3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, là loại hình giáo dục đặc biệt đặt nền tảng cho sự phát triển nguồn nhân
lực và phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phổ cập giáo dục ở các bậc học tiếp
theo. Với quan điểm, chăm lo cho giáo dục mầm non là nhiệm vụ của các cấp,
các ngành, của mỗi gia đình và toàn xã hội, có thể khẳng định giáo dục mầm
non là cấp học cần XHH cao hơn các cấp học khác.
Cho đến nay, giáo dục mầm non đã và đang tồn tại đủ các quy mô
trường, lớp, nhóm với các loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục. Loại
hình trường tư thục đang trên đà phát triển ở các thành phố, thị xã và những
nơi có nền kinh tế phát triển; loại hình bán công đang dần được chuyển sang
loại hình trường công lập. Đặc biệt, với sự phát triển của kinh tế, các gia đình
hiện nay có điều kiện quan tâm đến giáo dục mầm non nhiều hơn, đây là
những điều kiện thuận lợi cơ bản để thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non.
Trong mỗi giai đoạn nhất định, đều phải có chính sách, mục tiêu, biện pháp và
cách thức tiến hành phù hợp, nhằm thỏa mãn các yêu cầu phát triển của xã
hội, mong muốn của gia đình và chính ước vọng của trẻ em. Nghị quyết Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa XI đã chỉ rõ: “Từng bước
chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5
tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo
dục” [8, tr.122 - 123].
Trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay, chính quy hoá các hình
thức và tổ chức giáo dục mầm non bằng con đường bao cấp là không thể thực
hiện được vì quá khả năng kinh tế. Mặt khác, nền kinh tế thị trường đang làm
tăng thêm áp lực cho các gia đình nghèo, hạn chế cơ hội đến trường của trẻ
em. Vì vậy, cần XHH giáo dục mầm non nhằm khai thác tối ưu tiềm năng của
xã hội, vận động tối đa sự tham gia của xã hội vào quản lý, phát triển và nâng
4
cao chất lượng giáo dục mầm non của địa phương. Tuy nhiên, xã hội hóa giáo
dục mầm non phải đặt dưới sự quản lý, lãnh đạo chặt chẽ của Đảng và chính
quyền địa phương các cấp, tránh tình trạng mở trường, lớp ồ ạt, thiếu quy
hoạch, chất lượng không đảm bảo, thương mại hóa.
Quán triệt tư tưởng XHH giáo dục mầm non được định hướng từ các
Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Quận Thanh Xuân, công tác XHH được tiến hành tích cực với nhiều
hình thức phong phú, đã huy động được nhiều các nguồn đầu tư cho giáo dục.
Do vậy, sự nghiệp giáo dục mầm non của Quận Thanh Xuân đã thu được
những thành tựu đáng tự hào về sự phát triển quy mô, số lượng và chất lượng.
Cụ thể, bậc học mầm non đã cơ bản thực hiện đa dạng hoá, hiện đại hóa các
loại hình trường lớp, gắn kết giáo dục nhà trường với cộng đồng dân cư để
huy động tối đa học sinh đến trường, lớp. Kết quả là 100% trẻ em trong độ
tuổi đều được đến trường; đội ngũ giáo viên có tỷ lệ đạt chuẩn cao, an tâm
công tác và yêu nghề; công tác chăm sóc, giáo dục trẻ đảm bảo đúng tiêu
chuẩn, chế độ theo quy định.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, việc thực hiện XHH
giáo dục mầm non ở quận Thanh Xuân vẫn còn gặp không ít khó khăn như: ở
một số địa phương, cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể, phụ huynh chưa
nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của công tác giáo dục mầm non, xem
giáo dục mầm non chỉ là trông giữ trẻ, trẻ ở nhà với gia đình được chăm sóc
tốt hơn; tỷ lệ học sinh đến trường ở một số địa bàn còn thấp; số lượng các
trường mầm non phân bổ không đều, ở các trường công lập tỷ lệ học sinh trên
một giáo viên quá đông, một số trường tư thục chất lượng còn thấp; tỷ lệ giáo
viên không đạt chuẩn, hợp đồng ngắn hạn vẫn còn nhiều, số giáo viên trẻ
chưa an tâm với nghề, làm nghề mang tính chất thời vụ. Những hạn chế trên
do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan như: do các đơn vị hành chính
trong địa bàn của Quận không tập trung, phân bố xen kẽ, có nhiều khu dân cư
mật độ cao, tốc độ đô thị hóa nhanh; đầu tư ngân sách hạn chế, cơ bản là chi
5
trả lương, ngân sách đầu tư cho cơ sở vật chất còn ít nên chưa huy động được
tối đa trẻ đến lớp; ở nhiều gia đình, cha mẹ phải lo toan kinh tế, ít quan tâm
chú ý đến giáo dục con cái. Đặc biệt, công tác quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ở một số của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp còn
những hạn chế, bất cập.
Vấn đề XHH giáo dục mầm non và quản lý XHH giáo dục mầm non đã
có nhiều công trình khoa học đề cập đến. Tuy nhiên, quản lý giáo dục hóa
giáo dục mần non quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội hiện nay chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể. Xuất phát từ những lý do
cơ bản trên, chúng tôi chọn: “Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận
văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về công tác xã hội hóa giáo dục nói chung, xã hội hóa giáo
dục mầm non nói riêng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Tác giả Phạm Minh Hạc trong tác phẩm “Một số vấn đề giáo dục Việt
Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI” đã khẳng định: “Sự nghiệp giáo dục
không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi người cùng làm
giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và địa phương cùng làm giáo dục”
[15, tr.29,71]. Đồng quan điểm đó, trong tác phẩm “Xã hội hoá công tác giáo
dục” , tác giả Phạm Tất Dong đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác này,
đặc biệt tác giả đã giải quyết triệt để nội hàm của khái niệm xã hội hóa giáo
dục, quan tâm đến vai trò của các lực lượng xã hội trong việc phát triển giáo
dục nói chung, giáo dục mầm non đang trong tình trạng bỏ ngỏ nói riêng.
