặc liên kết bên ngoài của một tổ chức (nhà
trường, doanh nghiệp, trường đại học) trong bối cảnh và môi trường kinh tế
xã hội nhất định. Nói đến liên kết là nói đến các nội dung sau:
Mục đích, mục tiêu liên kết: Phản ánh lợi ích, mong muốn chung và cụ thể của

từng tổ chức, thành phần tham gia liên kết như lợi ích kinh tế, lợi ích môi trường.
Các thành phần, tổ chức liên kết: Bao gồm các thành phần tổ chức độc
lập, có tư cách pháp nhân thuộc nhiều loại hình, tổ chức kinh tế - xã hội, giáo
dục - đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước…tham gia với những vai trò, vị trí
nhất định trong liên kết.


15
Các hình thức liên kết: Tùy theo mục đích và tính chất liên kết mà có
thể có theo hình thức tổ chức đào tạo các khóa đào tạo liên kết, thỏa thuận
phối hợp thực hiện các dự án nghiên cứu hay phát triển các sản phẩm dịch vụ,
các hợp đồng kinh tế trong hợp tác nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng nhân
lực, nghiên cứu và sản xuất sản phẩm mới.
Các nội dung liên kết: Tùy thuộc vào mục đích đối tượng và hình thức
liên kết mà có các nội dung liên kết sẽ khác nhau bao gồm: Đầu tư, hỗ trợ tài
chính, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài, nghiên cứu KH&CN đến các hoạt động
sản xuất kinh doanh với vai trò, vị trí, trách nhiệm tham gia theo thỏa thuận
của các bên tham gia liên kết.
Cơ chế liên kết: Là cách thức tổ chức, quản lý và các nguyên tắc vận
hành các mối liên kết bảo đảm đạt được mục tiêu mong muốn và trách nhiệm,
quyền lợi, lợi ích của các bên tham gia liên kết. Trên thực tế có thể phối hợp
nhiều cơ chế khác nhau như cơ chế thị trường (theo quy luật cung cầu, giá trị,
giá cả…), cơ chế hợp tác, liên kết mở, liên kết toàn diện.
Sản phẩm liên kết: Là các sản phẩm được tạo ra của quá trình liên kết
như các sản phẩm hàng hóa - dịch vụ; Sản phẩm đào tạo (nhân lực KH&CN);
sản phẩm nghiên cứu khoa học - công nghệ (vật liệu mới, thiết bị, quy trình,
công nghệ mới…).
Môi trường và các điều kiện liên kết: Là tập hợp các nhân tố bên ngoài
(môi trường chính trị - xã hội, kinh tế văn hóa, các tổ chức khác,…) và môi
trường bên trong của mối liên kết giữa các đối tác (các quan hệ nội bộ, các

điều kiện, đặc tính bên trong của từng đối tác…)
* Đào tạo: Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Đào tạo là quá trình tác
động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hệ thống nhằm chuẩn bị thích nghi với cuộc
sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào
việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người.


16
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, thái độ…để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân tạo tiền đề
cho họ có thể vào đời hành nghề một cách năng suất, hiệu quả.
Như vậy, có thể hiểu đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp, đồng thời giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ cho học sinh và
thanh niên để họ trở thành người công dân, người lao động có chuyên môn và
nghề nghiệp nhất định. Nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mỗi
cá nhân, đáp ứng yêu cầu nhân lực của xã hội trong một gia đoạn lịch sử nhất
định. Quá trình này diễn ra trong các cơ sở đào tạo như: Các trường Đại học,
Cao đẳng. Trung cấp chuyên nghiệp, các Trung tâm giáo dục thường xuyên,
Trung tâm dạy nghề… theo một kế hoạch, nội dung chương trình quy định
cho từng ngành nghề cụ thể, nhằm giúp người học đạt được một trình độ nhất
định trong lao động nghề nghiệp.
* Quá trình đào tạo
Quá trình đào tạo: Là một chỉnh thể, có cấu trúc gồm nhiều thành tố,
mỗi thành tố có vị trí xác định, có chức năng riêng và có mối quan hệ mật
thiết, biện chứng với nhau. Quá trình đào tạo là một chỉnh thống nhất, ngoài
hai nhân tố cơ bản là giảng viên/ giáo viên và học viên/sinh viên/ học sinh còn
có nhiều nhân tố khác tham gia. Các nhân tố đó bao gồm: Mục tiêu, nội dung,
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức đào tạo cùng với môi trường

văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật của của đất nước trong
trào lưu phát triển của thời đại.
Quá trình đào tạo bắt đầu từ việc xây dựng mục tiêu đào tạo. Từ đó xác
định các nhiệm vụ cụ thể. Mục tiêu được xác định đúng và mọi người đều
được thấm nhuần, đều ý thức được nó thì mới đạt đến chất lượng và hiệu quả.
Ngoài các yếu tố khác như nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương


17
tiện, thiết bị thì đạo tạo cần có một môi trường thuận lợi ở cả hai phương diện
vi mô và vĩ mô.
Sự vận động và phát triển của quá trình đào tạo là kết quả của quá trình
tác động biện chứng giữa các nhân tố trên. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo
phải nâng cao chất lượng của từng thành tố và đồng thời nâng cao chất lượng
tổng hợp của toàn hệ thống. Quản lý quá trình đào tạo trong quản lý giáo dục
dạy học và quản lý quá trình đào tạo.
Một cách tổng quát ta có thể hiểu quản lý giáo dục và đào tạo là hoạt
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo người học theo yêu cầu phát triển của xã hội.
Cũng như hoạt động kinh tế - xã hội, quản lý đào tạo có 2 chức năng
tổng quát: Thứ nhất, đó là chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo, đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế - xã hội trong giai đoạn trước mắt. Thứ hai là
chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu sự tiến bộ kinh tế - xã
hội. Từ 2 chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục và đào tạo phải quán
triệt, gắn bó với 4 chức năng:
Lập kế hoạch đào tạo: Đưa mọi hoạt động giáo dục và đào tạo vào kế
hoạch với mục tiêu, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể, ấn định tường minh các
điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Tổ chức đào tạo: Hình thành và phát triển quá trình đào tạo tương ứng
với mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Chỉ đạo, điều hành quá trình đào tạo: Chức năng này mang tính tác
nghiệp trong quá trình thực hiên kế hoạch, lưu ý lấy ý kiến một cách dân chủ
của cơ sở và điều hành, chỉ đạo một cách tập chung và thống nhất.
Kiểm tra: Việc này gắn với đánh giá kết quả đào tạo, tổng kết kinh nghiệm
đào tạo, điều chỉnh mục tiêu.
Từ luận điểm phân tích trên kết luận quản lý đào tạo là bao gồm các
yếu tố sau:


18
Mục tiêu đào tạo
Nội dung đào tạo
Phương pháp đào tạo
Lực lượng đào tạo (giảng viên/ giáo viên)
Đối tượng đào tạo (học viên/sinh viên/học sinh)
Hình thức tổ chức đào tạo
Điều kiện đào tạo
Môi trường đào tạo
Quy chế đào tạo
Bộ máy tổ chức đào tạo
Đào tạo được hiểu là cung cấp, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, …là việc tạo nguồn nhân lực để giải quyết một vấn
đề, làm một việc gì đó để đạt kết quả. Đó có thể là một nhiệm vụ đơn giản,
một hệ thống nhiều nhiệm vụ, có thể là một nghề, một dự án.
Đào tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm
truyền đạt các kiến thức kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn tạo ra
năng lực để thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp.
* Liên kết đào tạo
Trong xã hội hiện đại không có tổ chức nào tồn tại mà không có mối
liên hệ, liên kết với các tổ chức kinh tế, xã hội khác.

Trong đào tạo: Liên kết là hình thức phối hợp, hỗ trợ, tạo sự gắn bó chặt
chẽ với nhau giữa các cơ sở đào tạo hoặc giữa các cơ sở đào tạo với các đối tác
khác nhằm thực hiện các chức năng, nhiệu vụ của cơ sở đào tạo. Năm 2008 Bộ
GD&ĐT nước ta đã ban hành Quyết định số 42/2008/QĐ-BGDĐT về liên kết đào
tạo trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học. Tại văn bản này liên kết đào tạo
được hiểu là sự hợp tác giữa các bên để tổ chức thực hiện các chương trình đào
tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học [3].


