Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH tôn GIÁO ở VIỆT NAM ĐỒNG HÀNH CÙNG dân tộc TRÊN CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.65 KB, 16 trang )

TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC
TRÊN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, mỗi dân tộc đều có bản
sắc văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống riêng. Hiện nay, có trên 80% dân số
Việt Nam có thực hành các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Riêng tôn
giáo, hiện có trên 20 triệu tín đồ, trên 80 ngàn chức sắc, nhà tu hành và trên 25
ngàn cơ sở thờ tự.
Tôn giáo ở Việt Nam được hình thành và phát triển đa dạng, đồng thời có
những nét đặc thù riêng. Có những tôn giáo được du nhập từ bên ngoài vào và có
những tôn giáo nội sinh với những phương thức khác nhau. Các tôn giáo du nhập
có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, có nguồn gốc từ
phương Tây như Công giáo, Tin lành; các tôn giáo nội sinh như Cao đài, Phật giáo
Hòa Hảo... trong đó, có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, luật lệ, lễ nghi và
tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai thờ đa thần (tín ngưỡng dân
gian), có các tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định, có những tôn giáo đang
trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp. Về phân bố, có nơi tín đồ
sống thành cộng đồng riêng, có nơi sống đan xen trong cộng đồng dân cư.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo như nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự
đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt
Nam phong phú và đặc sắc.
Do các tôn giáo ở Việt Nam được hình thành, tồn tại và phát triển trong
những bối cảnh và dạng thức khác nhau, nên về phương diện chính trị - xã hội, các
tôn giáo Việt Nam chứa đựng 6 đặc điểm rất cơ bản và quan trọng, chính những
đặc điểm này đã tác động không nhỏ tới việc hoạch định đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo, tới phương pháp quản
lý nhà nước với hoạt động tôn giáo.
Một là, đại bộ phận tín đồ là nông dân và xuất thân từ nông dân, là lực lượng
chủ chốt của cách mạng trong khối liên minh công nông, cần cù lao động, có tinh



thần yêu thương gắn bó và tính cố kết cộng đồng lớn, nhưng trình độ dân trí chưa
cao, là đối tượng mà các lực lượng truyền giáo nhắm đến để phát triển tôn giáo, các
lực lượng thù địch nhắm đến để kích động, lôi kéo, mua chuộc chống lại cách
mạng.
Hai là, có tôn giáo chỉ có chủ yếu trong một dân tộc thiểu số, mà lịch sử
hình thành và phát triển của dân tộc ấy trong quá khứ có vấn đề tế nhị, nhạy cảm
về mặt quốc gia hoặc lãnh thổ. Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng vấn đề
này, kích động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại an ninh quốc gia (người H’
Mông theo đạo Tin lành và “Vương Quốc Mông”; người Chăm theo đạo Hồi và
“vương quốc Chăm pa”; người Khmer Nam bộ theo Phật giáo Nam tông Khmer và
vấn đề “vương quốc Chân lạp”). Đây là vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia và
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Ba là, có đội ngũ chức sắc đông đảo về số lượng; được tuyển chọn công phu
từ các cộng đồng tôn giáo; được đào tạo trong các cơ sở tôn giáo trong và ngoài
nước; có cuộc sống kinh tế đầy đủ và đời sống vật chất sung túc, đủ đáp ứng nhu
cầu tôn giáo của tín đồ. Đây là lực lượng nòng cốt của Giáo hội quyết định tới hiện
tại và tương lai của tôn giáo.
Bốn là, có mối quan hệ quốc tế rộng rãi với tất cả các tôn giáo trên thế giới
trong đó có những tôn giáo có ảnh hưởng nhất định tới các khuynh hướng chính trị
- xã hội của chính giới các nước đó và Liên Hợp quốc (như Tin lành ở Đức, Mỹ,
Hàn Quốc; Phật giáo và Thần đạo ở Nhật Bản; Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi;
Công giáo ở Mỹ la tinh…).
Năm là, đại bộ phận đồng bào các tôn giáo có lòng yêu nước, gắn bó với dân
tộc trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là tiền đề quan trọng và là yếu tố đưa
tới thành công của công tác vận động đồng bào các tôn giáo theo Đảng thực hiện
thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thống nhất đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Sáu là, tôn giáo luôn là lĩnh vực mà các thế lực thù địch với Việt Nam tìm
cách khai thác, lợi dụng để chống lại cách mạng Việt Nam qua mọi thời kỳ phát

triển của đất nước.


Chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam
Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16 tháng 10 năm 1990 của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VI “Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình hình mới” đã chỉ rõ quan điểm, nhiệm vụ và chính sách tôn giáo là: “Tôn giáo
là vấn đề tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của nhân dân”. Sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới đối với
tôn giáo, từ tổng kết thực tiễn, đồng thời xem xét những vấn đề mới nảy sinh, đặt
trong hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 Về công tác
tôn giáo. Nghị quyết số 25-NQ/TW là sự phát triển nâng cao và hoàn chỉnh Nghị
quyết 24-NQ/TW về đổi mới đối với công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Tư
tưởng đổi mới thể hiện qua các nội dung chủ yếu:
Về phương hướng: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn
mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về quan điểm, chủ trương có những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp
luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân

tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không


theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng
tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc với nhân dân. Nghiêm cấm sự
phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công
dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác
tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành,
các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính
trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công
tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố, kiện toàn.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành
đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc
Chủ trương của Nhà nước đối với việc tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia
xã hội hóa
Nghị quyết số 25/2003/NQ-TW ngày 12 tháng 03 năm 2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX nhấn mạnh: “Giải quyết việc tôn giáo tham gia
thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của
Nhà nước theo nguyên tắc: Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa
nhận tham gia phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và quy
định của pháp luật. Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với
tư cách công dân thì được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo

quy định của pháp luật.
Theo nguyên tắc trên, tổ chức, cá nhân tôn giáo được tham gia xã hội hoá
hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo với hai tư cách:
Với tư cách là tổ chức tôn giáo, hoặc là tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu
hành của một tổ chức tôn giáo thì được tham gia phù hợp với chức năng, nguyên


tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và qui định của pháp luật. Hoạt động của các tôn giáo
ngoài việc đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người còn hướng tới và tham gia vào
chức năng đối với xã hội, cùng với các chủ thể khác tham gia giải quyết các vấn đề
xã hội. Tham gia vào các hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo để giúp đỡ
những con người có hoàn cảnh đặc biệt chính là nhằm thực hiện chức năng đối với
xã hội của tôn giáo. Để thực hiện các chức năng đối với xã hội, các tôn giáo đều có
những qui định và tổ chức ra bộ máy, phân công nhân sự tổ chức thực hiện. Tuy
nhiên, mỗi tôn giáo thực hiện chức năng đó theo cách thức, mức độ khác nhau trên
cơ sở qui định của pháp luật.
Với tư cách một công dân, tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành được
tham gia như mọi công dân khác. Khi tham gia xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế,
từ thiện nhân đạo họ có quyền và trách nhiệm như mọi công dân. Việc phân định tư
cách của một con người cụ thể với tư cách là một công dân của Nhà nước và tư
cách là một tín đồ của một tổ chức tôn giáo là rất phức tạp. Việc phân định này phụ
thuộc vào chủ thể tham gia khi làm thủ tục đăng ký, xin phép.
Giáo lý, giáo luật của các tôn giáo đều khuyên răn tín đồ làm việc thiện, coi
đó như là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của người có đạo
Trong giáo lý, giáo luật, các tôn giáo luôn đề cao các giá trị đạo đức, khuyên
răn con người làm việc thiện, hướng con người đến “ Chân, Thiện, Mỹ”. Chính vì
vậy mà tôn giáo mới có sức hấp dẫn, lay động lòng người, gắn bó với con người
không chỉ bằng niềm tin thiêng liêng, cao cả, mà còn vì tính thế tục của nó. Tôn giáo
vì thế có sức sống lâu dài trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Phật giáo với một giáo lý có tính thống nhất, hoà hợp và nâng đỡ con người

được thể hiện trong “Tứ vô lượng tâm” tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đó chính là bốn đức
độ bao la không ranh giới, bao trùm tất cả chúng sinh.
Đạo Công giáo đề cao lòng bác ái, vị tha và được khái quát bằng lời dạy của
Đức Chúa Trời “yêu người như mình ta vậy”. Đó là tình yêu quên mình, tình yêu
vô vị lợi.


