Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh thừa thiên huế trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.78 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là nội dung quan trọng và tương đối lớn trong
tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn từ 2001 đến nay. Trong tiến trình thực
hiện cải cách hành chính, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức đóng vai trò quan trọng
để nâng cao năng lực thực hiện công việc, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
“Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”1
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc cho công chức là công việc thường
xuyên diễn ra trong suốt cuộc đời của người công chức, kể từ khi bước vào nền công vụ
cho đến khi ra khỏi nó. Vì thế việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, cần đáp ứng nhu
cầu đào tạo cần thiết, đào tạo những mong ước được đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ công
chức và nó cần được nghiên cứu cần đầu tư về sức lực và tiền của từng bước nâng cao để
hiệu qủa của công tác này.
Việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức góp phần thúc đẩy mạng qúa trình phát triển, đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của nhân dân để đáp ứng một nền công vụ thực sự hiện đại văn minh. Tích
cực lao động của cán bộ, công chức được đo bằng mức độ hoạt động số lượng và chất lượng
lao động, tính tích cực của cán bộ, công chức được thể hiện bằng sự năng động của người đó,
thể hiện ham muốn lao động, nhu cầu, cống hiến, sự năng nổ chịu khó, sự chủ động năng động
trong lao động, sự sáng tạo, có trách nhiệm trong việc giải quyết công việc, và trong mối quan
hệ với cộng đồng và với người dân. Do vậy, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là việc
vô cùng quan trọng và cần thiết trong bất cứ lúc nào và bất cứ thời gian nào.
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi đã chọn để tài: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức của tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay”. Để có thể đóng góp được
phần nhỏ của mình vào vấn đề cấp thiết đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức ở tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và của cả nước nói chung.
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 5, trang 269

1




2. Tình hình nghiên cứu
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay được
sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trên thực tế đã có nhiều công trình
nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nhà nước tỉnh Ninh Bình” của Tô Văn Hoạt; “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức”… Ở tỉnh Thừa Thiên Huế cũng có nhiều công trình nghiên cứu về công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên cũng
chưa thể đáp ứng được nhu cầu về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của cả nước
nói chung và của tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức ở tỉnh Thừa Thiên Huế; làm rõ thực trạng, đưa ra một số giải pháp của công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chức ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chỉ ra nội dung cũng như yêu cầu của qúa
trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, khảo sát thực trạng và đánh giá thực
trạng , tìm ra những ưu điểm, tồn tại và hạn chế, đưa ra những giải pháp đẩy mạnh phát
triển công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ mới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Thừa Thiên
Huế trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, phương
pháp phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp…
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của tiểu luận gồm 3 chương 9 tiết

2



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1 Các khái niệm
1.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo được hiểu là: “hệ thống cung cấp trí thức về chuyên môn nghề nghiệp”.
Bồi dưỡng là bổ sung nâng cao về nhiều vấn đề cả về chuyên môn nghiệp vụ,
đạo đức, chính trị.
Theo từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2008 trang 478 đã định nghĩa: “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện, để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp” và “Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh
thêm, làm cho tốt hơn, giỏi hơn”
Khái niệm “đào tạo, bồi dưỡng” với nghĩa này đã được sử dụng ngày càng rộng rãi và
được dùng trong các nghị quyết của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Đào tạo, bồi dưỡng cũng được sử dụng với nội hàm cập nhật kiến thức trang bị
kỹ năng, phương pháp làm việc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khái niệm
huấn luyện cán bộ. Người cho rằng “huấn luyện phải thiết thực, sao cho những người
đến học, học rồi, về địa phương họ có thể thực hành ngay”, bởi vì “học cốt để mà
làm. Học mà không làm được, học mấy cũng vô ích”
1.1.2.Cán bộ, công chức
1.1.2.1. Cán bộ
Khái niệm cán bộ rất quen thuộc trong đời sống xã hội và chưa đồng nhất với
nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “trong sửa đổi lối làm việc – năm 1947” thì “Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”.
Trong đại từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, năm 2008, trang 185 quy định: “Cán bộ là người làm việc trong cơ quan
3



nhà nước. Người giữ chức vụ phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ
trong các tổ chức cơ quan nhà nước”
Còn trong luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương,
ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
1.1.2.2. Công chức
Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy hành
chính nhà nước thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến công vụ, các
học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công chức.
Lịch sử phát triển của đội ngũ công chức Việt nam, có thể đưa ra khái niệm
công chức là: “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường
xuyên, làm việc trong một cơ quan nhà nước, được phân loại theo trình độ đào tạo,
ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, trong biên chế Nhà nước và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”
Và theo luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật.
4



1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Vấn đề cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam là một cuộc cách mạng
mang tính toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực: Chính trị - tư tưởng, Cơ cấu kinh tế, Văn hóa xã hội.
Nhưng muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải hoàn thiện được yếu tố
chủ đạo là tư tưởng và con người chủ nghĩa xã hội, trong đó người cán bộ rất quan trọng bởi:
"Con người chủ nghĩa xã hội là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong việc
phát triển đất nước, Người luôn luôn căn dặn chúng ta phải làm tốt công tác cán bộ đặc biệt
là công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Vì “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có
vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có
lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc tức là lỗ vốn”2
Như vậy, có thể nói rằng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức là tư tưởng chủ đạo, là kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng và Nhà nước ta trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời
kỳ mới đáp ứng nhu cầu phát triển của nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức
Trong Đại hội lần thứ Ba của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã nhấn
mạnh: “Trước thử thách mới đòi hỏi Đảng phải xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có
bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa có kiến thức, năng lực và uy tín để lãnh đạo đất

2


Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 6, trang 46.

