Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO sự điều CHỈNH THÍCH NGHI của CHỦ NGHĨA tư bản TRONG THỜI đại NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.45 KB, 12 trang )

SỰ ĐIỀU CHỈNH THÍCH NGHI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một dự báo có sức thuyết phục cao về
tính chất khơng vĩnh hằng của Chủ nghĩa tư bản ngay khi nó đang còn non trẻ
và tràn đầy nhựa sống. V.I.Lênin cũng đã có những phát kiến mới vào thời
điểm chế độ tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. V.I.Lênin tiên đoán khả
năng xuất hiện "cơn đau đẻ" cho một xã hội mới, Người đưa ra kết luận quan
trọng: Chủ nghĩa tư bản dường như đã phát triển tới tột cùng, cịn ánh rạng
đơng của chủ nghĩa xã hội thì bắt đầu loé sáng. Sự dự báo đó đã đúng ở thời
điểm của Mác - Ăngghen và V.I.Lênin.
Nhưng, những năm đầu của thế kỷ XXI, chủ nghĩa tư bản đã có những
hiện tượng mới, khơng như cách nhìn cũ của chúng ta. Chủ nghĩa tư bản tỏ ra
vẫn còn sức sống nhất định và đang chiếm ưu thế về vốn - khoa học cơng
nghệ và thị trường.
Trước tình hình ấy, một số người đã sai lầm phủ nhận những quan
điểm mácxít - Lêninnít. Họ cho rằng, sự dự báo về buổi hồng hơn của chủ
nghĩa tư bản là q sớm, những giải thích về sự tiêu vong của nó là sai
lầm. Cũng có người lại coi những biến động của chủ nghĩa xã hội, cũng
như những thay đổi của chủ nghĩa tư bản hiện nay là ngẫu hứng của lịch
sử.
Thực ra, nếu tính đến những kinh nghiệm lịch sử và những thực tế đang
diễn ra của thời đại, thì mọi biểu hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại đều có
thể cắt nghĩa. Chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại, điều này khơng có gì khó
hiểu. Dù chúng ta lấy điểm xuất phát của nó là giai đoạn cơng trường thủ
cơng vào nửa cuối thế kỷ XVI, thì chế độ tư bản đến nay cũng mới tồn tại


khoảng trên 450 năm, như vậy chưa phải đã lâu nếu so sánh với thời gian tồn
tại của chế độ phong kiến, và trước đó là của chế độ chiếm hữu nơ lệ. Bởi
vậy, thái độ nơn nóng, mong đợi sự diệt vong chóng vánh của chế độ tư bản


là thiếu căn cứ lịch sử.
Một điều nữa chúng ta cũng cần lưu ý: Chúng ta quả thật chưa đánh giá
hết khả năng tự điều chỉnh của cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như tính
linh hoạt của những người kinh doanh tư bản biết di động, tiến thoái, đồng
thời vẫn cịn giữ được vị trí của họ. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đi rất xa
trong quá trình tồn cầu hố sản xuất xã hội và nhất thể hoá kinh tế. Sự điều
tiết của tư bản tư nhân đối với các quá trình kinh tế quyện chặt với sự điều
tiết của nhà nước tư sản thông qua cơng cụ luật pháp - hành chính - kinh tế xã hội hết sức đa dạng. Một cơ chế siêu quốc gia đặc biệt, có chức năng điều
tiết mâu thuẫn chính trị và kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập.
Mặc dù cơ chế này chưa hoàn chỉnh, nhưng nó cũng đã góp phần giải quyết
một số trục trặc của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, những gì mà nhân loại trải nghiệm trong gần một thế kỷ qua,
kể từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại cho thấy tính chất
phức tạp của thời đại chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, khi đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, cần cân nhắc cả hai mặt. Một
mặt, đúng là những khuyết tật của nó, những mâu thuẫn của nó, những cặn bã
của nó, vẫn chưa mất đi. Nhưng mặt khác, năng lực phát triển và tự cải tạo
của nó, khả năng thích ứng của nó với điều kiện mới, rõ ràng không nhỏ.
1. Những nét mới của chủ nghĩa tư bản
Một là, chiến lược thích nghi để tồn tại của chủ nghĩa tư bản hiện đại
Thực tế là từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều
giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử đã chứng kiến chủ nghĩa tư bản từ
thời kỳ tự do cạnh tranh sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc


quyền nhà nước… Ở mỗi thời kỳ khác nhau, chủ nghĩa tư bản có những đặc
điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau nhất định. Trong suốt q
trình tồn tại ấy khơng thể khơng thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản đã có
những cống hiến to lớn đối với sự phát triển của xã hội loài người, tạo ra
những lực lượng sản xuất không chỉ đồ sộ về quy mơ mà cịn ngày càng

hiện đại, làm thay đổi căn bản phương thức sinh hoạt của thế giới.
Trong thế kỷ XX, đặc biệt kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản diễn ra hết sức phức tạp. Chủ nghĩa tư bản đã
chứng tỏ nó vẫn cịn tiềm năng phát triển và khả năng thích nghi, tự điều
chỉnh của chủ nghĩa tư bản là khá cao. Việc cải cách, điều chỉnh của chủ
nghĩa tư bản hiện đại bắt nguồn từ những thách thức của thời đại: sự hiện
diện của chủ nghĩa xã hội; những đòi hỏi cấp bách về phát triển lực lượng sản
xuất xã hội và sự thay đổi tương ứng về mặt quan hệ sản xuất. Vậy nên, quá
trình thực hiện chính sách điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản vừa qua khơng
ngồi mục đích tìm mọi cách cải thiện điều kiện và tạo ra những yếu tố mới
làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể thích nghi với lực lượng
sản xuất ngày càng phát triển do sự thúc đẩy mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại.
Qua kiểm chứng của thời gian, chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ năng lực tạm
thời thích nghi được trước địi hỏi gay gắt của thời đại; đã tạo ra được một số
thay đổi đáng kể từ cơ sở; đã khai thác được nhiều tiềm năng và tận dụng
được nhiều hình thức phát triển có hiệu quả. Những biến đổi tự thân quan
trọng nhất, quyết định sức sống của chủ nghĩa tư bản hiện đại thể hiện:
Sự biến đổi về chất của lực lượng sản xuất: Hiện nay, tại các nước tư
bản chủ nghĩa phát triển, đang xuất hiện những lực lượng sản xuất mang dấu
ấn của cuộc cách mạng công nghệ mới. Cùng với việc nâng cao đáng kể trình


độ cơng nghệ của các ngành sản xuất vốn có, nhiều ngành sản xuất mới đã
được mở ra. Việc tự động hóa, rơbốt hóa, sử dụng rộng rãi máy điện tốn
trong sản xuất, đã làm cho lao động trí lực ngày càng thay thế lao động thể
lực. Trong thời kỳ lực lượng sản xuất cơng nghiệp mới, vị trí trung tâm là con
người sáng tạo kỹ thuật.
Sự đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa: Đây là nhân tố tạo điều kiện để hệ thống thị trường cạnh tranh tư bản

chủ nghĩa vươn tới một trình độ tổ chức mới, hạn chế bớt tính tự phát và tăng
tính tự giác trong điều chỉnh tư bản và sản xuất. Điều đó thúc đẩy sự xã hội
hóa tư bản và lao động.
Sự thích ứng của giới kinh doanh: Giới tư sản kinh doanh hiện nay tỏ rõ
khả năng không chỉ trong tổ chức điều hành sản xuất mà cả trong mua chuộc,
thu hút tinh hoa của các ngành khác có lợi cho cơng việc của mình: những
người quản lí, những quan chức nhà nước, các nhà tư tưởng, các nhà khoa
học và cả những người hoạt động nghệ thuật, thể thao,… Tính linh hoạt của
các nhà kinh doanh tư sản hiện nay đang tạo tra sự đan kết giữa tài năng và
tài phiệt, giữa năng lực với tiền bạc. Đây chính là yếu tố gây ra sự chia rẽ và
phân liệt trong phong trào công nhân.
Những cải biến trong các tầng lớp xã hội: ở các nước tư bản phương Tây,
đội ngũ công nhân áo xanh, lao động chủ yếu bằng cơ bắp, hiện chỉ còn khoảng
15% và đang có xu hướng ngày càng giảm đi. Mặc dù tỷ suất bóc lột (m/v) hiện
nay rất cao (có khi lên tới 3/1), nhưng có khơng ít trường hợp giai cấp công
nhân được trả công gần ngang giá trị sức lao động. Có tình hình này là do giai
cấp tư sản có thể bớt một phần siêu lợi nhuận thu được từ đủ các nguồn, tăng
thêm tiền lương hịng xoa dịu cuộc đấu tranh có tổ chức của giai cấp cơng nhân,
hoặc kích thích nhu cầu trong dân cư, tăng thêm quy mô tiêu dùng cá nhân để