Xã hội hóa giáo dục là chủ trương, chính sách mang tầm tư duy chiến
lược của Đảng và Nhà nước, là xu thế tất yếu khách quan của sự phát triển xã
hội. Vì vậy, tác giả Võ Tấn Quang khẳng định: “Xã hội hóa là con đường giải
6
quyết các mâu thuẫn trong giáo dục hiện nay, mở ra con đường dân chủ hóa
giáo dục, gắn với thực tiễn cuộc sống tăng cường nguồn lực cho giáo dục”
[30, tr.52]. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, các nghiên cứu về xã
hội hóa giáo dục ngày càng được tiến hành rộng rãi, trên nhiều lĩnh vực, các
tác giả Nguyễn Mậu Bành, Trần Kiểm, Thái Duy Tuyên, Lê Đức Phúc… có
nhiều công trình viết về công tác XHH giáo dục, coi xã hội hóa giáo dục là
biện pháp tạo động lực phát triển xã hội, nâng tầm tri thức, trí tuệ con người
Việt Nam. Các nghiên cứu đã đề cập hầu hết đến các vấn đề cơ bản của xã hội
hóa giáo dục, xây dựng hệ thống lý luận vững chắc cũng như đề xuất các biện
pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác xã hội hóa giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là bậc học thể
hiện tính xã hội hóa cao nhất, thể hiện sinh động nguyên tắc “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” nhằm huy động tối đa các nguồn lực của xã hội góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục mầm non ở các địa phương. Công tác xã hội
hóa giáo dục mầm non cũng được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều luận
văn, luận án như: Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Thúy Hiền với đề tài:
“Vấn đề xã hội hóa giáo dục mầm non với sự phát triển giáo dục”, đã làm rõ
mối quan hệ giữa xã hội hóa giáo dục mầm non với sự phát triển xã hội, đề
xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng xã hội hóa giáo dục mầm non;
Luận văn Thạc sĩ của Trần Hồng Diễm về: “Biện pháp tăng cường công tác xã
hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Ninh”, trên cơ sở lý
luận xã hội hóa giáo dục mầm non, thực trạng công tác xã hội hóa giáo dục
mầm non ở địa phương, tác giả đã xây dựng hệ thống biện pháp thúc đẩy
nhanh quá trình xã hội hóa. Trong đó, tác giả nhấn mạnh vai trò của công tác
quản lý, kêu gọi, điều hành xã hội hóa giáo dục mầm non của cơ quan quản lý
các cấp.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân về: “Một số biện
pháp nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trường mầm non
huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây” [37]. Với mong muốn nâng cao chất lượng,
7
năng lực quản lý trường mầm non, đây là nhân tố, giải pháp cơ bản hướng tới
thực hiện thành công sự nghiệp xã hội hóa giáo dục mầm non ở địa phương;
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phan Kim Quý với đề tài: “Một số biện pháp xã
hội hóa giáo dục trong việc nuôi dạy trẻ mầm non” [31], đã đi sâu vào các
biện pháp xã hội hóa công tác nuôi dạy trẻ từ 5 đến 6 tuổi. Tác giả coi trọng
việc phối hợp các lực lượng nhà trường mầm non, gia đình và khu phố trong
việc giáo dục cách ứng xử cho trẻ từ 5 đến 6 tháng tuổi, phát huy vai trò của
các nguồn lực tham gia nuôi dạy trẻ.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Cù Thị Thủy với đề tài: “Biện pháp tăng
cường thực hiện xã hội hóa công tác giáo dục mầm non Tỉnh Sơn La trong
giai đoạn hiện nay” [33];Tác giả Ngô Thị Minh Hà với đề tài: “Một số biện
pháp quản lý nguồn lực của hiệu trưởng trường mầm non bán công trên địa
bàn Hà Nội” [17]; Tác giả Nguyễn Thị Bích Liên với đề tài: “Biện pháp quản
lý chất lượng trường mầm non A theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể”
[25]; Tác giả Nguyễn Thị Bích Hạnh với đề tài: “Biện pháp quản lý công tác
xã hội hóa giáo dục mầm non Tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay”
(2006); Tác giả Lê Thị Diệu Thủy với đề tài: “Biện pháp quản lý công tác bồi
dưỡng giáo viên các trường mầm non thành phố Đà Nẵng đáp ứng chuẩn
nghề nghiệp” [34].
Các nghiên cứu đã xây dựng được hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn
về: xã hội hóa giáo dục mầm non; quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non; quản
lý, nâng cao chất lượng các nguồn lực như: hiệu trưởng, giáo viên mầm non;
thực trạng công tác quản lý, công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ở các tỉnh;
từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý, chất lượng các
nguồn lực quản lý cũng như đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng công
tác xã hội hóa giáo dục mầm non. Đây chính là các căn cứ khoa học cho tác
giả xây dựng hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên, công tác quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non, yếu tố quyết
định sự thành công của công tác xã hội hóa giáo dục mầm non ít được các
8
nghiên cứu đề cập đến hoặc được đề cập ở mức độ chung chung của các biện
pháp hoặc ở các địa phương có nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội. Việc
nghiên cứu quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở khu vực có tốc độ đô thị
hóa cao, kinh tế phát triển, có trình độ dân trí cao, thành phần dân cư phức tạp
như quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội thì chưa có công trình nào nghiên
cứu, đề cập một cách cụ thể và có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non, luận văn đề xuất biện pháp quản lý XHH giáo dục
mầm non quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, góp phần nâng cao chất lượng
quản lý xã hội hóa, phát triển giáo dục mầm non trên địa bàn Quận trong giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý xã hội hóa giáo dục Mầm non.
Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
quận Thanh Xuân, Hà Nội hiện nay, làm rõ kết quả đạt được, những hạn chế
và nguyên nhân.
Đề xuất các biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục ở quận Thanh Xuân,
Hà Nội trong thời gian tới.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý xã hội hóa giáo dục ở quận Thanh Xuân, Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân, Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu cụ thể công tác quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đi sâu vào các lĩnh vực: nhận thức về
9
XHH giáo dục mầm non; sự phối hợp và cộng đồng trách nhiệm; cơ chế chính
sách để phát triển mầm non trong giai đoạn hiện nay.
Các số liệu trong luận văn được thống kê từ năm 2009 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng, hiệu quả XHH giáo dục mầm non ở quận Thanh Xuân, Hà
Nội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phụ thuộc rất lớn vào hoạt động
quản lý. Nếu trong quản lý, các chủ thể thực hiện tốt các biện pháp như: Tăng
cường công tác tuyên truyền, vận động về công tác xã hội hóa giáo dục; Xây
dựng kế hoạch phát triển giáo dục mầm non phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương; Huy động tất cả lực lượng tham gia công tác xã hội
hóa giáo dục... thì chất lượng, hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục mầm non
ở quận Thanh Xuân sẽ được nâng lên.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng
sản Việt Nam về quản lý giáo dục đào tạo và phát triển nguồn lực con người.