5


nước vượt qua những thử thách, đây là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định sự
nghiệp cách mạng của Đảng”3
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có một vai trò vô cùng quan trọng đối với
sự phát triển của Đảng, của đất nước. Vì “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”4.
Đặc biệt, trong điều kiện đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, mở rộng hội nhập quốc tế và những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới,
công tác cán bộ lại càng có ý nghĩa quan trọng, liên quan đến sự sống còn của Đảng
của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, có kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân”5
Đến Đại hội X (2006), Trung ương Đảng nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng chiến
lược quốc gia về nhân tài và chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Ngay sau khi có Nghị quyết Trung ương IX khóa X, Ban chấp hành Trung ương đã
triển khai nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuẩn bị các điều kiện triển khai nghiên
cứu đề tài nghiên cứu Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đồng thời
giao nhiệm vụ cho các vụ, đơn vị trong Ban phối hợp tổ chức triển khai chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.
Đảng cộng sản Việt Nam đánh giá cao vai trò của cán bộ và công tác cán bộ.
Chính vì thế ngay từ khi mới thành lập Đảng đã chú ý đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức.
1.4. Mục tiêu, nguyên tắc, phương thức của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
3


Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, Trang 85
Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb CTQG, H, 1997, trang 66
5
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, trang 141
4

6


1.4.1. Về mục tiêu
Mục tiêu chính của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức là để trang bị kiến thức, kỹ năng
và phương pháp thực hiện nhiệm vụ, công vụ, góp phần xây dựng đội ngũ công chức chuyên
nghiệp, có đủ năng lực xây dựng nền hành chính tiên tiến, hiện đại. Các hình thức đào tạo,
bồi dưỡng công chức gồm có: tập trung, bán tập trung, vừa làm vừa học và từ xa.
1.4.2. Về nguyên tắc
Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cử đi tham quan học tập, việc nghỉ phép, nghỉ
theo chế độ do các Phòng, Trung tâm bố trí, sắp xếp, đề nghị và được sự đồng ý của
Lãnh đạo Văn phòng.
Việc bố trí đi học nâng cao nghiệp vụ sẽ ưu tiên cho những cán bộ, công chức, viên
chức đăng ký theo học những lĩnh vực liên quan đến công tác mình đang phụ trách, đang
được định hướng bố trí hoặc những ngành học về quản lý nhà nước.
Trưởng phòng, Giám đốc trung tâm có trách nhiệm giúp lãnh đạo văn phòng chỉ đạo,
theo dõi và tham mưu hoặc chủ động bố trí cán bộ làm thay và bàn giao công việc khi cán
bộ trở lại làm việc, đảm bảo theo nguyên tắc việc nghỉ phép theo chế độ, nghỉ ốm, đi công
tác, học tập dài ngày của cán bộ, công chức, viên chức không được làm ảnh hưởng đến hoạt
động điều hành của các Phòng, Trung tâm, của văn phòng và Uỷ ban nhân dân tỉnh.
Cán bộ, công chức được cử đi học tập, đào tạo trong nước hoặc đi công tác, tham
quan học tập ở nước ngoài khi hoàn thành khoá học hoặc kết thúc chuyến công tác phải báo
cáo Lãnh đạo Văn phòng bằng văn bản.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 18/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày
1/5/2010 về đào tạo và bồi dưỡng công chức.
Về nguyên tắc, trên hết, đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu
chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây
dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị. Việc cử đi học phải được tiến
hành công khai, minh bạch.

7


Có 4 chế độ đào tạo, bồi dưỡng, gồm: Hướng dẫn tập sự đối với công chức trong
thời gian tập sự, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo
tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo quản lý, bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu các kiến thức, kỹ năng
chuyên ngành hàng năm.
Chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng công chức được dùng theo mẫu chung thống nhất
trong cả nước.
1.4.3. Về phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức
Phương thức đào tạo cán bộ, công chức ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú.
Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải kết hợp đào tạo chính quy
với các hình thức đào tạo khác cho từng loại cán bộ.
Việc cử đi đào tạo nước ngoài thực hiện bằng hình thức liên kết với các cơ sở đào tạo công
lập (Viện nghiên cứu khoa học, Trung tâm nghiên cứu kho học, Trường đại học...), liên kết
đào tạo với các trường đại học ở nước ngoài , qua các hình thức:
 Đào tạo toàn phần tại nước ngoài.
 Đào tạo bán phần (một nửa thời gian ở trong nước và một nửa thời gian ở nước ngoài).
 Đào tạo du học tại chỗ (đào tạo trong nước).
 Liên kết với các tỉnh, thành phố, bộ, ngành gửi cán bộ, công chức, viên chức đi đào
tạo. Danh mục các quốc gia và cơ sở giáo dục mà tỉnh gửi cán bộ, công chức, viên
chức đi đào tạo sẽ được cơ quan có thẩm quyền công bố hàng năm.
1.5. Nội dung đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12-51999 của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng và các quyết định của
Thủ tướng Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước cho cán bộ, công
chức, những năm qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp, ngành đã thu
được nhiều kết quả, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
8


Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên đổi
mới theo hướng đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công tác của người học. Để thực
hiện tốt việc này cần làm rõ một số nội dung sau:
Một là, phạm vi đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công tác rất rộng, nên để có cơ sở
xây dựng nội dung, chương trình, xác định phương pháp đào tạo, bồi dưỡng theo hướng
này không chỉ xác định đối tượng đào tạo, bồi dưỡng theo cấp bậc, chức vụ lãnh đạo, quản
lý hoặc theo ngạch bậc cán bộ, công chức hiện nay mà còn phải xác định đối tượng đào tạo,
bồi dưỡng theo chức danh chuyên môn, nghiệp vụ mà cán bộ, công chức đảm nhiệm để
xây dựng nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Hiện nay, cán
bộ, công chức trong hệ thống chính trị trước khi được bầu, bổ nhiệm vào ngạch hoặc chức
danh nào đó, họ đã được đào tạo ở một trình độ nhất định. Vì vậy, cần nắm chắc trình độ lý
luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ đã được đào tạo để xây dựng nội dung, chương trình
đào tạo phù hợp nhằm bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ, tránh trùng lặp.
Thứ hai, để đáp ứng mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc, cần phải luôn
luôn xác định rõ mục đích nhằm đào tạo ai, giúp họ đáp ứng được những gì nhu cầu của công
việc đang làm, trên cơ sở đó xác định nội dung, chương trình và hình thức, phương pháp đào
tạo cho phù hợp. Mỗi chương trình đào tạo bồi dưỡng sẽ nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định, vì vậy trên cơ sở nắm được mục tiêu của khoá đào tạo, bồi dưỡng cần xác định ý nghĩa
của từng bài giảng, từng chuyên đề, lựa chọn kiến thức và phương pháp phù hợp.
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc đòi hỏi phải xác định rõ
kiến thức, kỹ năng người học cần đạt được sau khi kết thúc khoá học. Đó có thể là sự
cập nhật thông tin, bổ sung tri thức mới, hiện đại, sự phát triển kỹ năng nghề nghiệp

hoặc nghiệp vụ công tác đáp ứng nhu cầu công việc, sự thay đổi về thái độ trách
nhiệm đối với công việc và các vấn đề của cuộc sống.
Căn cứ vào nhu cầu học tập và mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, người xây dựng nội
dung, người giảng dạy và người học đều phải bám sát vào đó để đạt được yêu cầu đề ra.

9


Thực tế cho thấy, nội dung chương trình chỉ thu hút người học khi thực sự thiết thực đối với
họ.
Thứ tư, để đào tạo, bồi dưỡng có chất lượng, hiệu quả cần thực sự đổi mới phương pháp
dạy học. Phần lớn người học những chương trình đào tạo, bồi dưỡng này là cán bộ, công chức đã
đạt chuẩn ở những trình độ nhất định, đã qua thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm công tác, có khả
năng tự học, tự nghiên cứu, phân tích đánh giá vấn đề. Vì vậy, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đối
với họ không thể giống như đối với sinh viên. Đối với đối tượng này chỉ nên định hướng nội dung
học tập, nghiên cứu, nêu vấn đề, tình huống và hướng dẫn, gợi mở, đối thoại để rèn luyện phương
pháp, kỹ năng giải quyết vấn đề, xử lý tình huống. Để việc học tập có kết quả, đạt chất lượng cao,
sau mỗi bài học, cụm chuyên đề nên cho học viên đi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tập rút kinh
nghiệm với thời gian thích hợp. Nội dung đi nghiên cứu, khảo sát thực tế phải sát với nội dung bài
học, có giảng viên hướng dẫn, sau đợt nghiên cứu, thực tập học viên phải có bài thu hoạch.
Cuối cùng, một yêu cầu quan trọng là phải có đội ngũ giảng viên chuyên sâu,
giàu kinh nghiệm nghiên cứu thực tiễn, có phương pháp giảng dạy phù hợp. Chú
trọng xây dựng đội ngũ giảng viên kiêm chức, các chuyên gia đầu ngành trong các
lĩnh vực để đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc đạt kết quả.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế ảnh hưởng
đến việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế
Huế là một thành phố ở miền Trung của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Thiên-Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều
Nguyễn, Huế nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn liền
10