mở rộng thị trường tiêu thụ. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những thay đổi
đáng kể trong xu hướng bần cùng hóa tuyệt đối và tương đối của người lao động
dưới chế độ tư bản.
Hai là, những thay đổi nhất định trong xã hội
Sinh thời C.Mác là người đã vạch rõ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư
bản là mâu thuẫn giữa hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với
trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Thế nhưng cả hai mặt của
mâu thuẫn cơ bản nói trên hiện cũng đã có những biến đổi nhất định:
Thay đổi về hình thức sở hữu: Sự phát triển của cơ chế chiếm hữu tư nhân

từ thời tự do cạnh tranh đã dần được thay thế bằng cơ chế kinh tế có mang
những yếu tố kế hoạch đáng kể. Chủ nghĩa tư bản hiện đại phải được nhìn
nhận như một thực tế, trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất được thực
hiện các hình thức truyền thống của quan hệ sản xuất đã đan xen với các hình
thức độc quyền nhà nước được sản sinh bởi q trình xã hội hóa sản xuất.
Trong tiến trình xun quốc gia hóa nền kinh tế, các nhà nước tư bản tìm
kiếm các biện pháp điều tiết nền kinh tế, hình thức sở hữu tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, quan hệ sản xuất ở các nước tư
bản chủ nghĩa đã được xã hội hóa hơn trước, vì thế, trong một chừng mực nhất
định, có sự thích ứng hơn với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay,
mẫu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với hình thức
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đương nhiên là vẫn tồn tại và có những
mặt gay gắt, nhưng mặt khác, mâu thẫn đó khơng cịn những đường nét và
ranh giới rõ ràng như trước. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhà nước tư sản
chiếm hữu và phân phối từ 30% đến 60% thu nhập quốc dân. Đây không đơn
thuần là sự chiếm hữu tư nhân nữa, mà phần nào đã mang tính chất xã hội.
Thay đổi từ phía những người lao động: Khác với những năm cuối thế
kỷ vừa qua, hiện nay giai cấp công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát


triển, phần đông đã trả công theo giá trị sức lao động. Sở dĩ như vậy vì giai
cấp tư sản có thể dùng một phần siêu lợi nhuận để mua chuộc; vì phong trào
cơng nhân có tổ chức chặt chẽ trở thành một lực lượng hùng mạnh là đối
trọng đáng kể đối với giai cấp tư sản; vì để mở rộng sản xuất, chủ nghĩa tư
bản cũng rất cần tăng số “cầu” của dân cư, tăng quy mô tiêu dùng cá nhân.
Những điều này dẫn tới sự thay đổi đáng kể trong đời sống những người lao
động ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Tình trạng nghèo khổ vẫn cịn,
nhưng khơng phải phổ biến ở phần lớn những người công nhân làm thuê;
đang phát triển một cách tự phát cái mà V.I.Lênin gọi là “ý thức công liên chủ
nghĩa”, khơng cịn thấy trực tiếp ách áp bức của hệ thống tư bản chủ nghĩa.