Đạo Tin lành coi hoạt động từ thiện nhân đạo như là một “sứ mệnh thuộc
linh” và là sự “thực hành về đạo đức”.
Đạo Cao đài cũng đề cao Công bình, Bác ái, Từ bi với mục đích cứu khổ
chúng sinh, tạo dựng Niết bàn cực lạc tại thế gian này.
Phật giáo Hoà hảo chủ trương “Học Phật Tu nhân” lấy việc báo đáp Tứ ân
(ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân đồng bào nhân loại, ân tam bảo) làm căn bản
của việc tu hành.
Xuất phát từ lòng thương người, lấy việc phục vụ, hy sinh vì con người làm
mục đích, lý tưởng của đời tu nên các tổ chức, cá nhân tôn giáo rất coi trọng và
tích cực làm việc từ thiện nhân đạo. Các cơ sở tôn giáo luôn sẵn sàng cưu mang,
che chở cho những số phận bất hạnh, cơ nhỡ, lang thang, không nơi nương tựa.
Ngày nay có hàng trăm cơ sở chăm sóc người già cô đơn, không nơi nương tựa,
trẻ em mồ côi, cơ nhỡ, người tàn tật, bệnh nhân phong, tâm thần, người bị HIV/AIDS;
hàng trăm sơ sở giáo dục mầm non, lớp học tình thương, cơ sở khám chữa bệnh nhân
đạo do các cơ sở tôn giáo tổ chức. Có những nữ tu Công giáo trọn cả cuộc đời gắn với
các trại phong cùi, cô nhi viện, sống cuộc đời tận hiến, phục vụ tha nhân không một
sự tính toán, đòi hỏi cho bản thân.
Mỗi khi đồng bào gặp hoạn nạn, thiên tai, các tổ chức, cá nhân tôn giáo luôn
giang rộng vòng tay nhân ái, giúp đỡ, với tinh thần “lá lánh đùm lá rách”, giúp
nhau qua cơn hoạn nạn.
Cùng với những lời răn dạy trong giáo lý, giáo luật các tôn giáo còn đặt ra
những quy định để tổ chức và cá nhân tôn giáo thực hiện. Trong 6 nguyên tắc đối
nhân xử thế (Hạnh lục độ) của nhà Phật, “ bố thí” là một nguyên tắc quan trọng.

Mỗi Phật tử thực hành bố thí như là một hạnh đầu tiên phải làm để đi vào con
đường chân chính. Cùng với việc thực hiện 6 nguyên tắc, những tín đồ xuất gia của
đạo Phật còn phải thực hiện “Lục hoà”. Những lợi ích thu được phải thực hiện
“Lợi hoà đồng quân”.
Đối với Đạo Công giáo, ngoài việc thực hiện 10 điều răn của Thiên Chúa,
các giáo dân còn phải thực hiện các qui định của Giáo hội. Trong quan hệ với


đồng đạo và đồng loại, Giáo hội qui định phải lấy điều thiện mà khuyên người;
hướng dẫn cho kẻ mê muội; cho kẻ đói ăn; cho kẻ khát uống; cho kẻ rách mặc; cho
khách ở nhờ; viếng thăm người hoạn nạn;...
Tương tự với 2 tôn giáo trên, đạo Cao đài hướng dẫn tín đồ “Tu nhân đạo”,
lấy “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và trung hiếu làm căn bản”. Nhân đạo chính là đạo làm
người, “thương yêu người đói khổ, tật nguyền, hoạn nạn như thương mình vậy,
chẳng luận bà con hay người dưng”; làm tròn bổn phận đối với bản thân, với gia
đình và xã hội.
Đối với Phật giáo Hoà hảo, Đức giáo chủ Huỳnh Phú Sổ răn dạy tín đồ:
“Không nên đốt giấy tiền, vàng, bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cõi Diêm
Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta mà cũng không xài được nữa, phải để tiền
lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật”...
Đặc biệt với thuyết nhân quả, “Gieo nhân nào, trời trao quả ấy”, “ở hiền, gặp
lành”, “ác giả, ác báo”, là những lời cảnh báo, những lời răn dạy trong ứng xử giữa
con người với con người, giữa con người với tự nhiên và xã hội. Những lời răn dạy
này đã có những tác động không nhỏ trong hành vi ứng xử của con người. Ai cũng
mong muốn những điều may mắn, tốt đẹp đến với mình và để có được điều đó thì
trước tiên thì họ phải là người có suy nghĩ, hành động đúng, phải làm những việc
thiện, những việc có ích cho đời, cho người.
Thực trạng tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa
trong hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo
Tham gia hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo là một chức năng xã