với cảnh quan thiên nhiên. Với diện tích của tỉnh là 5.053,99 km², dân số theo kết quả
điều tra ngày 01/04/2009 là 1.087.579 người.
Tỉnh Thừa Thiên - Huế là một trong 4 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung, năm ở toạ độ địa lý 16-16,80 độ vĩ bắc và 107,8-108,20 độ kinh đông, cách thủ
đô Hà Nội 688 km. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía nam giáp thành phố Ðà Nẵng với
ranh giới là đèo Hải Vân, phía tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía
Đông được giới hạn bởi biển Ðông.
Một số chỉ tiêu KT-XH chủ yếu như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt trên
11,19%, vượt kế hoạch đề ra (kế hoạch tăng trên 10%); trong đó, dịch vụ chiếm 45,9%
trong GDP tăng 11%; công nghiệp - xây dựng chiếm 37,6% trong GDP, tăng 14,4%, riêng
nông nghiệp mặc dù chịu ảnh hưởng của thiên tai và dịch bệnh nhưng đã đạt mức tăng
2,5% chiếm 16,5% trong GDP. Thu ngân sách Nhà nước ước đạt 2.520 tỷ đồng, vượt
17,5% dự toán, tăng 30,9% so năm 2008. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 7.243 tỷ
đồng, tăng 25,2%, vượt kế hoạch 8,1%. Tổng sản phẩm trong tỉnh bình quân đầu người
ước đạt trên 1.000 USD (KH năm 2009 là 900 USD). Hoạt động xuất khẩu có tiến bộ, giá
trị xuất khẩu ước đạt 140,8 triệu USD, tăng 30,8% so năm 2008
Thương mại, dịch vụ tăng khá, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ ước đạt 9,9
nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so năm 2008. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu,
hàng giả và gian lận thương mại đã góp phần bình ổn thị trường. Các hoạt động Hội chợ
triển lãm Làng nghề Việt Nam 2009, chương trình “Tuần hàng Việt Nam” đã góp phần
làm thị trường sôi động hơn.
Lĩnh vực công nghiệp đã tập trung cơ cấu lại sản xuất để vượt qua khó khăn, ổn
định và phát triển. Giá trị sản xuất ước đạt 5604,7 tỷ đồng, tăng 16,8% so năm 2008

Công tác quy hoạch trong năm 2009 đã được tỉnh Thừa Thiên Huế coi trọng,
nhất là quy hoạch xây dựng. Tiếp tục triển khai 47 dự án quy hoạch ngành, lĩnh vực;
trong đó có 42 quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, khu công nghiệp, quy hoạch sử

11


dụng đất cấp xã; tổ chức lập 29 đề án, kế hoạch thực hiện các đề án chiến lược, quy
hoạch của Trung ương và của tỉnh.
Lĩnh vực văn hoá - thể thao có nhiều nhiều hoạt động đựoc tổ chức. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã có 1.125 làng, thôn, bản, tổ dân phố
được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa (tỷ lệ 82,2%); 911 cơ quan, đơn vị được công
nhận đạt chuẩn văn hóa (tỷ lệ 85,8%); 189.060 gia đình được công nhận gia đình văn hóa
(tỷ lệ 87,1%), 28 xã, phường, thị trấn đăng ký xây dựng xã, phường, thị trấn văn hóa (tỷ lệ
27,3%), 38,3% số thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng.
Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc được quan tâm. Đã
ưu tiên đầu tư các thiết chế văn hóa, các dự án tu bổ di tích. Hoàn chỉnh công trình
Tượng đài Quang Trung. Đã hoàn thành nhiều hồ sơ công nhận di tích; trong đó, địa
đạo Bạch Mã, khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, làng cổ Phước Tích đã
được xếp hạng di tích quốc gia. Quần thể kiến trúc Cố đô Huế đã được Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch trao bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Lĩnh vực y tế đã làm tốt công tác giám sát dịch tễ, tuyên truyền, phòng chống các bệnh
truyền nhiễm gây dịch.. nhờ vậy, không để dịch bệnh xảy ra.
Lĩnh vực giáo dục đã giữ vững chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở. Kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm học 2008 – 2009, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 86,29%, tăng
15,37% so với năm học trước. Mạng lưới các trường học phát triển cả về số lượng và chất
lượng; đã có 116/577 trường đạt chuẩn Quốc gia, chiếm tỷ lệ 20,1%; cơ bản hoàn thành
chương trình cải tạo môi trường vệ sinh trường học.
2.2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Thừa Thiên - Huế

Qua hơn 20 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh Thừa Thiên
Huế không ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, kiến thức về năng lực thực
tiễn không ngừng được nâng lên, hầu hết có bản lĩnh chính trị, kiên định lập trường, quyết
tâm thực hiện công cuộc đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, có tâm huyết và
12


