Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa mác lê nin TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.04 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử, sự ra đời của chế độ tư hữu đến đã dẫn
đến sự xuất hiện của giai cấp trong xã hội và sự phân chia địa vị
trong hệ thống sản xuất đó. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp,
các cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng diễn ra lúc ngấm ngầm,
lúc công khai, quan hệ giữa người và người đã thay đổi về căn bản.
Trước C. Mác, đã cố nhiều học giả nghiên cứu và phản ánh vấn đề
này trong nhiều tác phẩm văn học hay sử học. Tất nhiên đó là
những tri thức không đầy đủ. Đứng trên lập trường duy vật lịch sử,
C. Mác đã đưa ra lý luận khoa học về vấn đề giai cấp và đấu tranh
giai cấp một cách đầy đủ và đúng đắn.
Tuy nhiên, Học thuyết đấu đấu tranh giai cấp của C. Mác ra đời
vào thế kỷ XIX, chính điều này đã tạo cơ hội cho các thế lực thù
địch lợi dụng để phủ nhận vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp của
chủ nghĩa Mác, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp càng trở nên
phức tạp vì những sự biến đổi to lớn trên phương diện quốc tế.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão đã
tạo nên những bước nhảy vọt về lực lượng sản xuất làm ảnh hưởng
tới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã
làm thay đổi cơ cấu ngành nghề bên trong mỗi nước và trên cả
phương diện quốc tế, đẩy nhanh quá trình quá trình quốc tế hóa tư

1


bản chủ nghĩa. Điều đó đã tạo nên sự thay đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp ở mỗi nước và ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa các nước, giữa
các khu vực khác nhau. Kết cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất
phức tạp. Nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo


hướng không thuần nhất trong nội bộ giai cấp. Số lượng công nhân
kỹ thuậtcao, lao động trí tuệ hóa ngày càng tăng, trở thành một bộ
phận tiêu biểu của giai cấp công nhân hiện đại, công nhân truyền
thống giảm dần thành bộ phận nhỏ, công nhân làm việc trong câc
lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng. Một số công nhân
đa có điều kiện tham gia công ty cổ phần...Sự điều chỉnh nhất định
về quan hệ sản xuất làm cho một số người lầm tưởng rằng chủ
nghĩa tư bản đã thay đổi về bản chất và giai cấp công nhân không
còn sứ mệnh lịch sử giải phóng nhân loại nữa.
Ngày nay, nhiều vấn đề đựt ra đòi hỏi sự tập trung trí tuệ, sức
người, sức của của nhiều quốc gia khác nhau để cùng giải quyết
những vấn đề có tính chất toàn cầu như: vấn đề môi trường, dân
số, chiến tranh hạt nhân, dịch bệnh, đói nghèo, tệ nạn xã
hội...Những vấn đề trên đã làm không ít người cho rằng, ngày nay,
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành lỗi thời, hoặc ít
ra cũng bị dưa xuống hàng thứ yếu.
Mặt khác, có một số ý kiến cho rằng, để đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ mới của cách mạng, cần phải bổ sung, phát triển học thuyết đấu
rtranh giai cấp của Mác-Lê nin. Theo các ý kiến đó. Học thuyết

2


đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã có thiếu sót khi coi
đấu tranh giai cấp là tuyệt đối, mà không coi trọng sự thống n dhất.
Họ quan niệm cho rằng, điều đó chỉ đúng trong điều kiện trước đây
và chỉ là sách lược; rằng trong bối cảnh quốc tế hiện nay, không
thể nói đến đấu tranh giai cấp nữa mà chỉ nên nói đến sự hòa hợp
giữa các giai cấp mới xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.

Lại có quan điểm cho rằng trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần thì không nên đặt vấn đề đấu tranh giai cấp vì nó
sẽ dẫn đến phân tán lực lượng, chia rẽ lực lượng..
Các quan điểm nêu trên là sai lầm, hoặc cố tình bôi nhọ chủ
nghĩa Mác-Lê nin, hoặc không hiểu tinh thần, bản chất của học
thuyết Mác. Đấu tranh giai cấp là tất yếu khách quan trong xã hội
có giai cấp. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội Việt Nam hiện nay
không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp,
không còn đấu tranh giai cấp. Nhưng cũng sẽ là sai lầm nếu phân
chia các giai cấp trong xã hội thành hai lực lượng đối lập. Việc
nhận thức đúng đắn tính chất, nội dung cuộc đấu tranh giai cấp ở
nước ta hiện nay sẽ giúp nay sẽ giúp chúng ta xử lý một cách khoa
học mối quan hệ xã hội-giai cấp, đưa công cuộc đổi mới tiến lên.
Hiểu và vận dụng vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam hiện nay như thế nào là một vấn đề vô cùng cấp thiết, có ý
nghĩa đói với xã hôi. Chính vì vậy hiện em chọn đề tài: "Giai cấp

3


và vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay"
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu tiểu luận
4. Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Trên cơ sở nghiên cứu Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp
của chủ nghĩa Mác-Lê nin, để từ đó vận dụng vào xem xét vấn đề
Giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp cuả tiểu luận
6. Phương pháp nghiên cứu và kết cấu của tiểu luận:
*Phương pháp luận: Tiểu luận sử dụng Phương pháp luận của