hội quan trọng của tôn giáo; gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của mỗi tổ
chức tôn giáo. Do đó, không phải đến khi Đảng, Nhà nước có chủ trương xã hội
hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực giáo dục, y tế thì tổ
chức, cá nhân tôn giáo mới tham gia.
Trước năm 1975, các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã tham gia hoạt động giáo
dục, y tế, từ thiện nhân đạo dưới nhiều hình thức như thành lập các trường cấp I,
cấp II (Trường Bồ Đề của Phật giáo, trường tư thục cấp I, II, III của đạo Công giáo


và một số trường đại học như Đại học Công giáo Đà Lạt, Đại học Công giáo Huế,
Đại học Minh Đức Sài Gòn, Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn; Trường trung tiểu học
Bet Le Hem của Tin lành ở Nha Trang); nhiều cơ sở khám chữa bệnh từ thiện nhân
đạo, tuệ tĩnh đường của Phật giáo, bệnh viện, trung tâm bảo trợ xã hội của các tôn
giáo ra đời và hoạt động khá hiệu quả.
Sau năm 1975, nhiều cơ sở giáo dục, cơ sở khám, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã
hội của các tôn giáo được Nhà nước quản lý và sử dụng vào mục đích công cộng.
Hoạt động giáo dục, y tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong thời kỳ này tạm
thời lắng xuống, một số hoạt động chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, tự phát. Hoạt động xã
hội chủ yếu của các tổ chức, cá nhân tôn giáo thời kỳ này là hỗ trợ các hoạt động
giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo dưới hình thức gián tiếp, thông qua các cơ quan nhà
nước, các tổ chức đoàn thể, mặt trận các cấp.
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, đặc biệt là sau khi có chủ trương khuyến khích
mọi tổ chức, cá nhân tham gia xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân
đạo của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia, dấn thân ngày càng
mạnh mẽ vào các hoạt động này.
Mục đích, hình thức tham gia xã hội hóa
Tham gia xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, các tổ chức,
cá nhân tôn giáo đều hướng tới một mục đích chung là nhằm giúp đỡ những người
có hoàn cảnh đặc biệt, không có khả năng, điều kiện để có thể sống một cuộc sống
bình thường như mọi người. Bằng những việc làm cụ thể, tổ chức, cá nhân tôn giáo

muốn góp phần làm vơi bớt những khó khăn về vật chất và tinh thần của những
người được thụ hưởng, qua đó giúp họ vượt qua những thử thách của cuộc sống.
Nhìn chung, việc tham gia chủ trương xã hội hoá của các tổ chức, cá nhân tôn giáo
xuất phát từ bản chất hướng thiện, phi lợi nhuận.
Thực hiện mục đích trên đây, hoạt động xã hội hóa của tổ chức, cá nhân tôn
giáo được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Có thể trực tiếp
mở (thành lập) các trường, lớp mầm non tư thục; trung tâm dạy nghề; trung tâm
nuôi dạy trẻ mồ côi, chăm sóc trẻ khuyết tật; các trại dưỡng lão; các trung tâm


chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; các cơ sở khám chữa
bệnh đông y, tây y hoặc đông tây y kết hợp; các nhà thuốc, tủ thuốc; thăm, tặng quà
những gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, cứu trợ bão lụt, thiên tai, bệnh nhân chất độc
màu da cam; tổ chức các nồi cháo tình thương, phích nước sôi miễn phí cho người
nghèo tại các bệnh viện; thành lập quỹ khuyến học ,…hoặc gián tiếp thông qua các
cơ quan, tổ chức đoàn thể của Nhà nước tham gia vào các hoạt động xã hội như: hỗ
trợ học bổng, học phí để giúp đỡ con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn; tham
gia đóng góp cứu trợ đồng bào trong các trận bão lụt, thiên tai; thông qua chính
quyền địa phương hỗ trợ kinh phí để xây, sửa trường lớp, khoan giếng nước sạch,
làm cầu, đường, tặng nhà tình nghĩa, tình thương...
Với mục đích hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận, hình thức tổ chức, lĩnh
vực tham gia phong phú, hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo mang lại
những kết quả, hiệu quả quan trọng.
Kết quả tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia xã hội hoá
Với tính chất hoạt động thường xuyên, không tổng kết, đánh giá nhằm mục
đích khuyếch trương, lấy thành tích; với tinh thần hoạt động “tay phải làm tay trái
không biết”, hoạt động không phải để người ta trả ơn, nên việc thống kê kết quả
hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của tổ chức, cá nhân tôn giáo là rất khó
khăn, số liệu từ các nguồn thiếu thống nhất. Mặc dù vậy, kết quả hoạt động của các
tổ chức, cá nhân tôn giáo những năm qua mang lại cho xã hội là không thể phủ