hoài bão góp phần xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên - Huế thành trung tâm văn hoá,
du lịch, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế chuyên sâu và là trung tâm kinh tế
của vùng trọng điểm kinh tế miền trung và của cả nước.
Đến nay, đội ngũ công chức, viên chức hành chính sự nghiệp trong toàn tỉnh
có khoảng 20.000 người trong đó gần 2.000 người làm nhiệm vụ quản lý hành chính
nhà nước hơn 17.000 người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp chiếm 90,65%.
 Về chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 74,4%; cao đẳng,
trung cấp chiếm tỷ lệ 18,2%; sơ cấp và còn lại chiếm tỷ lệ 7,4%;
- Trình độ lý luận chính trị: cử nhân chính trị và cao cấp chiếm tỷ lệ 11,5%, trung
cấp chiếm tỷ lệ 17,9%.
- Trình độ quản lý nhà nước: đã qua bồi dưỡng quản lý nhà nước chiếm tỷ lệ 59.97%.
- Trình độ tin học: cử nhân tin học chiếm tỷ lệ 1,8%; tin học cơ sở chiếm tỷ lệ 47,53%.
- Trình độ ngoại ngữ: cử nhân ngoại ngữ chiếm tỷ lệ 5%; cơ sở chiếm tỷ lệ 44,11%.
- Cơ cấu độ tuổi: về tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 14.31%; từ 30 tuổi đến 50
tuổi chiếm tỷ lệ 64.2%; trên 50 tuổi 21,49%.
Như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước phần lớn đã
được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị. Vấn đề đáng quan
tâm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công các quản lý hành chính là sự thiếu hụt
về lý luận chính trị và trình độ tin học. Sự thiếu đồng bộ về một số ngành và lĩnh
vực, nhất là các chuyên gia giỏi. Phần đông số cán bộ trẻ có kiến thức, có trình độ
học vấn, năng động và mạnh dạn nhưng thiếu kinh nghiệm trong việc quản lý điều
hành, chưa được chuẩn bị chu đáo, có những trường hợp chậm được phát hiện để bố

trí sử dụng thoả đáng và cất nhắc kịp thời.
Kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước,
quản lý đô thị của một số đông cán bộ, công chức, chậm được đào tạo mới, đào tạo lại. Đã
có hiện tượng "chảy máu chất xám" do một số cán bộ, công chức sau khi được cho đi đào
13


tạo sau đại học đã bỏ cơ quan nhà nước, để đi làm việc cho các đơn vị liên doanh, tổ chức
nước ngoài, hoặc đến những đơn vị có chế độ ưu đãi và thu nhập cao.
 Về chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức của các đơn vị sự nghiệp
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ 31,95%;
cao đẳng, trung cấp chiếm tỷ lệ 60,19%; sơ cấp và còn lại chiếm tỷ lệ 7,86%.
- Trình độ lý luận chính trị: cử nhân và cao cấp chính trị chiếm tỷ lệ 0,42%, trung
cấp chiếm tỷ lệ 4,22%.
- Trình độ Quản lý nhà nước: cán bộ công chức được bồi dưỡng chiếm tỷ lệ 1,59%.
- Trình độ tin học: cử nhân và cao đẳng tin học chiếm tỷ lệ 0,41%; tin học cơ sở
chiếm tỷ lệ 1,27%.
- Trình độ ngoại ngữ: cử nhân ngoại ngữ chiếm tỷ lệ 4,55%; cơ sở chiếm tỷ lệ 21,97%.
- Cơ cấu về độ tuổi: tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 26,86%; từ 30 tuổi đến 50
tuổi chiếm tỷ lệ 56,62%; trên 50 tuổi 16,52%.
Phần đông đội ngũ cán bộ, viên chức công tác tại ngành giáo dục và ngành y tế.
Sau khi có Quyết định số 2954/2004/QĐ-UB ngày 28/8/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
về việc ban hành quy chế tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức trong các cơ quan
nhà nước và Quyết định số 2955/2004/QĐ-UB ngày 28/8/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
về việc ban hành quy chế tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp, việc tuyển dụng công chức, viên chức đã đi vào nền nếp.
Trong năm 2005, đã tuyển dụng được 1.141 viên chức và 252 công chức cho sở,
ban, ngành và Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố Huế. Việc tuyển dụng theo đúng quy
chế, đã chọn được đội ngũ công chức, viên chức mới đáp ứng tiêu chuẩn của ngạch bậc
công chức, viên chức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên

đội ngũ viên chức của các đơn vị sự nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ lý luận chính
trị và trình độ quản lý nhà nước; do quá chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn
xem nhẹ việc bồi dưỡng về lý luận chính trị.

14


2.2.2.Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Hội nhập kinh tế quốc tế đã bước vào giai đoạn quan trọng với việc thực hiện các cam
kết quốc tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói
chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Trong các chương trình hành động của mình, tỉnh Thừa
Thiên - Huế đã xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Thời gian qua, Thừa Thiên - Huế đã có cố gắng ban đầu trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh không
ngừng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng:
Về đào tạo công chức hành chính: Nhằm bảo đảm cho đội ngũ công chức từng
bước chuẩn hoá ngạch, bậc công chức theo qui định, tỉnh quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, năng lực ở tất cả các lĩnh vực.
Về công tác đào tạo cán bộ nguồn tỉnh đã phối hợp cùng Học viện Hành chính
Quốc gia và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh triển khai tổ chức 1 lớp cử nhân
hành chính, 1 lớp cử nhân chính trị từ nguồn con em gia đình chính sách, nằm trong quy
hoạch của địa phương với số lượng 196, bảo đảm nguồn công chức cho cơ sở.
Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định cho các huyện phối hợp với các trường đại học mở
lớp đại học hệ vừa học vừa làm tại địa phương nên đã từng bước chuẩn hoá đội ngũ và
nâng cao mặt bằng trình độ của cán bộ huyện và cơ sở.
Như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý hành chính nhà nước số đông đã được
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ,
công chức làm công các quản lý hành chính là sự thiếu hụt về lý luận chính trị và trình độ
tin học, sự thiếu đồng bộ về một số ngành và lĩnh vực. Phần đông số cán bộ trẻ có kiến
thức, có trình độ học vấn, năng động và mạnh dạn nhưng thiếu kinh nghiệm trong việc