Đặc biệt, luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm Hệ thống – Cấu trúc,
quan điểm Lịch sử - Lôgic, quan điểm thực tiễn để luận giải những vấn đề lý
luận, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu để tổng hợp, phân tích,
đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các vấn đề lý luận về quản lý
công tác xã hội hóa giáo dục mầm non, các văn bản, nghị quyết, sách và tài
liệu có liên quan đến quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non. Trên cơ sở đó xây
dựng, phát triển các nội dung của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Quan sát, tọa đàm, trao đổi về quản lý XHH giáo dục mầm non thông
10
qua các khâu các bước của quá trình quản lý. Tác giả đã tiến hành quan
sát các hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non và quản lý xã
hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội.
Sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi đối với các chủ thể quản
lý và các lực lượng xã hội và với giáo viên tham gia công tác XHH giáo dục
mầm non ở quận Thanh Xuân hiện nay. Số lượng số người được hỏi là
230 người: Cán bộ quản lý giáo dục mầm non 30 người, giáo
viên mầm non 120 người, các lực lượng xã hội 80 người.
Xin ý kiến các chuyên gia về quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
hiện nay.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã xây dựng được hệ thống cơ sở lý luận về quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non, trên cơ sở đó xác định được các khái niệm và nội
dung cơ bản về quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân.
Đã đánh giá, khái quát tương đối đầy đủ về thực trạng quản lý XHH
giáo dục mầm non quận Thanh Xuân, Hà Nội, những điểm đạt được, những
mặt còn hạn chế, những bất cập trong quản lý; đề xuất được các biện pháp
quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở cho các cấp quản lý tham
khảo để thực hiện XHH giáo dục mầm non ở quận Thanh Xuân, Hà Nội. Luận
văn có thể là đề tài tham khảo cho các hoạt động học tập, giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
8. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận
và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI HOÁ
GIÁO DỤC MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Xã hội hóa giáo dục
Thuật ngữ xã hội hóa được các nhà kinh tế học, xã hội học, giáo dục học
sử dụng nhiều vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhằm biểu đạt
những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của mình. Tuy cách diễn đạt về khái
niệm xã hội hóa của các nhà khoa học là khác nhau nhưng bản chất đều cho
thấy, xã hội hóa là quá trình động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia một
cách tích cực và chủ động vào một lĩnh vực xã hội nào đó, huy động hợp lý và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà nước và của nhân dân nhằm đạt
được các mục tiêu phát triển xã hội. Trong thực tiễn cách mạng, thuật ngữ
XHH được dùng để chỉ cách triển khai, thực hiện chủ trương của Đảng bằng
con đường giác ngộ, vận động và tổ chức sự tham gia tích cực, tự nguyện của mọi
lực lượng xã hội, của toàn dân vào sự nghiệp chung, đồng thời cũng tăng cường
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với mọi mặt của đời sống nhân dân.
Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, nằm trong kiến trúc thượng
tầng nhưng đồng thời là bộ phận của cơ sở hạ tầng. Khái niệm xã hội hóa giáo
dục được các nhà giáo dục học và chính trị học tiếp cận trên hai phương diện:
thứ nhất, khái niệm chỉ sự tăng cường chú ý, hưởng ứng, quan tâm của xã hội
đóng góp vật chất và tinh thần cho sự nghiệp giáo dục; thứ hai, khái niệm chỉ
sứ mệnh của ngành giáo dục, của nhà trường làm cho người học được thích
ứng nhanh với đời sống xã hội (XHH cá nhân).
Theo UNESCO, xã hội hóa giáo dục đồng nghĩa với thuật ngữ “xã hội
học tập”, thể hiện trên hai khía cạnh song hành, gồm: mọi tổ chức, mọi tập
thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập
cho cộng đồng và mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội
12
để có cơ hội học tập và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho bản thân.
Nói về vấn đề này, tác giả Phạm Minh Hạc cũng cho rằng: “Mọi thành
viên trong xã hội đều phải tham gia xây dựng giáo dục và được hưởng thụ giáo
dục” [13, tr. 85]. Với ý nghĩa đó, xã hội hóa giáo dục chính là: giáo dục cho
mọi người (Education for all) và tất cả cho giáo dục (All for Education). Điều
này có nghĩa: XHH giáo dục là quá trình giáo dục gia nhập và hòa nhập vào
cộng đồng, đồng thời xã hội tiếp nhận giáo dục như là một công việc chung mà
mọi cá nhân, đoàn thể, tổ chức, bộ máy đều có trách nhiệm tham gia.
Bản chất của XHH giáo dục là tổ chức xây dựng một nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách
của nhà nước, đưa giáo dục gắn với xã hội, với cộng đồng và giáo dục phục
vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng.
Nội dung XHH giáo dục bao gồm: huy động các lực lượng xã hội tham
gia đầu tư cho giáo dục; tham gia vào quá trình đa dạng hóa các loại hình
trường, lớp, hình thức học tập; tạo lập và đẩy mạnh phong trào học tập rộng
khắp trong xã hội; mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt tuổi tác nghề
nghiệp, giới tính, dân tộc, tôn giáo đều được học tập, học tập thường xuyên và
học tập suốt đời; huy động các lực lượng xã hội tham gia xây dựng, quản lý
môi trường giáo dục lành mạnh; tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội, làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức kinh tế, các doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội nhận thức và thực
hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giáo dục; tham gia đóng
góp, đổi mới cơ chế quản lý, điều hành giáo dục, tích cực chống lại các tiêu
cực trong ngành giáo dục đang diễn ra tương đối phổ biến hiện nay.
Là cuộc vận động lớn trong xã hội, phương pháp và hình thức XHH
giáo dục được thể hiện thông qua: sự tham gia đóng góp của toàn Đảng, toàn
dân, trong đó ngành giáo dục là nòng cốt, đa dạng hóa các nguồn đầu tư về
nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực cho giáo dục; phát triển đa dạng các loại hình
13
giáo dục chính quy và phi chính quy: Công lập, dân lập, tư thục. Mọi người
đều có trách nhiệm đối với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục vừa có quyền
lợi được thụ hưởng những thành quả do giáo dục mang lại. Mọi người đều
được học tập, học thường xuyên, học suốt đời, tiến tới một xã hội học tập.