nhận.
Đối tượng thụ hưởng và kinh phí thực hiện
Qua khảo sát hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo cho thấy, đối
tượng mà các tổ chức, cá nhân tôn giáo hướng tới rất đa dạng, không có sự phân
biệt. Hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo do tổ chức, cá nhân tôn giáo thực
hiện không chỉ hướng đến những người có tín ngưỡng, tôn giáo của tổ chức tôn
giáo mình mà bao gồm cả những người không có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc có tín
ngưỡng, tôn giáo khác.


Đối tượng được quan tâm nhất thường là trẻ em khuyết tật, mồ côi; người
già cô đơn, không nơi nương tựa; những người bị nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân
phong, tâm thần, những thương bệnh binh chiến tranh; những đối tượng mà chính
quyền địa phương, tổ chức, cá nhân khác vì nhiều nguyên nhân khác nhau chưa có
điều kiện quan tâm đầy đủ.
Để thực hiện các hoạt động trên, nguồn kinh phí mà tổ chức, cá nhân tôn
giáo thực hiện được quyên góp từ nhiều nguồn: từ sự đóng góp tự nguyện, lòng
hảo tâm của tín đồ, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; nguồn tự sản xuất
của các cơ sở tôn giáo và nguồn thu từ các hoạt động giáo dục, khám chữa bệnh
như tiền học phí, tiền khám bệnh, tiền thuốc. Nguồn kinh phí này có thể là tiền, có
thể là hiện vật như xe lăn, thuốc chữa bệnh, quần áo, chăn màn, sách vở, lương
thực, thực phẩm,…
Thuận lợi, khó khăn
Tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện chủ trương xã hội hoá có nhiều thuận
lợi. Những đặc điểm của tôn giáo như đã trình bày ở trên là điều kiện quan trọng
để tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các hoạt động này. Ngoài ra, khi thực hiện, tổ
chức, cá nhân tôn giáo còn có được những thuận lợi cơ bản sau đây:
Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo hầu hết là những người đã xuất gia,
chuyên lo hoạt động tôn giáo, hoạt động xã hội, không bị vướng bận nhiều về gia
đình riêng do đó có nhiều thời gian và tâm trí dành cho các hoạt động mang tính

chất nhân đạo, xã hội.
Hoạt động tôn giáo do tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện liên quan đến vấn
đề tâm linh của con người, nên rất nhiều tổ chức, cá nhân muốn thông qua tổ chức,
cá nhân tôn giáo để làm việc thiện, và mong muốn sẽ nhận được sự may mắn, bình
an trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Tham gia chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo
vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm đối với mỗi tín đồ tôn giáo. Các hoạt động đều
mang tính tự nguyện, không vụ lợi nên họ có trách nhiệm với công việc. Những
công việc họ làm mang lại những kết quả, hiệu quả thiết thực đã tạo được niềm tin


với mọi người. Khi họ tổ chức các hoạt động mang tính chất nhân đạo, từ thiện
được mọi người tin tưởng và ủng hộ.
Khi thực hiện chủ trương xã hội hoá, các tổ chức, cá nhân tôn giáo còn gặp
phải một số khó khăn, bất cập sau:
Thiếu những thông tin, hiểu biết đầy đủ về chủ trương xã hội hóa hoạt động
giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo của Đảng và Nhà nước.
Chính sách của Nhà nước đối với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục,
y tế, từ thiện nhân đạo hiện nay còn thiếu cụ thể, rõ ràng.
Một số cấp chính quyền địa phương chưa thực sự khuyến khích, tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia các chủ trương này, thậm chí có nơi
còn e ngại.
Nhìn chung, nhân sự tại các cơ sở giáo dục, cơ cở y tế của tổ chức tôn giáo
vừa thiếu, vừa yếu. Khi mở các cơ sở giáo dục, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức tôn
giáo chủ yếu phải sử dụng giáo viên, bác sĩ đang làm việc trong các cơ quan nhà
nước hoặc những người đã nghỉ hưu với nhiều hình thức mà chủ yếu là tự nguyện
không hưởng lương hoặc tiền công mang ý nghĩa tượng trưng, nhất là các cơ sở y
tế.
Cơ sở vật chất để thực hiện các hoạt động này còn rất hạn hẹp, nhiều nơi