quản lý điều hành, chưa được chuẩn bị chu đáo, có những trường hợp chậm được phát
hiện để bố trí sử dụng thoả đáng và cất nhắc kịp thời.
Về đào tạo viên chức sự nghiệp: Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, nâng cao trình độ chung cho viên chức, Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các ngành
15


chức năng đẩy mạnh việc đào tạo nâng chuẩn các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và
trên đại học cho đội ngũ viên chức.
Tuy nhiên đội ngũ viên chức của các đơn vị sự nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế về trình độ lý
luận chính trị và trình độ quản lý nhà nước. Do quá chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn xem nhẹ việc bồi dưỡng về lý luận chính trị.
Về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn: Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra Nghị quyết
chuyên đề về đào tạo đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn. Tính đến nay đã có 381/3.551
người có trình độ đại học, cao đẳng; 999/3.551 người có trình độ trung cấp. Song song
với đào tạo cán bộ đương chức các địa phương đã xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ
nguồn cho xã, phường, thị trấn; có cả hình thức gửi đi đào tạo đại học .
Việc đào tạo cán bộ cơ sở vẫn còn khó khăn nhất là cán bộ 2 huyện miền núi Nam
Đông, A Lưới, có trình độ thấp, khó đạt tiêu chuẩn quy định đầu vào đào tạo trung cấp; tiếp
thu kiến thức trong quá trình học tập và vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn hạn chế; chưa
có kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt quá trình chuyển đổi các thế hệ cán bộ cơ sở.
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã góp phần quan trọng trong
việc nâng cao mặt bằng chung về trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức; từng
bước tiêu chuẩn hoá ngạch, bậc theo qui định của nhà nước; đảm bảo cho công tác quy
hoạch và gắn liền với nhu cầu sử dụng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Đội ngũ cán bộ, công chức sau khi được đào tạo nhận thức chính trị vững vàng hơn, hiệu
qủa công tác được nâng lên rất rõ. Bộ phận cán bộ, công chức được đề bạt, bổ nhiệm hầu hết phát
huy tốt chức trách của mình trên cương vị mới.
Kết quả đào tạo và đào tạo lại từ năm 2001 đến 2005 tổng hợp như sau: lý
luận chính trị: 3.061 lượt người; quản lý nhà nước: 2.461 lượt người; chuyên môn

nghiệp vụ: 465 lượt người; tin học: 2.177 lượt người; ngoại ngữ: 972 lượt người.
Hiệu quả của công tác đào tạo và đào tạo lại thể hiện mối quan hệ tác động
trực tiếp giữa việc học tập nâng cao trình độ với hiệu quả công tác quản lý nhà nước.

16


Từ đó cho thấy làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ thúc đẩy sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của toàn tỉnh, cũng như của từng ngành, từng đơn vị cơ sở.
2.2.3. Hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.3.1. Mặt hạn chế
Tuy nhiên công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng trong những năm qua vẫn
còn những khó khăn:
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của địa phương chưa đồng bộ giữa số lượng,
chất lượng và cơ cấu. Các nhóm đối tượng cán bộ, công chức ở mặt này hoặc mặt khác còn
chưa đạt các tiêu chuẩn theo qui định, đặc biệt đội ngũ cán bộ cơ sở, xã, phường trình độ
còn thấp và còn nhiều bất cập.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng còn thiếu cân đối giữa việc trang bị trình độ lý luận
chính trị với kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ; một số lĩnh vực chưa sâu, còn nhiều lý
thuyết, ít kiến thức thực tiễn; chưa quan tâm nhiều đến đào tạo kiến thức quản lý chuyên
ngành, lĩnh vực; việc mở các lớp bồi dưỡng theo chuyên đề có phần hạn chế.
- Chất lượng đào tạo (nhất là hệ tại chức) chưa cao; một số công chức đang chạy
theo bằng cấp.
- Đào tạo chưa gắn liền với quy hoạch, đào tạo và sử dụng chưa ăn khớp với
nhau, đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự đồng bộ với yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán
bộ, công chức.
2.2.3.2. Về nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhận thức của một số ngành, một số cấp uỷ, chính quyền chưa đầy
đủ, chưa đúng đắn và đồng bộ. Công tác quy hoạch cán bộ chưa được quan tâm đúng
mức, có nơi làm chưa khoa học còn qua loa. Nội dung chương trình còn trùng lặp,

chồng chéo, chậm đổi mới, hoàn thiện; trình độ giáo viên còn nhiều hạn chế, không
chuyên sâu, chưa đồng bộ.