19
Liên kết đào tạo (LKĐT) là một mô hình trong giáo dục nhằm tạo cơ hội
học tập cho toàn xã hội. Nhờ cách làm này, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa;
nhiều người bận làm việc, không có thời gian... cũng có cơ hội học tập lên cao.
Liên kết đào tạo không phải là một hình thức mới trong ngành giáo dục, nó đang
ngày càng phát triển do nhu cầu học tập của các cá nhân đang ngày càng cao, liên
kết đào tạo tạo cho các cá nhân tự nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp
vụ và cũng chính là phát triển các hình thức đào tạo, giáo dục từ xa, tiếp tục đa
dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình trường phù hợp với tình hình
mới, với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và của toàn xã hội.
Hiện nay nhà nước ta đang tồn tại hai loại hình liên kết đào tạo đó là
liên kết đào tạo trong nước và liên kết đào tạo nước ngoài:
Liên kết đào tạo trong nước là loại hình liên kết đào tạo giữa các trường.
Chẳng hạn như một trường đại học có rất nhiều cơ sở liên kết ở nhiều vùng tỉnh
lẻ và vùng sâu vùng xa. Tham gia các chương trình liên kết này, học viên có thể
được học chương trình và nhận bằng do trường chủ trì đào tạo đó cấp.
Liên kết đào tạo với nước ngoài là một hình thức đang được đang
nhiều trường áp dụng. Hình thức liên kết giáo dục này không chỉ dành cho hệ
giáo dục đại học mà còn dành cho hệ giáo dục sau đại học. LKĐT nước ngoài
hiện đang được tổ chức đào tạo theo các hình thức: Thứ nhất là hình thức học
toàn bộ khóa học tại Việt Nam lấy bằng (hoặc chứng chỉ) của nước ngoài;

Thứ hai là học tại Việt Nam và bằng do hai bên cùng cấp hoặc chương trình
được chia thành hai giai đoạn: học ở Việt Nam và cả nước ngoài với thời
lượng học khác nhau.
1.1.2. Quản lý liên kết đào tạo
Các tác giả, học giả đứng trên luận điểm khác nhau đã có nhiều cách
tiếp cận khác nhau về quản lý:
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo, lãnh đạo và kiểm tra” [27].


20
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự
phân công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm
đạt đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn. Trong công việc đòi
hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý” [3].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [32].
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc:“ Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [5].
Theo Henri Fayol (1841-1925) là một kỹ nghệ gia người Pháp, cống
hiến lớn nhất của Fayol là xuất phát từ các loại hình “hoạt động quản lý”, ông
là người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản: kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Theo thuyết quản lý hành chính Heny
Fayol thì: “Quản lý hành chính là lập kế hoạch, tổ chức và điều khiển, phối
hợp và kiểm tra"
Theo tác giả Mary Parker Follett: Quản lý là một quá trình động, liên
tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại. Bà đã đề xuất 4 nguyên tắc phối hợp mà

người quản lý cần phối hợp.
Theo Frederik Winslon Taylo (1856 - 1915) người Mỹ được coi là “Cha
đẻ của thuyết quản lý khoa học”, là một trong những người mở ra “Kỷ nguyên
vàng” trong quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý “Mỗi
loại công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và đều phải quản lý chặt
chẽ”. Ông cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần
làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất.”
Theo Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn thì ít nhiều cùng đến một sự chỉ đạo


21
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung
phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của những
khách quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy
mình, còn một dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” [4, tr.1]. Như vậy, Mác đã lột tả
được bản chất quản lý là một hoạt động lao động tất yếu vô cùng quan trọng
trong quá trình phát triển của loài người.
Từ những định nghĩa, quan niệm trên tác giả cho rằng: Quản lý là sự tác
động có ý thức nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội những hành vi
hoạt động của con người, huy động tối đa các nguồn lực khác nhau để đạt tới
mục đích theo ý chí của nhà quản lý và phù hợp với qui luật khách quan.
Bàn về hoạt động quản lý và người quản lý chúng ta cần tìm hiểu người
quản lý phải làm gì – Đó chính là tìm hiểu các chức năng của quản lý [24]. Có
bốn chức năng quản lý cơ bản sau đây:
Kế hoạch hoá (Planning)
Tổ chức (Organizing)
Chỉ đạo, lãnh đạo (Leading)
Kiểm tra (Controlling)
Chức năng của quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ định

của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Đó là tập hợp những nhiệm vụ
khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý.
Về số lượng các chức năng quản lý nói chung, những tác giả nghiên
cứu về quản lý có ý kiến không giống nhau. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả
đều đề cập tới bốn chức năng chủ yếu đó là: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra và trong đó thông tin vừa là phương tiện, vừa là điều kiện để thực
hiện chức năng quản lý.
Chức năng kế hoạch hoá: Để thực hiện chủ chương, chương trình, dự
án kế hoạch hoá là hành động đầu tiên, chức năng cơ bản để hoàn thành các