Mục đích cuối cùng của việc cải tổ chiến lược kinh tế là tạo ra cho được
một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mềm dẻo hơn, đưa tới việc thích ứng với
những diễn biến phức tạp và gay gắt của sự cạnh tranh giữa các tổ chức độc
quyền tư nhân và những biến đổi của hoàn cảnh. Khi xuất hiện những triệu
chứng khủng hoảng, Nhà nước thi hành những chính sách kích thích nhu cầu
để đổi mới nền kinh tế, cịn khi có hiện tượng “q nóng” thì ngược lại, Nhà
nước sử dụng các biện pháp cấp bách để hạn chế hậu quả của nó.
Như vậy, nếu nhìn nhận một cách trực quan, chủ nghĩa tư bản hiện đại
đã khốc trên mình nó một bộ áo cánh mới và bộ áo cánh đó đã phần nào
che đậy được một số khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản. Đã có khơng ít
nhà lý luận ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đang ca
ngợi chủ nghĩa tư bản hết lời; cho rằng chủ nghĩa tư bản đang tràn trề sức
sống và chủ nghĩa xã hội khơng phải tìm ở đâu xa mà ngay ở một số nước tư
bản chủ nghĩa phát triển hiện nay. Để có được những kết luận khách quan
khi đánh giá chủ nghĩa tư bản hiện đại, chúng ta cần cân nhắc cả hai mặt:
một mặt là những năng lực và sức sống hiện có của nó, sức cải tạo và phát


triển đáng kể của nó; và mặt khác là những mâu thuẫn sâu sắc, những
khuyết tật xã hội, tính bất ổn định và sự tất yếu bị thay thế của nó.
2. Chủ nghĩa tư bản hiện đại thực chất vẫn là chế độ tư bản đã bị
lịch sử lên án
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tạo nên sự phát triển vượt bậc của lực
lượng sản xuất xã hội, những cũng chính nó đã gây ra những tội ác mà lồi
người khơng thể tha thứ như:
Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm gây ra hai cuộc chiến tranh thế giới với hàng
triệu người bị thiệt mạng; là kẻ ném bom nguyên tử xuống dân lành Nhật Bản; là
kẻ xúi giục hoặc trực tiếp gây ra hàng trăm cuộc chiến tranh lớn nhỏ công khai
hoặc che đậy trên khắp hành tinh; là kẻ thường áp đặt những thủ đoạn trả thù nhỏ
nhen như cấm vận, bao vây kinh tế đối với các nước không vừa ý. Sự sụp đổ về

kinh tế và chính trị ở Đơng Âu và Liên Xơ đều có bàn tay độc ác của chủ nghĩa
tư bản. Vì sao chiến tranh lạnh đã chấm dứt mà thế giới vẫn tiếp tục biến động,
xáo trộn, mất ổn định và căng thẳng như hiện nay? Rõ ràng đó là vì vẫn cịn chủ
nghĩa tư bản với các chính sách gây chiến, can thiệp và áp đặt nói trên.
Chủ nghĩa tư bản đã và đang bóp méo nền văn minh nhân loại bằng chế
độ dân chủ chủ yếu cho người giàu, bằng chế độ phân biệt chủng tộc, bằng
việc nuôi dưỡng các tệ nạn ma túy, tham nhũng, làm kiệt quệ tài ngun, hủy
hoại mơi trường sống vì lợi nhuận tối đa.
Chủ nghĩa tư bản dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn tiếp tục gây đau
khổ cho nhân dân các nước nhất là các nước đang phát triển. Sự xuất hiện và
phát triển của tình trạng nợ nần ở các nước này là hậu quả trực tiếp của nền
kinh tế - chính trị tư bản chủ nghĩa. Nợ nần đã gây ra bao thảm cảnh. “Thế
giới thứ ba” hiện có hơn 500 triệu người bị đe dọa chết đói; khoảng 1,6 tỷ
người sống trong cảnh khốn cùng; hơn 600 triệu người thất nghiệp; 800 triệu