17


Thứ hai, việc đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất cho các trung tâm còn thấp,
thiết kế phòng học chưa đạt tiêu chuẩn, thiếu các phương tiện hiện đại để đổi mới
phương pháp dạy và học.
Thứ ba, việc lựa chọn cán bộ đi học chưa căn cứ vào tiêu chuẩn và mục tiêu, chính
sách của người đi học chưa thoả đáng. Bản thân công chức còn chưa thấy hết tính cấp thiết
của học tập, nâng cao trình độ năng lực.
2.3. Bài học kinh nghiệm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của tỉnh
thừa Thiên Huế.
Một là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trước hết phải căn cứ vào yêu cầu của
nhiệm vụ, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội từng giai đoạn.
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nên tập trung vào cấp cơ sở, bởi
vì cơ sở là đơn vị hành chính gần dân là nơi tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp lật của Nhà nước.
Ba là, việc lựa chọn cán bộ, công chức đi đào tạo phải đảm bảo tính giai cấp
của Đảng, coi trọng đội ngũ công nhân, nông dân tiến bộ, trí thức cách mạng và cán
bộ trải qua phong trào cách mạng.
Bốn là, việc đào tạo cán bộ công chức phải đảm bảo 4 nội dung chủ yếu về
chính trị, tư tuởng, tổ chức và cách thức lãnh đạo.
Năm là, lập quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, đào tạo
trong tỉnh là chủ yếu.

18



Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
3.1.Phương hướng nâng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh
Thừa Thiên Huế
3.1.1. Mục tiêu
Trong giai đoạn 2006-2010 công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
tỉnh hướng tới đạt các mục tiêu như sau:
 Đối với cán bộ, công chức hành chính
- Đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm trang bị đủ kiến thức quy định theo tiêu chuẩn cho
công chức lãnh đạo, quản lý và công chức các ngạch hành chính.
- 100% cán bộ, công chức hành chính được trang bị kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu
công vụ và có khả năng hoàn thành có chất lượng nhiệm vụ được giao; trang bị kiến thức
về văn hoá công sở; trách nhiệm và đạo đức công chức cho công chức các ngạch.
- Thực hiện đào tạo bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm và đào tạo, bồi dưỡng cho cán
bộ quản lý đương chức; 100% công chức lãnh đạo cấp sở, cấp huyện được trang bị kỹ
năng lãnh đạo, quản lý và kỹ năng phối hợp xử lý các vấn đề có tính chất liên ngành.
- Tiến hành quy hoạch và tổ chức đào tạo xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành
về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.
Đối với cán bộ, công chức cấp xã:
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý
nhà nước và trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định cho cán bộ chuyên trách.
- Đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cho Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã và
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
- 100% Công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn có đủ
năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao, số công chức công tác tại vùng miền núi có
trình độ trung cấp trở lên đạt tỷ lệ 70%.
19



- Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ không chuyên
trách cấp xã, cán bộ thôn, bản và tổ dân phố.
3.1.2. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng
 Đối với công chức hành chính
+ Tổ chức đào tạo tiền công vụ cho công chức dự bị. Công chức trong thời gian
tập sự phải được đào tạo trang bị kiến thức về nền hành chính nhà nước, pháp luật, kỹ
năng hoạt động công vụ.
+ Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, tin
học cho công chức ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao
cấp; tổ chức đào tạo tiếng dân tộc cho cán bộ, công chức công tác tại các vùng có
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
+ Đào tạo, bồi dưỡng trang bị kỹ năng nghiệp vụ cho công chức các ngạch.
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kỹ năng lãnh đạo, quản lý trước khi đề bạt,
bổ nhiệm chú ý ưu tiên cho cán bộ lãnh đạo cấp huyện.
 Đối với cán bộ, công chức cấp xã
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức theo tiêu chuẩn cho cán bộ
chuyên trách, công chức cấp xã.
+ Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cho Chủ
tịch Hội đồng nhân dânvà Chủ tịch uy cấp xã.
+ Đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức tin học cho các đối tượng cán bộ chuyên trách
cấp xã, ưu tiên đối tượng là Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã. Đào tạo tiếng dân tộc cho
cán bộ chuyên trách cấp xã công tác tại vùng có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động cho đại
biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2009-2014

20


- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Làm cho việc
luân chuyển cán bộ từng bước đi vào nề nếp, thường xuyên, đạt hiệu quả thiết thực,

khắc phục khuynh hướng cục bộ, khép kín trong từng đơn vị, từng địa phương.
 Hình thức đào tạo, bồi dưỡng
- Đối với công chức, viên chức ngạch chuyên viên và chuyên viên chính trong độ
tuổi đều phải qua chương trình đào tạo lại theo qui định của ngạch.
- Đối với công chức, viên chức đang trong thời gian tập sự đều phải qua bồi
dưỡng tiền công vụ;
- Đối với số cán bộ trẻ, có triển vọng, lớp cán bộ tạo nguồn cần phải đào tạo cơ bản,
toàn diện để có kiến thức cơ bản, có năng lực thực tiễn và có kỹ năng thực hành nhất định
để đảm đương được nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về lâu dài.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu
Một là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ
thống Pháp Luật. Nhà nước cần phải tiếp tục sửa đổi, điều chỉnh, hoành thiện thể chế
Pháp luật, sớm ban hành Luật cán bộ, công chức để làm căn cứ xác định nghĩa vụ, quyền
lợi, trách nhiệm xác định các tiêu chí đào tạo, tuyển dụng đánh giá, khen thưởng, xử phạt
các điều kiện thực thi công vụ của cán bộ, công chức cũng như làm căn cứ định hướng
xây dựng các tiêu chí văn hoá, văn minh, dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật nơi cơ quan
công sở. Tôn trọng vai trò cá nhân cũng như đạt đúng trách nhiệm cá nhân là một nhân tố
quan trọng lành mạnh hoá bộ máy hành chính hiện nay. Giải quyết tốt chính sách tiền
lương, chế độ phụ cấp cán bộ, công chức, đó chính là cái gốc của vấn đề là điều kiện tiên
quyết để nâng cao tính tích cực lao động của cán bộ, công chức.
Hai là, Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ công chức. Đào
tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là một nội dung mà tất cả các nước muốn có nền
hành chính phát triển đều phải quan tâm. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức đương
nhiên, tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng, nhà nước có thể đào tạo, bồi dưỡng tập huấn
kỹ năng thực thi công vụ đê nâng cao khả năng đảm nhiệm của cán bộ, công chức.
21