Xã hội hóa giáo dục đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá
trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Xã hội hóa giáo dục đã huy động được sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, của xã hội vào việc tham gia công tác giáo dục. Đây là
điều kiện tiên quyết để phát triển toàn diện và hiệu quả sự nghiệp giáo dục thế
hệ trẻ nói riêng và nền giáo dục toàn dân nói chung.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: XHH giáo dục là sự huy
động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây
dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước để xây dựng một
xã hội học tập.
1.1.2. Xã hội hóa giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống Giáo dục Quốc
dân, thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ ba tháng tuổi đến
sáu tuổi. Giáo dục mầm non có vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo nền
móng ban đầu cho việc giáo dục lâu dài nhằm hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp một.
Nội dung giáo dục mầm non phải đảm bảo phù hợp với sự phát triển
tâm sinh lý trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng , chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ
em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu
mến, lễ phép với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý
anh, chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham
hiểu biết, thích đi học. Phương pháp giáo dục mầm non chủ yếu là thông qua
14
việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú
trọng nêu gương, động viên, khích lệ.
Chương trình giáo dục mầm non thể hiện mục tiêu giáo dục mầm non;
cụ thể hóa các yêu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ
tuổi; quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trể em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ.
Từ các khái niệm trên chúng tôi cho rằng: xã hội hóa giáo dục mầm non
là quá trình huy động toàn xã hội tham gia góp sức xây dựng, phát triển sự
nghiệp giáo dục mầm non dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước, đảm bảo
mọi trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường, được chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục một cách toàn diện.
Bản chất của XHH giáo dục mầm non là lôi cuốn mọi lực lượng xã hội
vào sự nghiệp phát triển giáo dục mầm non để thực hiện chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục cho trẻ trong độ tuổi. Huy động các tổ chức chính trị - xã
hội, các đoàn thể quần chúng, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các nhà máy,
xí nghiệp chung tay, góp sức xây dựng và phát triển giáo dục mầm non. Trong
điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay, nhiều trẻ em trong lứa tuổi mầm non
còn chưa được đến trường, đến lớp thì xã hội hóa giáo dục mầm non còn có ý
nghĩa giúp các bậc cha mẹ và những người thân của trẻ có kiến thức, thái độ
và kỹ năng đúng trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ tại gia đình.
Xã hội hóa giáo dục mầm non có một số đặc điểm cơ bản sau.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển về thể chất, tình cảm, trí
tuệ cho trẻ. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách nhiệm của các
cấp chính quyền, các tổ chức xã hội, của các gia đình đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Vì vậy, đa dạng hóa các hình thức giáo dục
mầm non, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ phải được sự quan tâm
thường xuyên của xã hội.
15
Giáo dục mầm non có nhiều chương trình, loại hình mang tính xã hội
cao như: các loại hình trường (công lập, bán công, dân lập, tư thục); các
nhóm, lớp mầm non tư thục, dân lập, nhóm trẻ gia đình. Các chương trình
chính quy thực hiện tại nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường mầm non; các
chương trình ở các nhà trẻ, mẫu giáo, lớp tư thục, trẻ ở nhóm gia đình. Huy
động các lực lượng xã hội cùng tham gia phát triển giáo dục mầm non để tăng
cường sự quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục. Đây là điều kiện thuận lợi
đảm bảo XHH giáo dục mầm non thành công.
Giáo dục mầm non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng lại là
cấp học không bắt buộc. Cho nên, sự tồn tại và phát triển phụ thuộc nhiều vào
sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và nhận thức của
nhân dân. Đây là một khó khăn khá phổ biến trong thực hiện XHH giáo dục
mần non hiện nay, đặc biệt ở các vùng kinh tế khó khăn, các vùng sâu, vùng xa.
XHH giáo dục mầm non được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau.
Một là, cộng đồng hoá trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện
XHH giáo dục mầm non. Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc vai
trò, vị trí của giáo dục mầm non đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách
con người Việt Nam, tạo tiền đề vững chắc cho giáo dục đào tạo nguồn nhân
lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tạo sự đồng
thuận về nhận thức, tư tưởng và hành động của cộng đồng dân cư, các tổ chức
chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, các gia đình đối với sự nghiệp giáo
dục mầm non.
Hai là, đa dạng hoá các loại hình giáo dục mầm non. Xây dựng hệ
thống trường, lớp và đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non, thực hiện
bình đẳng trong giáo dục. Tiếp tục duy trì ổn định hệ thống các trường, lớp
nhà trẻ, mẫu giáo chính quy, phát triển và mở rộng các loại hình giáo dục
mầm non không chính quy, các trường dân lập, tư thục tùy theo điều kiện của
từng địa phương nhưng vẫn đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu, nội dung, chương
trình giáo dục mầm non theo quy định của Bộ giáo dục, đảm bảo cho trẻ được
nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt nhất.
16
Ba là, đa phương hoá thu hút các nguồn lực cho giáo dục mầm non. Nhà
nước – nhân dân, trung ương - địa phương, ngành giáo dục – các ngành hữu
quan, trong nước – ngoài nước. Kêu gọi, thu hút đầu tư các nguồn lực cho giáo
dục mầm non mang nhiều ý nghĩa, nó không chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân
đạo sâu sắc mà còn là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác xã hội
hóa giáo dục mầm non, nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục
trẻ. Đa phương hóa thu hút các nguồn lực tập trung ở các nội dung cơ bản như:
Huy động nguồn nhân lực: Làm cho lực lượng lao động xã hội và cá
nhân trong cộng đồng mang sức lực và tài năng của mình tham gia vào mọi
hoạt động giáo dục mầm non, từ việc tích cực tạo điều kiện cho trẻ đến lớp,
đóng góp xây dựng trường sở, làm đồ chơi, sưu tầm tranh ảnh cho nhà trường
đến việc tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào xây dựng nội dung, chương
trình, biên soạn giáo trình, tài liệu, phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ đến các gia
đình, tham gia các hoạt động phối hợp gia đình, nhà trường, xã hội, tạo không
khí và sự đoàn kết gắn bó trong cộng đồng.
Huy động vật lực: Nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho trường, lớp
mầm non như: tạo điều kiện về địa điểm và đất đai cho việc xây trường, mở
lớp, sân chơi cho giáo dục mầm non; đóng góp ngày công, lao động công ích
cho hoạt động xây dựng, sửa chữa trường, lớp; thiết kế, đóng góp, hỗ trợ các
thiết bị, đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho dạy học và vui chơi của trẻ.