người mù chữ; 1,5 tỷ người không được hưởng dịch vụ y tế. Trẻ em là bị thiệt
thòi nhất: hàng năm có tới 40.000 trẻ em bị chết vì khơng có ăn…
Chủ nghĩa tư bản cịn lợi dụng ưu thế vốn có về kinh tế và kỹ thuật để
tăng cường chạy đua vũ trang, làm kiệt sức, đi tới đánh gục các đối thủ. Một
châu Phi bao người đói khát; một châu Á còn bao người nghèo túng; một Mỹ
Latinh nợ nần chồng chất; rất cần có sự trợ giúp thế mà hàng năm người ta
chi tới 1.300 tỷ đôla để chế tạo ra những vũ khí giết người!
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là chế độ tư bản tàn bạo. Chính
nó đã gây ra nhiều thảm họa cho các nước, nhất là các nước nghèo. Mặc dù
đạt được những tiến bộ chưa từng thấy về kinh tế và cơng nghệ, nó ln ln
bộc lộ sự thiếu khả năng và vô trách nhiệm trong việc hạn chế và loại bỏ tình
trạng bần cùng của tuyệt đại bộ phận dân cư trên thế giới. Nó, trước sau vẫn
là xã hội khơng có tương lai. Vì sao lại khẳng định như vậy?
Chủ nghĩa tư bản thường xuyên biến đổi, nhưng biến đổi suy cho cùng

là để muốn tiếp tục tồn tại. Vì thế sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản mang tính
bảo thủ. Chủ nghĩa tư bản có tự điều chỉnh, cố tơ điểm cho có bộ mặt mới, thì
thực chất vẫn là chủ nghĩa tư bản. Do bản chất khơng thay đổi, nên những
thay đổi của nó dù sao cũng có những hạn chế nhất định, khơng thể vượt qua
giới hạn cho phép. Vì vậy, sẽ tới lúc nếu tiếp tục thay đổi thì chủ nghĩa tư bản
khơng cịn là chủ nghĩa tư bản.
Bản chất bất di bất dịch của chủ nghĩa tư bản là bao giờ cũng nhìn nhận
và xử lí mọi vấn đề theo cái lơgic thu lợi tối đa. Chính cái lơgic ấy làm cho
những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản ngày càng thêm trầm trọng
khơng thể điều hịa.
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn cầu hiện nay khẳng định đánh
giá của C.Mác về tính tất yếu nảy sinh khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Một
loạt các hội thảo, hội nghị, cuộc gặp quốc tế của các chính đảng được tổ chức


ở các khu vực khác nhau trên thế giới trong năm 2009 (Hội nghị quốc tế do
Đảng Xã hội Ôxtrâylia đăng cai tổ chức ở Ôxtrâylia - tháng 4 năm 2009, Hội
thảo quốc tế các đảng cộng sản lần thứ XVIII do Đảng Lao động Bỉ tổ chức ở
Bỉ - tháng 5 năm 2009, Diễn đàn Sao Paulo của các đảng cánh tả tổ chức ở
Mêhicô - tháng 10 năm 2009, Hội thảo quốc tế lần thứ 21 do Đảng Tập hợp
dân chủ lập hiến Tuynidi tổ chức ở Tuynidi - tháng 10 năm 2009,…) đều cho
rằng: cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay là toàn diện và sâu sắc nhất kể từ
cuộc Đại suy thoái năm 1929 và xét về thực chất là cuộc khủng hoảng mang
tính hệ thống, động chạm đến mơ hình và triết lý phát triển chạy theo lợi nhuận
của chủ nghĩa tư bản với mâu thuẫn chủ yếu giữa tính chất xã hội của nền sản
xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Với mục đích chiếm đoạt lợi
nhuận tối đa, chủ nghĩa tư bản đang ngày càng tạo ra sự bất bình đẳng giữa các
nước, cũng như giữa các tầng lớp xã hội trong từng nước. Việc chạy theo lợi
nhuận tối đa cũng không tương hợp với bảo vệ môi trường và bảo vệ quyền
con người.

Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là xã hội mà đa số phải sống phụ thuộc vào
lợi ích và quyền lực của thiểu số, vẫn là xã hội vận hành trên cơ sở quan hệ bóc
lột và bị bóc lột giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Ở các nước phương
Tây hiện nay, đi đôi với khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động tăng, thì
mức độ bóc lột của giai cấp tư sản (thể hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư) cũng tăng
đáng kể. Chẳng hạn ở Mỹ, tỷ suất giá trị thặng dư trong các ngành sản xuất công
nghiệp mấy thập kỷ qua đã tăng như sau: năm 1950: 241,2%; năm 1960: 247,6%;
năm 1970: 255%; năm 1980: 289% và hiện nay trên dưới 300%. Ở Cộng hòa
Liên bang Đức và nhiều nước khác cũng có mức tăng tương tự.
Không chỉ ở các nước đang phát triển mà ngay trong lòng các nước tư
bản chủ nghĩa giàu sang nhất cũng có thế giới của người nghèo. Số người


sống dưới mức nghèo khổ hiện nay ở Mỹ khoảng 30 triệu, ở Tây Âu khoảng
40 triệu. Thuế má, thất nghiệp, các tệ nạn xã hội luôn luôn đeo đẳng trên lưng
người nghèo. Hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng mở rộng. Nói cách khác,
mặc dù giai cấp tư sản hiện nay có sự mềm dẻo nhất định trong việc làm dịu
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, nhưng đây vẫn chỉ là tùy nơi tùy lúc, còn
về cơ bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động vẫn ngày càng gay gắt và chứa
đựng sự bùng nổ xã hội. Hơn nữa, cho dù tầng lớp kinh doanh tư sản hiện đại
đã biết linh hoạt và đôi khi ứng phó có hiệu quả trước diễn biến của tình hình
kinh thế - xã hội nhưng cần thấy rằng: các lực lượng dân chủ, đội ngũ đông
đảo những người làm công ăn lương ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay
cũng đã khác trước. Họ hiểu biết hơn và có nhiều hình thức đấu tranh linh
hoạt hơn, nhưng cũng khơng kém phần mạnh mẽ hơn. Và điều này thực tế
đang tạo ra bên trong xã hội tư sản những cơ cấu mới và những quan hệ mới
khơng mang tính chất tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp của những người lao
động chống bóc lột và bất cơng ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay diễn ra
không chỉ trong khn khổ cấu trúc thượng tầng mà cịn ở cơ sở hạ tầng, làm
thay đổi nền móng xã hội, làm biến dạng chế độ tư sản. Để trở thành hiện đại,

chủ nghĩa tư bản đã cố gắng tự điều chỉnh để có thể thích nghi với thời đại,
nhưng cũng chính vì thế đã tự làm nảy sinh những vấn đế mới, ngồi ý muốn
của nó. Nó sẽ bị hút dần một cách không tự giác vào một trật tự xã hội mới,
trong đó chế độ tư hữu sẽ dần dần bị thay thế bởi chế độ công hữu trên cơ sở
cuộc đấu tranh giai cấp được tiến hành theo một cách thức mới. Từ sự phân
tích tình hình trên có thể đưa ra những nhận xét lớn sau đây:
Với chiến lược điều chỉnh đã chuyển hướng, nền kinh tế các nước tư bản
chủ nghĩa trở nên năng động hơn có hiệu quả rõ rệt hơn. Đặc biệt, nền kinh tế


tư bản chủ nghĩa đã “thích nghi” được và đang tìm cách “chung sống hịa
bình” với những căn bệnh đã thành mãn tính: lạm phát, thất nghiệp, thiếu hụt
ngân sách. Đây là sự thích nghi bên trong nền kinh tế.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại thích nghi được với bên ngoài, với những điều
kiện mới do đã lợi dụng được q trình tồn cầu hóa để mở rộng thị trường,
áp đặt các nước kém phát triển với những điều kiện ngày càng có lợi cho các
nước phát triển.
Những yếu tố bất ổn định trong bản thân nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
vẫn còn nguyên vẹn, những mâu thuẫn về kinh tế vẫn tiềm ẩn, những căn
bệnh của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn chưa có phương cứu chữa. Vì thế
dù gọi là chủ nghĩa tư bản hiện đại thì bản chất của nó vẫn là chủ nghĩa tư
bản để tiến lên một xã hội cao hơn - đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.



×