Có nhiều hình thức để nâng cao trình độ, năng lực kỹ năng cho cán bộ, công chức.
Chẳng hạn như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tại các cơ sở đào tạo, bồi

dưỡng thong qua công việc tại cơ quan, thong qua hội thảo khoa học, trao đổi kinh
nghiệm, tạo cơ hội để cán bộ, công chức phát triển năng lực.
Ba là, Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức cán bộ. Đây là giải pháp
then chốt đê nâng cao tính tích cực lao động cuả cán bộ, công chức hiện nay. Cần xác
định rõ danh mục công việc cho từng vị trí công chức cho từng cơ quan hành chính Nhà
nước. Vì vậy, cần chuẩn hoá đổi ngũ, nâng cao đổi ngũ cán bộ, công chức.
Bốn là, Trên cơ sở, yêu cầu của công tác đào tạo, rà soát, đánh giá đúng thực
trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản ký chuyênmôn của từng ngành, nghề, lĩnh vực về
tình hình tư tưởng, đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, phương pháp
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và kết quả làm việc của từng người, tiến hành bồi
dưỡng nâng cao trình độ đào tạo bố trí lại công việc cho phù hợp.
Tiến hành xây dựng dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các loại cán bộ,
công chức, đặc biệt là cán bộ tổ chức và cán bộ giảng dạy.
Năm là, Cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuẩn hoá theo quy
định của Nhà nước, nhằm tạo ra một nội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ phẩm chất
năng lực, có trình độ sẵn sang, nhạy bén theo kịp thời đại để đáp ứng kịp yêu cầu của
thời hội nhập. Có chính sách khuyến khích mở các trường đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức.

22


PHẦN KẾT LUẬN
Cán bộ, công chức trong thời kỳ hội nhập đã và đang đóng góp một vai trò vô cùng quan
trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, công chức là một việc làm vô cùng cần thiết và cấp bách hiện nay nhằm tạo ra một
đội ngũ cán bộ, công chức, có đủ phẩm chất, năng lực chính trị, trình độ chuyên môn.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay
được nâng lên hàng đầu vì đây là nguồn cán bộ cho Nhà nước dồi dào nhất.
Tuy nhiên việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cũng gặp nhiều khó

khăn về cơ chế, do chính sách. Nhưng cán bộ trẻ có lòng nhiệt tình hăng say với
công việc thì thiếu kinh nghiệm do vậy chưa được bố trí vào vị trí xứng đáng.
Những cán bộ, công chức, thì phần đa số thiếu trình độ nên cần phải được đào tạo
lại một cách có bài bản hơn.
Thừa Thiên Huế cùng cả nước đang vươn mình bước vào thời đại nền kinh tế hội
nhập quốc tế vì thế cần phải xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
một cách bài bản hệ thống để lớp công chức được đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới và phát triển vươn lên. Giáo dục khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, cần cù lao
động của cán bộ, công chức Việt Nam là một giải pháp cơ bản đáp ứng yêu cầu giáo dục,
kích thích tính tích cực lao động cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đó là tiếp thu, phát triển
những giá trị truyền thống còn phù hợp như: truyền thống tương thân, tương ái, đồng cảm,
cộng khổ, đoàn kết giúp đỡ nhau trong lao động…Đó là những phẩm chất đáng quý của
truyền thống người cán bộ, công chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh – quốc phòng vùng
kinh tế Nam Bộ giai đoạn 2001 -2010, một trong những biện pháp quan trọng mà tỉnh Thừa
thiên huế quan tâm đó là phát triển xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó chú trọng là
công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phương, thị trấn. Điều
23


đó thể hiện đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn có vai trò quân trọng trong hệ
thống chính trị ở cơ sở của Thừa Thiên Huế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, năm 1998.
2. Luật cán bộ, công chức năm 2008.
3. Giáo trình môn quản lý hành chính nhà nước
4. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, năm 1995, Tập 1, tập 5
5. Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ.
6. PGS- TS Trương Ngọc Nam : “Bài giảng Nghiệp vụ công tác Đảng” năm 2009
7. PGS- TS Trương Ngọc Nam “Bài giảng Xây dựng Đảng về tổ chức” năm 2009.

8. Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 2 +3 năm, 2010.
9. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2008.
10.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2001.
11.Văn kiện Hội nghị lần thứ Ba Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb
CTQG, Hà Nội, năm 1997.

24



×