Huy động nguồn tài chính: bên cạnh việc quản lý chặt chẽ và sử dụng có
hiệu quả các khoản kinh phí đầu tư hàng năm từ ngân sách nhà nước, nguồn
viện trợ của các tổ chức quốc tế, vốn vay ngân hàng, các khoản thu từ học sinh.
Mặt khác, thực hiện chủ trương “nhà nước và nhân dân cùng làm” để phát triển
các loại hình giáo dục mầm non thông qua: kêu gọi các tổ chức, đoàn thể, gia
đình và cá nhân tham gia đóng góp trên tinh thần tự giác, tự nguyện
Bốn là, thể chế hoá chủ trương xã hội hóa giáo dục thành các quy định,
chế tài đối với nghĩa vụ, trách nhiệm của các lực lượng xã hội đối với việc tham
gia vào giáo dục mầm non. Việc xây dựng hành lang pháp lý đảm bảo cho phối
17
hợp thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non giữa các lực lượng xã hội có kết quả
cao là một trong những yếu quan trọng cho công tác xã hội hóa giáo dục mầm
non. Thể chế hóa các chủ trương XHH giáo dục mầm non thành các quy định,
chế tài, nghĩa vụ, trách nhiệm nhằm phát huy tỉnh chủ thể của họ đồng thời tạo
sự ràng buộc, trách nhiệm và sự phối hợp thống nhất, lâu dài, nghiêm túc và
triệt để trong xây dựng và phát triển sự nghiệp xã hội hóa giáo dục mầm non.
1.1.3. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân, Hà Nội
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong
các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người đã nhận thức
được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công to
lớn. Quản lý là một khái niệm rộng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó,
khái niệm quản lý khi được nêu ra phải luôn gắn với các loại hình quản lý cụ
thể. Trong mỗi cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những
khái niệm khác nhau:
Nhấn mạnh về vai trò và chức năng của quản lý, Tác giả Nguyễn Quốc Chí
và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ
chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [3, tr.9]. Tác giả Trần Khánh Đức cho rằng: “Quản lý
là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử dụng các
nguồn nhân lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng
người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [12, tr.328].
Theo chúng tôi thì: Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý một cách gián tiếp hoặc trực tiếp nhằm đạt được mục đích.
Nói cách khác, quản lý là thực hiện những công việc của cấp trên có tác dụng
định hướng, điều tiết, phối hợp với các hoạt động của cấp dưới, với những
người dưới quyền. Biểu hiện cụ thể qua việc lập kế hoạch hoạt động, đảm bảo
tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm soát. Hướng được sự chú ý của con người
vào một hoạt động nào đó, điều tiết được nguồn nhân lực, phối hợp được các
hoạt động bộ phận. Trong quản lý, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý có
18
mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau nhằm đạt được mục tiêu của tổ
chức. Khi mục tiêu của tổ chức thay đổi sẽ tác động đến đối tượng quản lý
thông qua chủ thể quản lý.
Quản lý giáo dục là một bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã
hội. Với cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm
khác nhau. Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quản lý giáo dục theo nghĩa
tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc
đẩy công tác GD & ĐT theo yêu cầu phát triển của xã hội” [2]. Tác giả Trần
Kiểm khẳng định: Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự
giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ
thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường [21].
Tuy tiếp cận vấn đề ở các khía cạnh khác nhau, song các khái niệm đều
chỉ ra bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động có ý thức của chủ
thể quản lý tới khách thể quản lý và các thành tố tham gia vào quá trình hoạt
động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục. Như vậy, quản
lý giáo dục thực chất là quản lý có hiệu quả chất lượng giáo dục (bao gồm dạy
học và giáo dục theo nghĩa hẹp) được thực hiện thông qua các tác động có
mục đích, có kế hoạch, qua các chức năng tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra đánh
giá để đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, tự chủ, biết sống, phấn đấu vì
hạnh phúc của bản thân và xã hội.
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là một bộ phận của quản lý giáo
dục, quản lý xã hội. Xuất phát từ tính thống nhất của mục tiêu giáo dục mầm
non, công tác quản lý giáo dục mầm non cũng có tính thống nhất, thể hiện ở
kế hoạch chỉ đạo, thống nhất về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức
giáo dục, sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội với các trường mầm
non ở địa phương. Trong nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập, mở cửa giao
lưu với quốc tế thì giáo dục mầm non đang được xã hội hóa mạnh mẽ. Sự đa
19
dạng các loại hình trường, lớp, sự phát triển không ngừng về quy mô, cơ cấu
các trường mầm non đang đặt ra vấn đề cấp thiết cho công tác quản lý.
Từ các khái niệm trên và phân tích ở trên, có thể hiểu quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non, quận Thanh Xuân như sau:
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các lực lượng xã hội nhằm huy
động các nguồn lực tích cực tham gia vào các hoạt động nuôi dưỡng, chăm
sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn Quận, đảm bảo mọi trẻ em trong độ tuổi
mầm non đều được đến trường.
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non thực chất là quản lý sự phối hợp
các lực lượng xã hội tham gia các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục
trẻ em trên địa bàn dân cư. Quản lý nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và sự
đóng góp của nhân dân trong sự nghiệp xã hội hóa giáo dục mầm non. Quản lý
công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong nhà trường và các hoạt động
ngoài xã hội, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Chủ thể quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh Xuân là các
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức đoàn thể, hiệu trưởng trường mầm non, giáo
viên mầm non, các gia đình đặt dưới sự quản lý trực tiếp thường xuyên của
cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong địa bàn Quận.
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non hướng tới đạt được các mục tiêu
cơ bản sau. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non thông qua các phương
pháp và hình thức như: Hình thành thể chế XHH giáo dục mầm non; xây
dựng các văn bản, các chế định pháp luật, tạo hành lang pháp lý và cơ sở pháp
lý để quản lý XHH giáo dục mầm non; tổ chức, chỉ đạo thực hiện XHH giáo
dục mầm non. Thông qua tuyên truyền, cổ động, khuyến khích mọi người dân
tham gia đóng góp nhân lực, vật lực, tài chính, hoặc trực tiếp tham gia vào
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ; giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc triển
khai và thực hiện XHH giáo dục. Xây dựng kế hoạch quản lý, thực hiện các
khâu, các bước trong quản lý, chú ý khâu kiểm tra, đôn đốc, quản lý các
nguồn hỗ trợ XHH giáo dục mầm non và sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ này.