Chủ nnghiax Mác-Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
*Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phối hợp một số phương pháp khi nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích tổng hợp
các nguồn tài liệu khác nhau để rút ra những luận điểm quan trọng,
Phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử-logic...
* Kết cấu của tiểu luận:
Phần mở đầu
Phần nội dung ( Gồm 2 chương)
Chương 1: Cơ sở Triết học của đề tài
Chương 2: Vận dụng học thuyết vào xem xét thực tế nước ta hiện
nay.
Phần kết luân

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM MÁC XÍT VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU
TRANH GIAI CẤP
1. Quan điểm Mác xít về Giai cấp
1.1. Giai cấp là gì?
Từ thời cổ đại đến nay, xã hội bị phân chia thành các giai cấp đói
lập nhau:


Chủ nô và nô lệ trong xã hôi cổ đại




Phong kiến và nông nô trong xã hội trung cổ



Tư sản và vô sản trong xã hội cận đại và đương đại
Ngoài ra còn có các tầng lớp, các nhóm xã hội gắn bó với giai cấp
này hay giai cấp khác.
Trước C.mác đã có những tác phẩm nổi tiếng viêt về đề tài giai
cấp. Phần lớn các " Lý thuyết phân tầng" của xã hội học tư sản hiện
đại thừa nhận sự tồn tại thực tế của các giai cấp. Những ngừ tại của
các gai cấp chỉ chiếm số ít trong các nhà khoa học tư sản. Song đối
với câu hỏi " Giai cấp là gì" thì các lý thuyết xã hội phi Mác xít
đều trả lời một cách mư hồ, không đi vào đặ trưng cơ bản nhất.
Quan điểm duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của C.
Mác là cơ sở lý luận khoa học, làm sáng tỏ bản chất của quan hệ
giai cấp.
Năm 1919, trong tác phẩm " Sáng kiến vĩ đại", V. I. Lê nin đưa

5


ra định nghĩa về Giai cấp như sau: " Người ta gọi là giai cấp,
những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ ( thường thường những quan hệ này
được pháp luật quy định và thừa nhận), đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy
là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn

khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế-xã hội nhất định".
Qua định nghĩa trên cho thấy: Nói đến giai cấp chúng ta không nói
đến một tập đoàn người riêng lẻ mà nói đến hệ thống các tập đoàn
người trong một chế độ kinh tế-xã hội nhất định, do chế đọ ấy sản
sinh ra. Vì vây giai cấp thường dùng ở số nhiều: Các giai cấp.
1.2. Đặc trưng của giai cấp
Giai cấp không phải là một phạm trù xã hội thông thường mà là
phạm trù kinh tế-xã hội có tính lịch sử. Giai cấp không phải là sản
phẩm của sản xuất nói chung mà là sản phẩm của những hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp
tương ứng với một hệ thống sản xuất xã hội, về bản chất là thể
thống nhất của các mặt đối lập. Nói đến giai cấp là nói đến sự khác
nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế-

6


xã hội nhất định. Trong hệ thống kinh tế đó, tập đoàn này là thống
trị, tập đoàn này người kia là bị trị. Đây là các giai cấp và đây cũng
là đặc trưng chung nhất. Tuy nhiên, ta hiểu địa vị này không đơn
giản là người tổ chức người chấp hành mà bao gồm hàng loạt các
mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất, là tổng hợp các
quan hệ vật chất cụ thể khách quan. Khái quát lại, địa vị khác nhau
của tập đoàn người trong một quan hệ kinh tế-xã hội nhất định
được thể hiện qua ba mặt trong quá trình sản xuất như sau:
- Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Đây là sự khác
nhau cơ bản nhất. Những tập đoàn giữ đại vị thống trị trong hệ
thống kinh tế xã hội trước hết là do các tâp đoàn này chiếm hữu tư
liệu sản xuất xã hội, tức là nắm do họ nắm được phương tiện, điều

kiện vật chất quan trọng nhất để chi phối lao động của các tập đoàn
người không có hoặc có ít tư liệu sản xuất.
- Khác nhau về vai trò của trong tổ chức lao động xã hội, trong
tổ chức quản lý sản xuất. Tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất
đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy hoạt động sản xuất và
lưu thông trên quy mô toàn xã hội cũng như từng đơn vị kinh tế.
Chẳng hạn trong xã hội tư bản chủ nghĩa, vai trò, chức năng quản
lý công nghiệp và các ngành kinh tế khác không thể không thuộc
về nhà tư bản.
- Khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội. Là người
chiếm hữu tư liệu sản xuất và tổ chức, lãnh đạo sản xuất, tập đoàn