22
chức năng khác. Đây được coi là chức năng chỉ lối làm cho tổ chức phát triển
theo kế hoạch. Trong quản lý đây là căn cứ mang tính pháp lý quy định hành
động của cả tổ chức.
Chức năng tổ chức: Người quản lý phải hình thành bộ máy tổ chức là cơ
cấu các bộ phận (tuỳ theo tính chất công việc, có thể tiến hành phân công, phân
nhiệm cho các cá nhân), quy định chức năng nhiệm vụ từng bộ phận, mối quan
hệ giữa chúng. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ, liên hệ giữa con
người với con người, giữa các bộ phận riêng rẽ thành một hệ thống hoạt động
nhịp nhàng của một cơ thể thống nhất. Một tổ chức được thiết kế phù hợp sẽ
phát huy được năng lực nội sinh và có ý nghĩa quyết định đến việc chuyển hoá
kế hoạch thành hiện thực, tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho các tiềm năng.
Chức năng chỉ đạo: Chức năng này đòi hỏi người quản lý phải vận
dụng khéo léo các phương pháp và nghệ thuật quản lý. Đây là quá trình tác
động qua lại giũa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm giúp
phần thực hiện hoá các mục tiêu đề ra. Bản chất của chức năng chỉ đạo xét
cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy những tiềm năng của con
người trong hệ thống quản lý, thực hiện tốt mối liên hệ giữa con người với
con người và quá trình đó giải quyết những mối quan hệ đó để họ tự nguyện,

tự giác và hăng hái phấn đấu trong công việc.
Chức năng kiểm tra: Chức năng kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện các
mục tiêu đề ra, điều cần lưu ý là khi kiểm tra phải theo chuẩn. Chuẩn phải xuất
phát từ mục tiêu, là đòi hỏi bắt buộc đối với mọi thành viên của tổ chức.
Tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin đầy
đủ, kịp thời, cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch; thông
tin cũng cần cho các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, là chất liệu tạo quan hệ
giữa các bộ phận trong tổ chức, thông tin truyền tải mệnh lệnh chỉ đạo (thông
tin xuôi) và phản hồi (thông tin ngược) diễn tiến hoạt động của tổ chức và


23
thông tin từ kết quả hoạt động của tổ chức giúp cho người quản lý xem xét
mức độ đạt mục tiêu của toàn tổ chức.
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý ở các cấp chính là bộ máy quản
lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở. Còn đối tượng quản lý chính là nguồn
nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và hoạt động thực hiện chức năng của giáo
dục đào tạo. Hiểu một cách cụ thể:
Quản lý là một hệ thống tác động có kế hoạch, có ý tưởng, có mục đích
của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý.
Quản lý giáo dục là sự tác động lên tập thể giáo viên, học sinh và các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng phối hợp, tác
động tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường để đạt mục đích đã định.
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp quy luật của chủ
thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng.
Quản lý giáo dục có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Quản lý giáo dục nói chung, quản lý các cơ sở GD nói riêng phải chú ý đến
sự khác biệt giữa đặc điểm lao động sư phạm so với lao động xã hội nói chung.

Trong quản lý giáo dục, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và
quản lý sự nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không
thể tách rời, tạo thành quản lý giáo dục thống nhất.
Quản lý giáo dục đòi hỏi những yều cầu cao về tính toàn diện, tính
thống nhất, tính liên tục, tính kế thừa, tính phát triển.
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng.Quản lý giáo dục phải quán triệt
quan điểm quần chúng.
* Quản lý liên kết đào tạo
Là sự phối hợp quản lý giữa đơn vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp
đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đào tạo.