20
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non nhằm phát triển và góp phần
nâng cao chất lượng sự nghiệp giáo dục mầm non ở Quận. Mọi hoạt động
quản lý trong nhà trường đều hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục mầm
non, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội hướng tới nâng cao chất lượng giáo
dục mầm non. Thông qua công tác quản lý, nhà quản lý đưa chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục mầm non, XHH giáo dục mầm non
vào cộng đồng dân cư, huy động tối đa các nguồn lực vào chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Quản lý nhằm phát triển giáo dục
mầm non về quy mô, cơ cấu, chất lượng và số lượng các trường, lớp mầm
non, đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội trên địa bàn Quận.
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non hướng tới nâng cao nhận thức,
thái độ và kỹ năng nuôi dạy trẻ cho nhân dân trên địa bàn Quận. Công tác
quản lý, chỉ đạo hoạt động XHH ngoài việc nâng cao chất lượng giáo dục
mầm non còn hướng tới phổ cập kiến thức về nuôi dạy trẻ một cách khoa học
cho các gia đình và cộng đồng dân cư. Để giáo dục trẻ thành công, ngoài nhà
trường mầm non cần có sự kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa gia đình, nhà
trường và xã hội, tạo thành môi trường sư phạm bền vững. Cùng với sự phát
triển của xã hội, nhận thức về nuôi dạy trẻ hiện nay của các gia đình và cộng
đồng dân cư đôi lúc còn chưa phù hợp, chưa có hệ thống. Tổ chức các hoạt
động tuyên truyền, vận động nhân dân nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ đúng cách,
khoa học đang là con đường cơ bản để tạo sự đồng thuận trong xã hội, nhằm
thực hiện có hiệu quả công tác XHH giáo dục mầm non.
Quản lý XHH giáo dục mầm non góp phần vào đổi mới căn bản toàn
diện và chuẩn hóa, hiện đại hóa công tác giáo dục mầm non trên địa bàn
Quận. Đổi mới giáo dục cần phải đổi mới cả tư duy và hành động, trong đó
phải đổi mới từ cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, đó là giáo
dục mầm non. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non hướng tới giáo dục các
phẩm chất đạo đức căn bản của con người Việt Nam, giáo dục kỹ năng sống,
tổ chức các hình thức học tập vui chơi phù hợp với trẻ. Xây dựng ở trẻ nhận
21
thức, thái độ và kỹ năng của con người mới, con người xã hội chủ nghĩa, con
người của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Khắc phục được những yếu kém
về nhận thức và tư duy trong giáo dục hiện nay. Xây dựng và phát triển một thế
hệ trẻ năng động, sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội. Trong xu
thế hội nhập và phát triển, quản lý XHH giáo dục mầm non hướng tới xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn của nhà trường mầm non, đảm bảo tính cơ bản, hệ thống,
khoa học, hiện đại, đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ của
các gia đình và cộng đồng dân cư trên địa bàn quận Thanh Xuân.
Quản lý XHH giáo dục mầm non nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hóa
giáo dục, phát huy tinh thần trách nhiệm của cộng đồng dân cư với công tác
giáo dục mầm non quận Thanh Xuân. Phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục mầm non không phải là trách nhiệm của riêng ai, mặt khác giáo dục mầm
non xuất phát từ nhu cầu của chính cộng đồng dân cư. Quản lý XHH giáo dục
mầm non hướng tới thúc đẩy quá trình dân chủ hóa giáo dục, thực hiện
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”, nhà nước với vai trò là chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điền kiện
thuận lợi về pháp lý cho công tác XHH giáo dục mầm non. Quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non còn hướng tới phòng chống nạn bạo hành, xâm hại trẻ
em, các tệ nạn xã hội đe dạo trẻ em, giúp các em được sống trong môi trường
an toàn, có cơ hội phát triển toàn diện. Đảm bảo trẻ em được hưởng những
quyền lợi theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.
1.2. Nội dung quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non quận Thanh
Xuân, Hà Nội
1.2.1. Quản lý việc giáo dục nâng cao nhận thức của các lực lượng
xã hội trong địa bàn Quận về việc thực hiện xã hội hóa giáo dục mầm non
Trước tiên, phải đổi mới nhận thức về sứ mạng của giáo dục mầm non,
coi giáo dục mầm non là nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Trong 3
năm đầu đời nếu trẻ được sống trong môi trường chăm sóc tốt, giáo dục sớm,
22
khoa học, đa dạng sẽ giúp trẻ đạt được những tiềm năng trí lực tối đa cho cả
cuộc đời. Mặt khác, XHH giáo dục mầm non góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển nhân cách và
chuẩn bị tốt các điều kiện cho trẻ vào giáo dục tiểu học. Quản lý nâng cao
nhận thức của các lực lượng xã hội trên địa bàn Quận trong việc thực hiện
XHH giáo dục mầm non thông qua các biện pháp cụ thể như: tuyên truyền,
phổ biến các văn bản của Đảng, Nhà nước, của ngành giáo dục về xã hội hóa
giáo dục mầm non; qua tập huấn, hội nghị, hội thảo, toạ đàm, tư vấn, xây
dựng góc tuyên truyền, biên soạn tài liệu,… Mục đích giúp cho các lực lượng
trong xã hội nắm được, hiểu và vận dụng vào phát triển giáo dục mầm non,
thấy được ý nghĩa của XHH giáo dục mầm non và trách nhiệm của bản thân
khi tham gia XHH giáo dục mầm non.
1.2.2. Quản lý xã hội hóa trong quy hoạch mạng lưới giáo dục mầm
non trong địa bàn quận
Việc quy hoạch mạng lưới giáo dục mầm non trên địa bàn quận Thanh
Xuân là đòi hỏi khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng theo xu
hướng gửi con em được thuận lợi nhất và gửi vào các trường mầm non chất
lượng cao. Để quy hoạch tốt mạng lưới giáo dục mầm non trên địa bàn Quận
cần thực hiện tốt công tác XHH giáo dục. Do vậy, đây cũng là một nội dung
quản lý XHH giáo dục mầm non trên địa bàn quận Thanh Xuân.