chưa đáp ứng theo qui định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo có rất ít cơ sở riêng
để thực hiện các hoạt động này, thông thường họ phải sử dụng khuôn viên cơ sở
thờ tự để thực hiện các hoạt động xã hội. Tại nhiều Chùa Phật giáo Nam tông được
sử dụng là nơi dạy học, các cơ sở của Tịnh độ cư sĩ cũng là phòng thuốc nam, các
trụ sở dòng tu đạo Công giáo là lớp mầm non, phòng khám chữa bệnh… Với việc
sử dụng cơ sở thờ tự làm nơi dạy học, rất khó thực hiện nguyên tắc trong quản lý
hoạt động giáo dục đó là: “Tách nhà thờ khỏi trường học” .
Kinh phí chủ yếu để thực hiện chủ trương xã hội hóa có được từ sự tự
nguyện đóng góp của tổ chức, cá nhân, nên nguồn kinh phí này thiếu ổn định, khó
khăn cho việc hoạt động. Một số địa phương do lo ngại việc thành lập trung tâm


bảo trợ xã hội của tôn giáo trên địa bàn nguồn kinh phí hoạt động không ổn định,
có thể để lại gánh nặng cho địa phương nên từ chối cấp phép thành lập trung tâm.
Những vấn đề đặt ra cần quan tâm
Thực hiện giáo lý, giáo luật của tôn giáo, với mục đích nhân đạo, phi lợi
nhuận, việc tham gia chủ trương xã hội hoá của tổ chức, cá nhân tôn giáo cơ bản
mang yếu tố tích cực. Có thể kể tới một số điểm nổi bật sau:
Đối tượng mà tổ chức, cá nhân tôn giáo hướng tới thường là những thành
phần “ dễ bị tổn thương”, những đối tượng thiệt thòi trong xã hội, đặc biệt là những
đối tượng do nhiều nguyên nhân khác nhau chưa được các cấp chính quyền, đoàn
thể của Nhà nước quan tâm đầy đủ. Với sự giúp đỡ của tổ chức, cá nhân tôn giáo,
nhiều trẻ em đã được cắp sách tới trường; nhiều cụ già cô đơn không nơi nương tựa
được sống vui vẻ trong phần còn lại của cuộc đời; nhiều con người lầm lỡ đã được
cứu vớt, được làm lại cuộc đời; nhiều bệnh nhân đã được chăm sóc, nuôi dưỡng,
chữa lành bệnh; nhiều thanh niên đã học được nghề phù hợp và có việc làm, thu
nhập ổn định...
Trong khi nhiều cơ sở giáo dục, cơ sở y tế công lập còn nhiều hạn chế, đặc
biệt là về thái độ phục vụ, về thu phí, chất lượng phục vụ... thì nhiều cơ sở giáo
dục, khám chữa bệnh của tôn giáo đã tạo được niềm tin với người dân. Rất nhiều

cơ sở giáo dục của tôn giáo không chỉ thu hút con em là người có đạo mà cả con
em của cán bộ, công chức vì sự nhiệt tình, chu đáo, tận tuỵ, hết lòng với công việc,
không kể thời gian của đội ngũ giáo viên. Nhiều cơ sở y tế không chỉ là nơi khám
chữa bệnh ban đầu bằng các phương tiện kỹ thuật mà còn là nơi chăm sóc, điều trị
bằng “ liệu pháp tinh thần”, giúp bệnh nhân mau lành bệnh. Người đến học, đến
khám chữa bệnh tại cơ sở của tôn giáo không chỉ được học chữ, học văn hoá, được
chữa bệnh mà còn được học làm người, học được tình yêu thương, chia sẻ giữa con
người với con người.
Bằng các hoạt động từ thiện nhân đạo, tổ chức, cá nhân tôn giáo đã thu hút
được một nguồn nhân lực, vật lực, tài lực đáng kể trong xã hội để góp phần thực
hiện chủ trương xã hội hoá của Nhà nước; chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước, với


xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế và giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt
ra. Với hoạt động đầy tính nhân văn của mình, các tổ chức, cá nhân tôn giáo góp
phần tô đậm, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt
Nam.
Hạn chế, tiêu cực:
Khi tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện chủ trương xã hội hoá, bên cạnh
những yếu tố tích cực đáng ghi nhận và cần phát huy, còn một số vấn đề đang đặt
ra trong công tác quản lý nhà nước cần quan tâm đó là:
Hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo nhìn chung còn mang tính tự phát,
chưa đặt dưới sự hướng dẫn, quản lý của Nhà nước.
Ngoài mục đích nhân đạo, tổ chức, cá nhân tôn giáo còn muốn thông qua
hoạt động này để quảng bá, khuyếch trương thanh thế tôn giáo của mình; từ các
hoạt động này để thu hút quần chúng tín đồ, truyền đạo, phát triển đạo. Một linh
mục ở Nha Trang cho rằng "20 năm làm linh mục, dâng biết bao nhiêu lễ, giảng
biết bao nhiêu bài nhưng có lẽ chẳng đưa được ai trở lại đạo, nhưng khi mở phòng
khám từ thiện thì có ngày 2 - 3 người đến xin tòng giáo"1.
Do tranh giành ảnh hưởng để phát triển tín đồ nên tại một số địa bàn cơ sở

đã có hiện tượng mâu thuẫn giữa tôn giáo địa phương với tôn giáo đến hoạt động.
Tuy mâu thuẫn chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng cũng là một trong những vấn
đề cần quan tâm trong công tác tôn giáo.
Một số cá nhân còn lợi dụng các hoạt động này để trục lợi, gây bất bình
trong một bộ phận đồng bào có đạo.
Rất nhiều cơ sở giáo dục của tổ chức, cá nhân tôn giáo nằm trong khuôn
viên cơ sở tôn giáo, nên khó có thể tránh khỏi những ảnh hưởng của tôn giáo. Đặc
biệt, đối tượng học tập thường là các cháu trong độ tuổi mầm non, việc giáo dục
định hướng cho các cháu ở độ tuổi này rất quan trọng. Tại các cơ sở giáo dục của
tổ chức, cá nhân tôn giáo không chỉ có chăm sóc, dạy dỗ những kiến thức văn hoá
1 Uỷ ban Đoàn kết Công giáo, Nửa thế kỷ người Công giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, Nxb Thế giới, Hà
Nội, 2005, tr. 104.


cho các cháu, mà bằng nhiều hình thức còn truyền bá các tư tưởng, giá trị tôn giáo.
Điều này trái với quy định của Luật Giáo dục hiện hành là: không được truyền bá
tôn giáo tại các cơ sở giáo dục.
Trong hoạt động giáo dục, y tế nhiều cơ sở không đáp ứng các điều kiện về
cơ sở vật chất, con người theo qui định của pháp luật. Trang thiết bị y tế, đồ dùng
dạy học thường lạc hậu, giá trị sử dụng thấp, có những thiết bị y tế nước ngoài
không sử dụng nữa các tôn giáo vẫn cho nhập về để tiếp tục sử dụng; thuốc sử
dụng có loại gần hết hoặc đã hết hạn sử dụng; nhiều đoàn khám chữa bệnh lưu
động của tôn giáo hoạt động không xin phép chính quyền nơi tổ chức, có người
không có chuyên môn về y tế...
Nhu cầu tăng cường, mở rộng các hoạt động giáo dục, y tế, các trung tâm
bảo trợ xã hội của tôn giáo tất yếu phát sinh nhu cầu về đất đai; một số tổ chức tôn
giáo xin lại các cơ sở tôn giáo Nhà nước đang quản lý, sử dụng, tạo nên những vấn
đề phức tạp về quản lý và sử dụng đất ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Thực trạng quản lý nhà nước đối với việc tổ chức, cá nhân tôn giáo tham
gia chủ trương xã hội hoá

Trong những năm qua, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo đã được tổ chức
quán triệt đến các cấp, các ngành. Tại nhiều địa phương, chủ trương trên đã được
nghiên cứu, vận dụng để hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân tôn giáo thực hiện. Nhiều
nguồn lực to lớn của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã được huy động có hiệu quả.
Bên cạnh những mặt mạnh, những kết quả trong công tác quản lý nhà nước
đối với việc tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hoá, tại một số
địa phương, hiện nay việc triển khai công tác này còn gặp nhiều lúng túng. Qua
nghiên cứu, khảo sát cho thấy, nhận thức về việc tổ chức, cá nhân tôn giáo tham
gia chủ trương xã hội hoá tại các địa phương, một số cấp, ngành và các vùng, miền
còn rất khác nhau. Do nhận thức khác nhau nên sự quan tâm, tạo điều kiện tại các
địa phương, các vùng miền cũng khác nhau.