24
Quản lý liên kết đào tạo chính là quản lý các hoạt động sau:
Quản lý lý hoạt động giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác
theo mục tiêu chương trình giáo dục trên cơ sở quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân
viên và người học.
Quản lý môi trường sư phạm trong nhà trường và xây dựng nhà trường
thành hệ thống mở nhằm xã hội hóa và công khai hóa các hoạt động giáo dục,
đào tạo của nhà trường hướng vào mục tiêu đào tạo.
Nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia vào quá trình
liên kết, cải tiến nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm cụ thể
của thời điểm liên kết.
Đánh giá kết quả hoạt động giáo dục, đào tạo, tìm ra biện pháp tối ưu
để từng bước nâng cao kết quả đào tạo.
Quản lý cơ sở vật chất, và các nguồn lực tạo nên sự vận hành và phát
triển hoạt động liên kết đào tạo theo quy định.
Quản lý liên kết đào tạo là việc phối hợp giũa hai đơn vị chủ trì đào tạo
và phối hợp đào tạo cùng nhau quản lý. Với vai trò, nhiệm vụ là đơn vị chủ trì
đào tạo sẽ quản lý, xây dựng chỉ tiêu, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình

đào tạo phù hợp với năng lực đào tạo của đơn vị mình, các điều kiện đảm bảo
thực hiện chương trình, đánh giá công nhận kết quả và cấp bằng tốt nghiệp
cho người học; thực hiện các quy định hiện hành của Nhà nước về thu học
phí, lệ phí; chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo của các lớp liên kết; chịu
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn
đặt lớp về tất cả các hoạt động liên kết đào tạo. Cụ thể:
Một là: Quản lý, tổ chức tuyển sinh: Thông báo công khai và đầy đủ
các thông tin về kỳ tuyển sinh trên các phương tiện thông tin đại chúng về: số
lượng, đối tượng, vùng tuyển, hình thức, lệ phí, địa điểm, lịch và những thông
tin có liên quan như: ngành nghề, thời gian, hình thức, học phí, tiền mua tài


25
liệu và các phí bảo hiểm. Tổ chức tuyển sinh theo các quy định hiện hành về
công tác tuyển sinh đối với từng trình độ đào tạo.
Hai là: Quản lý, tổ chức đào tạo, gồm: Xây dựng, quản lý kế hoạch,
chương trình phù hợp với mục tiêu đào tạo; đáp ứng các điều kiện đảm bảo chất
lượng đào tạo (đội ngũ giảng viên hoặc giáo viên, cán bộ quản lý, giáo trình, tài
liệu, các thiết bị phục vụ dạy học); lập kế hoạch thực hiện, phân công giảng dạy,
đánh giá, công nhận kết quả học tập và rèn luyện, cấp phát văn bằng, chứng chỉ.
Ba là: Quản lý người học trong suốt quá trình đào tạo theo các quy định
hiện hành, đảm bảo quyền lợi học tập chính đáng cho người học.
Với vai trò, nhiệm vụ là đơn vị phối hợp đào tạo sẽ có vai trò nhiệm vụ sau:
Một là: Phụ trách quản lý điều kiện về cơ sở vật chất: phòng học, máy móc,
thiết bị, học liệu, cơ sở thực hành; việc ăn, nghỉ cho người dạy và người học;
Hai là: Quản lý, theo dõi, giám sát việc thực hiện kế hoạch đào tạo, nền
nếp dạy-học đối với các lớp liên kết đặt tại cơ sở mình và phản ảnh kịp thời
với đơn vị chủ trì đào tạo những biểu hiện sai phạm để kịp thời chấn chỉnh;
Ba là: Quản lý người học theo quy chế hiện hành, đảm bảo y tế, an
ninh, vệ sinh và môi trường sư phạm

Quá trình quản lý liên kết đào tạo có sự kết hợp giữa đơn vị chủ trì đào tạo
là các trường tổ chức quá trình đào tạo bao gồm: Tuyển sinh, thực hiện chương
trình,đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, công nhận kết quả và cấp bằng tốt
nghiệp. Và đơn vị phối hợp đào tạo là chủ thể trực tiếp tham gia liên kết đào tạo
với vai trò hợp tác, hỗ trợ các điều kiện thực hiện liên kết đào tạo.
1.2. Đặc điểm, nhiệm vụ quản lý liên kết đào tạo của trường Cao
đẳng Sư phạm Hà Giang
1.2.1. Đặc điểm liên kết đào tạo của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Giang
Nhà trường thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội; huy động
tiềm năng của các trường nhằm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho địa
phương.