Quản lý xã hội hóa mạng lưới giáo dục mầm non là quản lý sự tham gia
rộng rãi trong việc xây dựng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non
sao cho thích hợp với từng địa bàn dân cư, tạo điều kiện để mọi gia đình đều
có nơi để gửi con em mình một cách thuận lợi nhất. Đồng thời với quản lý
xây dựng quy hoạch là quản lý việc huy động các nguồn lực của xã hội trong
thực hiện quy hoạch đó. Việc lấy ý kiến rộng rãi và huy động các nguồn lực
của cộng đồng xã hội trong quy hoạch giáo dục mầm non sẽ tạo ra được các
cơ sở giáo dục mầm non chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của nhân
dân, nâng cấp các cụm lớp mầm non không đủ điều kiện, khuyến khích phát
23
triển các mô hình mầm non ngoài công lập nhưng vẫn đảm bảo tính chủ đạo
của Nhà nước trong quản lý giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia ở tất cả các loại hình.
1.2.3. Quản lý phát huy tác dụng của trường mầm non trong địa bàn
Quận vào đời sống cộng đồng
Một trong những nội dung cơ bản của XHH giáo dục mầm non là phải
phát huy hiệu quả các trường mầm non đang vận hành trong địa bàn. Làm cho
mọi người dân thấy: trường mầm non không chỉ là nơi nuôi dạy trẻ chăm
ngoan, khỏe mạnh mà còn là môi trường văn hóa, văn minh, thực sự là ngôi
nhà thứ hai của trẻ; trường mầm non là địa chỉ đỏ để các bậc phụ huynh có thể
yên tâm gửi gắm con trẻ. Ngoài ra, thông qua kết hợp với các tổ chức, chính
quyền địa phương, nhà trường mầm non phải làm tốt công tác tuyên truyền,
vận động trẻ đến trường; làm tốt công tác quảng bá, cam kết chất lượng và sản
phẩm giáo dục của mình; công khai kế hoạch và chương trình hành động
“Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”, “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui”; hiện đại hóa cơ sở vật chất, đảm bảo tính an toàn, thẩm mỹ, công
khai; thường xuyên tổ chức các hoạt động giữa nhà trường và khu dân cư,
thực hiện nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ; phổ biến kiến thức nuôi
dạy con cho các bậc cha mẹ; xây dựng hệ thống trường điểm, trường chuẩn
chất lượng cao, tạo mối quan hệ tốt giữa nhà trường với gia đình và cộng
đồng xã hội trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
1.2.4. Quản lý huy động tiềm năng của cộng đồng hỗ trợ cho quá
trình xã hội hóa giáo dục mầm non
Huy động tiềm năng của cộng đồng là nội dung quan trọng, để hiện
thực được điều đó, ủy Đảng và chính quyền các cấp phải có sự đồng thuận
trong xây dựng chủ trương, lôi kéo, kêu gọi các lực lượng trong xã hội tham
gia đầu tư vào xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, chăm sóc, giáo dục trẻ
em. Mặt khác, bản thân các trường mầm non với vai trò là chủ thể phải tranh
thủ sự ủng hộ của chính quyền, kêu gọi sự đầu tư, tìm các nguồn đầu tư để
24
phát triển cơ sở giáo dục của mình; biết tranh thủ kinh nghiệm và trí tuệ của
các tầng lớp xã hội xây dựng hệ thống nội dung, chương trình, phương pháp
nuôi dạy trẻ phù hợp, đáp ứng yêu cầu của người dân trên địa bàn Quận. Huy
động và tổ chức các lực lượng xã hội tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình chăm sóc, giáo dục trẻ như: tham gia xây dựng kế hoạch phát triển giáo
dục mầm non ở địa phương phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
tại địa bàn sinh sống; tham gia vào việc tổ chức hoạt động thăm quan, vui
chơi, tìm hiểu môi trường sống của trẻ theo kế hoạch của nhà trường; tham
gia sưu tầm tài liệu, sách vở, tranh ảnh hoặc vẽ tranh ảnh phục vụ cho từng
chủ đề học tập và vui chơi của trẻ; tham gia các hội thi có sự phối hợp giữa
giáo viên, trẻ em và gia đình.
Huy động tiềm năng của cộng đồng hỗ đầu tư về các nguồn nhân lực,
vật lực và tài lực; phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn ngân sách nhà nước và
tiềm năng xã hội; mở rộng hệ thống trường, lớp, đa dạng hóa các loại hình
giáo dục mầm non; mở rộng khả năng đóng góp của mọi người cho giáo dục
mầm non; tổ chức các hoạt động, phong trào để tạo động lực trong việc huy
động tiềm năng xã hội để phát triển giáo dục mầm non; phát huy truyền thống
họ tộc, lễ hội và cá nhân; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục mầm non.
1.2.5. Quản lý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nuôi dạy trẻ cho các lực
lượng giáo viên và bậc cha, mẹ
Được trang bị đầy đủ kiến thức là điều kiện cần thiết để các giáo viên
và các bậc cha mẹ thực hiện tốt nhất công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ ở nhà trường và gia đình. Thực hiện tốt công việc này, nhà trường mầm
non không chỉ góp phần giúp cộng đồng khắc phục những khó khăn tạm thời
do thiều trường, thiếu lớp mà còn là một hướng đi lâu dài để đáp ứng yêu cầu
nôi dạy một bộ phận lớn trẻ em chưa đến lớp và trẻ em gặp những điều kiện
khó khăn. Do vậy, quản lý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giáo dục, chăm sóc,
nuôi dạy trẻ là một nội dung quan trong trong quản lý XHH giáo dục mầm
non ở quận Thanh Xuân.
25
Quản lý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nuôi dạy trẻ cho các lực lượng
trực tiếp chăm sóc trẻ mầm non bao gồm các nội dung như: Quản lý việc xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng; quản lý xây dựng chương trình; nội dung bồi
dưỡng; quản lý tổ chức thực hiện hoạt động bồi dưỡng, trong đó đặc biệt chú
ý quản lý việc tổ chức thực hiện các phương pháp, hình thức bồi dưỡng.
Quản lý bồi dưỡng kiến thức kỹ năng nuôi dạy trẻ cho các giáo viên và
các bậc cha mẹ, nhà trường mầm non cần chủ động phối hợp với các ngành y
tế, văn hóa thông tin và các ngành có liên quan để tao ra những tác động tổng
hợp đến nhận thức của mọi người. Trong quá trình phối hợp, ngoài những
hình thức mang tính truyền thống như tổ chức các khóa học tập, triển khai các
Nghị quyết, văn bản có liên quan đến giáo dục cần có những hình thức tuyên
truyền mạnh mẽ hơn, tích cực hơn như biên soạn các tài liệu ngắn gọn, các tờ
rơi phát cho cha mẹ học sinh, các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế, xã hội,
cung cấp nội dung tuyên truyền trên hệ thống loa thông tin, bảng tin, pano, áp
phích, góc tuyên truyền tại các trường mầm non, kết hợp hoạt động văn hóa,
văn nghệ với hoạt động truyền thông đại chúng để tuyên truyền phổ biến kiến
thức nuôi dạy trẻ rộng rãi trong nhân dân. Các chủ thể quản lý XHH giáo dục
mầm non cần thực hiện các hình thức và biện pháp đó để phát huy tốt hiệu
quả trong bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nuôi dạy trẻ cho các đối tượng.