Do nhận thức thiếu thống nhất nên công tác quản lý nhà nước đối với các
hoạt động này cũng thiếu thống nhất, vừa có biểu hiện hạn chế, vừa có biểu hiện
buông lỏng.
Một số nơi cho rằng hoạt động giáo dục, y tế không thuộc chức năng của tôn
giáo, định kiến với tôn giáo, gắn các hoạt động này với vấn đề chính trị, an ninh, trật
tự xã hội, lo ngại tôn giáo lợi dụng các hoạt động này để phát triển đạo, hoạt động
trái pháp luật nên hạn chế, cản trở không cho họ tham gia.
Có nơi lại cho rằng, việc tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia vào các hoạt
động xã hội hoá vừa phù hợp với chức năng của tôn giáo, vừa đúng với chủ trương
của Đảng, Nhà nước nên tạo điều kiện cho họ thực hiện.
Có nơi không rõ chủ trương này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tôn giáo
như thế nào nên để mặc cho họ hoạt động, không khuyến khích nhưng cũng không
ngăn cấm. Một số tổ chức cá nhân tôn giáo làm thủ tục xin thành lập cơ sở giáo
dục, cơ sở khám chữa bệnh, trung tâm dạy nghề, nhà dưỡng lão... địa phương
không thể hiện thái độ đồng ý hay không đồng ý và khi họ hoạt động thì thờ ơ như
không biết, để mặc cho họ tự do hoạt động, không quản lý. Hoạt động của tổ chức,

cá nhân tôn giáo hoạt động trên địa bàn, cơ quan chức năng, chính quyền cơ sở
không nắm được, không quản lý được.
Có những cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoạt động
nhưng sau khi cho phép lại thiếu các hoạt động kiểm tra, giám sát, buông lỏng
quản lý.
Nhiều địa phương muốn khuyến khích, tạo điều kiện để cho tổ chức, cá nhân
tôn giáo thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội, trung tâm dạy nghề, cơ sở khám, chữa
bệnh tại địa phương nhưng lại lúng túng trong việc xắp xếp quĩ đất cho các hoạt
động này. Thậm chí, một số địa phương do lo ngại việc thành lập các cơ sở từ thiện
nhân đạo chỉ là hình thức để đòi lại đất đai, cơ sở tôn giáo trước đây Nhà nước đã
giao cho người khác quản lý, sử dụng nên không quan tâm xem xét tới đề nghị của
tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Trong quản lý, những gương người tốt, việc tốt của các tổ chức, cá nhân tôn
giáo chưa được biểu dương, khen thưởng kịp thời, không tạo được sự phấn khởi,


khích lệ tổ chức, cá nhân tôn giáo dấn thân vào các hoạt động xã hội. Những hành
vi vi phạm của tổ chức, cá nhân tôn giáo không được uốn nắn, xử lý kiên quyết.
Thực trạng trên đây đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát huy vai trò
của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá và hiệu
lực quản lý của Nhà nước trong công tác này.
Xã hội hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực giáo dục, y
tế, từ thiện nhân đạo là một xu thế khách quan trong môi trường hội nhập quốc tế ở
nước ta hiện nay. Tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa chính là biểu hiện cụ thể
của xu thế đồng hành cùng dân tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ
trương xã hội hoá của Đảng, Nhà nước được các tổ chức, cá nhân tôn giáo hết sức
quan tâm và tham gia một cách tích cực vì nó phù hợp với tôn chỉ mục đích của tôn
giáo. Hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo đã mang lại những kết quả, hiệu quả
đáng khích lệ. Trong những năm tới, để phát huy hơn nữa vai trò, tiềm năng của các
tôn giáo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, các cấp, các ngành và các

địa phương cần thống nhất nhận thức về chính sách của Nhà nước và quan tâm bảo
đảm cho các tổ chức tôn giáo tham gia chủ trương này một cách bình đẳng theo quy
định pháp luật./.



×