26
Tạo cơ hội học tập cho nhiều người trên cơ sở đảm bảo chất lượng, hiệu
quả giáo dục, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng và xã hội hoá giáo dục.
Khoảng cách địa lý giũa nhà trường, các đơn vị liên kết, nơi học viên sinh
sống và làm việc xa, giao thông khó khăn, học viên đa dạng về dân tộc, thời gian
học chủ yếu vào dịp hè, số lượng sinh viên/ lóp đông, giáo trình thư viện thiếu;
học tập trung theo định kỳ: 2 tháng/kỳ; 2 kỳ /năm.
Kế hoạch phụ thuộc hoàn toàn vào đơn vị chủ trì đào tạo, là trường sư
phạm nhưng có liên kết đào tạo các ngành kỹ thuật, kinh tế, tài chính; một số
ngành trong một lớp học viên không đồng đều về trình độ ( THPT, TCCN, CĐ...)
Học viên đi học phần lớn là do cơ quan đơn vị xét, cử đi học không xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn cá nhân. Một số ngành liên kết, trường liên kết do các sở,
ban ngành xây dựng đề án, đơn vị cấp trên chỉ định, giao nhiệm vụ liên kết đào
tạo, tuyển sinh đầu vào thiếu sự cạnh tranh, chọn lựa.
Trong liên kết đào tạo nhà trường thực hiện đúng các điều kiện thực
hiện liên kết đào tạo (trích điều 7, chương 1 - quyết định về liên kết đào tạo
ngày 23/08/2008 của Bộ trưởng bộ GD - ĐT)

Đối với đơn vị chủ trì đào tạo: Có văn bản cho phép mở ngành đào tạo
đối với ngành dự định liên kết; Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt chỉ tiêu đào tạo; Đảm bảo yêu cầu về đội ngũ giảng viên (giáo viên),
cán bộ quản lý, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy theo quy định, phù hợp với
mục tiêu đào tạo của khóa học
Đối với đơn vị phối hợp đào tạo: Xác định nhu cầu đào tạo về: Số lượng,
ngành nghề và trình độ đào tạo; Xác định được địa điểm đặt lớp: Đối với các
khóa liên kết đào tạo cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học, địa điểm đặt lớp
phải là các trường, các Trung tâm GDTX cấp tỉnh, huyện. Đối với các khóa
liên kết đào tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng địa
điểm đặt phải là các trường, các Trung tâm GDTX cấp huyện. Đảm bảo yêu


27
cầu về cơ sở vật chất, thiết bị cần thiết để phục vụ dạy học, thực hành, thực
tập, đảm bảo môi trường sư phạm, có đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với
mục tiêu đào tạo của khóa học.
* Vai trò liên kết đào tạo của nhà trường với địa phương
Liên kết đào tạo mở ra cơ hội lớn cho một bộ phận cán bộ, công nhân,
viên chức, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa, người bận làm việc, không có
thời gian có cơ hội được học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, kiến thức
khoa học, kỹ thuật ngay tại tỉnh
Liên kết đào tạo thúc đẩy công cuộc xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện
cho mọi người, mọi nơi cùng đóng góp sức người, sức của, trí tuệ tham gia
xây dựng sự nghiệp giáo dục chung của toàn tỉnh.
Liên kết đào tạo góp phần nâng cao dân trí, đặc biệt với vùng miền xa
xôi, rút ngắn khoảng cách xã hội, tạo ra mặt bằng dân trí, tạo nên nguồn lực
cán bộ khoa học tại chỗ phục vụ cho địa phương, cho các ngành, có thể đáp
ứng nhu cầu lao động trong giai doạn kinh tế thị trường, góp phần thực hiện
mục tiêu công bằng và xã hội hoá giáo dục.

Rèn luyện cho người học có kỹ năng làm việc độc lập với tài liệu, kỹ
năng phân tích, tổng hợp vấn đề, kỹ năng làm việc theo nhóm thông qua trao
đổi, thảo luận - kỹ năng hợp tác ... Đây cũng là những kỹ năng sống quan
trọng giúp người học vừa tự tin vào năng lực của bản thân, vừa tăng khả năng
hoà nhập với cộng đồng.
Bất cứ mối liên kết đào tạo nào cũng cần thiết phải tổ chức bộ máy
quản lý chặt chẽ đáp ứng được yêu cầu của đào tạo. Vì vậy liên kết đào tạo
phải đáp ứng được các nội dung cơ bản. Việc phối hợp phải đồng bộ, thống
nhất, bình đẳng, trên cơ sở hợp đồng liên kết đào tạo. Công tác đào tạo là một
quá trình, diễn ra trong một quy trình và qua nhiều giai đoạn, vì vậy giữa đơn
vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo phải liên kết chặt chẽ, đồng bộ,
thống nhất, phân công trách nhiệm rõ ràng qua các khâu và được thể hiện


×