1.2.6. Xây dựng và vận hành cơ chế quản lý, phối hợp trong quản lý
công tác XHH giáo dục mầm non
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý các trường mầm non cũng như
cơ chế chính sách thực hiện XHH giáo dục mầm non hiện nay đang được ủy
Đảng và chính quyền các cấp quan tâm hàng đầu nhằm đẩy nhanh quá trình
XHH và quản lý hiệu quả công tác XHH ở địa phương. Việc xây dựng hành
lang pháp lý đảm bảo cho công tác quản lý, phối hợp thực hiện XHH giáo dục
mầm non có kết quả cao là một trong những yếu tố hấp dẫn cho công tác
XHH giáo dục mầm non. Trong đó, sự phối hợp liên ngành để thực hiện mục
tiêu XHH giáo dục mầm non phải được thể chế hóa bằng các văn bản pháp
quy, đảm bảo sự phối hợp thống nhất, lâu dài, nghiêm túc và triệt để.
26
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
quận Thanh Xuân, Hà Nội hiện nay
1.3.1. Điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở địa bàn Quận
Bản chất XHH giáo dục mầm non là huy động nguồn lực từ nhân dân, các
lực lượng xã hội ở địa phương. Vì vậy, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở địa
phương chi phối sâu sắc tới phong trào và chất lượng hoạt động xã hội hóa. Nếu
địa phương có kinh tế phát triển, tình hình chính trị xã hội ổn định, không có các
tệ nạn xã hội, giầu truyền thống, đoàn kết, các bậc cha mẹ có điều kiện quan tâm
đến con cái thì đó là điều kiện lý tưởng để tiến hành XHH thành công. Sự phát
triển về điều kiện kinh tế phải gắn với sự đảm bảo an ninh xã hội, mối quan hệ
gắn bó giữa các cá nhân ở địa phương thì mới có thể tiến hành XHH giáo dục
hiệu quả. Ở các địa phương có kinh tế phát triển, tốc độ đô thị hóa cao, cá nhân
trong xã hội chỉ lo làm giầu, phó mặc nhiệm vụ giáo dục cho nhà trường và xã
hội, các tệ nạn xã hội diễn ra phổ biến thì công tác XHH sẽ không đi vào chiều
sâu, mang tính chất nửa vời. Quản lý XHH giáo dục mầm non phải tính tới sự
chi phối, tác động mạng mẽ của điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở địa phương,
đây chính là nội lực đảm bảo cho công tác XHH giáo dục diễn ra thành công.
1.3.2. Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công
tác xã hội hóa giáo dục mầm non
Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương là yếu tố trực tiếp tạo
sức mạnh cho công tác XHH giáo dục mầm non thành công. Kết quả xã hội
hóa giáo dục mầm non được thể hiện trong nhận thức, phương thức và hiệu quả
hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Nếu cấp ủy, chính quyền địa
phương nào có nhận thức đúng, quán triệt mục tiêu, phương châm tiến hành
XHH giáo dục triệt để, đội ngũ cán bộ quản lý năng động, sáng tạo, nhiệt tình
thì XHH giáo dục mầm non của địa phương đó phát triển mạnh. Thực tiễn hiện
nay cho thấy, mặc dù có chủ trương, chính sách chung về XHH giáo dục mầm
non nhưng giáo dục mầm non ở các địa phương khác nhau thì kết quả khác
nhau. Sự khác nhau đó do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân về nhận
27
thức, sự quyết tâm XHH giáo dục mầm non, nâng cao chất lượng chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em ở địa phương của chính quyền, địa phương các
cấp là nguyên nhân quan trọng nhất. Cấp ủy, chính quyền địa phương phải là
nòng cốt, tiên phong trong công tác XHH giáo dục mầm non, có nhiều hình
thức, biện pháp hiệu quả tạo sự đồng thuận, huy động được đông đảo nhân dân
trong địa bàn tham gia sự nghiệp XHH giáo dục mầm non ở địa phương.
1.3.3. Nhu cầu về chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng trẻ của nhân
dân ở địa phương
Quản lý XHH giáo dục mầm non có đạt được hiệu quả hay không và đạt
được ở mức độ nào còn phụ thuộc vào nhu cầu về chăm sóc, giáo dục và nuôi
dưỡng trẻ của nhân dân ở địa phương. Họ vừa là người có trách nhiệm đối với
công tác xã hội hóa nhưng cũng là người được hưởng thụ XHH. Thực tiễn quản
lý XHH giáo dục mầm non cho thấy, nhu cầu về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo
dục trẻ ở các gia đình, địa phương là không ngang bằng nhau. Ở những gia đình
và địa phương có điều kiện về kinh tế, nhu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục con cái của họ rất cao, với những yêu cầu phải đạt ở những chuẩn nhất định.
Ở các gia đình và địa phương khó khăn về kinh tế, nhu cầu về chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục trẻ ít hơn. Một số gia đình và địa phương vùng sâu, vùng xa
không có điều kiện hoặc ít có điều kiện quan tâm đến giáo dục mầm non, nhiều
địa phương hiện nay vẫn còn hiện tượng “trắng giáo dục mầm non”. Tuy nhiên,
nhu cầu, mong muốn về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ của nhân dân là rất
cao, ai cũng muốn con mình được hưởng thụ những điều kiện giáo dục tốt nhất.
Quản lý XHH giáo dục mầm non phải nắm được các nhu cầu đó, qua đó huy
động, xây dựng và phát triển giáo dục mầm non phù hợp với từng địa phương.
1.3.4. Cơ chế, chính sách đối với xã hội hóa giáo dục mầm non
XHH giáo dục mầm non là một chủ trương, chính sách đúng đắn của
Đảng trong giai đoạn hiện nay, nhằm tạo mọi điều kiện để huy động toàn thể
nhân dân cùng tham gia sự nghiệp giáo dục mầm non, nâng cao chất lượng chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Đi cùng với chủ trương là hệ thống các văn bản