7


thống trị đủ điều kiện thực hiện mục đích của mình trong sản xuất
kinh tế là chiếm đoạt giá trị thặng dư của các giai cấp lao động.
Chế độ phân phối sản phẩm trong các xã hội có giai cấp đối kháng
là chế độ phân phối bất công, vì nó đảm bảo cho giai cấp thống trị
chiếm hữu phần của cải lớn của xã hội; còn giai cấp lao động chỉ
nhận được một phần ít ỏi của cải dưới hình thức này hay hình thức
khác.
Trong xã hội đương đại, bộ mặt giai cấp và quan hệ giai cấp
cũng có những thay đổi đáng kể:
Trong giai cấp công nhân, số lượng công nhân áo xanh giảm,
công nhân kỹ thuật cao, lao động trí tuệ ngày càng tăng. Ngoài ra
một bộ phận trí thức, kỹ thuật làm công ăn lương cũng tham gia
vào đội ngũ giai cấp công nhân hiện đại. Ngày nay ở các nước tư
bản, giai cấp công nhân không ngừng phát triển nhưng không làm
thay đổi bản chất của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, không

làm thay đổi bản chất quan hệ giữa tư bản và lao động.
Giai cấp tư sản hiện đại cũng diễn ra những biến đổi về hình
thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, về cơ chế bóc lột giá trị thặng dư,
về phương thức tổ chức quản lý, nhưng điều kiện không thay đổi là
họ vẫn là những người chiếm hữu tư liệu sản xuất trong xã hội,
những người chỉ huy sản xuất, những người chiếm hữu giá trị
thặng dư. Đó là sự thật mà mà không lý thuyết xã hội nào bác bỏ
được.

8


1.3. Nguồn gốc của giai cấp
Xã hội loài người không phải bao giờ cũng tồn tại các giai cấp.
C. Mác là người đầu tiên chứng minh rằng, “Sự tồn tại của các giai
cấp gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất”. Ông đã chứng minh được rằng, tiền đề cơ bản làm cho
xã hội phân chia thành các giai cấp là sự phát triển tiến bộ chung
của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự
phân công lao động tạo điều kiện làm tăng của cải vật chất và sự
phân hóa con người về mặt xã hội. Chính sự phân công lao động
phát triển làm tăng sự cường trao đổi sản phẩm, làm cho quan hệ
sản xuất nguyên thủy không còn phù hợp với lực lượng sản xuất
mới. các gia đình có tài sản riêng ngày càng nhiều, bắt đầu xuất
hiện chênh lệch tài sản. Chế độ tư hữu ra đời thay thế chế độ công
hữu tư hữu tư liệu sản xuất nguyên thủy. Chế độ tư hữu là cơ sở
trực tiếp của sự hình thành giai cấp. C. Mác đã chỉ rõ nguyên nhân
phân chia xã hội thành giai cấp là nguyên nhân kinh tế.
Sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng
kim loại làm cho năng suất lao động tăng lên đã dẫn đến sự phân

công lao động trong xã hội: chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, sản
xuất thủ công cũng dần dần trở thành một ngành tương đối độc lập
với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay. Với
lực lượng sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy
không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình

9


thức sản xuất có hiệu quả hơn. Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra
trở thành của riêng của từng gia đình. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất xuất hiện và dần thay thế sở hữu cộng đồng nguyên thủy. Chế
độ tư hữu ra đời dẫn tới sự bất bình đẳng về tài sản trong nội bộ
công xã. Như vậy, sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất
nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất.
Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là
chế độ chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư
bản cguw nghĩa là bước phát triển cuối cùng và cao nhất của xã hội
có giai cấp.
1.4. Kết cấu xã hội-giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có
một kết cấu giai cấp xã hội nhất định. Khi hình thái kinh tế xã hôi
này thay thế hình thái kinh tế xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng
thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp xã hội đều có các hai giai cấp cơ bản đối
lập nhau. Hai giai cấp cơ bản ấy là sản phẩm của chế độ kinh tế-xã
hội đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát
triển của hệ thống sản xuất xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp
tiêu biểu cho bản chất chế độ kinh tế-xã hội đang tồn tại. Ngoài ra,

mỗi kết cấu xã hội-giai cấp còn gồm một số giai cấp không cơ bản
và tầng lớp trung gian. Trong đó, có giai cấp là tàn dư của phương

10


thức cũ, có giai cấp là mầm mống của phương thức sản xuất tương
lai. Chẳng hạn, ngoài các giai cấp đối kháng còn có tầng lớp tri
thức làm công việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trí thức không
phải là một giai cấp. Nó được hình thành từ những giai cấp khác
nhau và phục vụ những giai cấp khác nhau.
Phân tích kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu địa
vị, vai trò và thái độ chính trị của mỗi giai cấp đối với mỗi cuộc
vận động lịch sử, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh của thời đại ngày
nay.
1.5. Giai cấp có phải là hiện tượng vĩnh viễn của lịch sử
không?
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, giai cấp không
phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử, trái lại nó là hiện tượng
nó là hiện tượng chỉ gắn liền với những giai đoạn nhất định của
lịch sử. C. Mác nhận định: " Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn
liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản
xuất". Bởi nguồn gốc sâu xa của của sự phân hóa giai cấp trong xã
hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã
hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đã đạt
trình độ xã hội hóa cao thì chính nó lại là nguyên nhân khách quan
của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do
đó dẫn tới sự xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong
xã hội. Đó là vấn đề thực tiễn của xã hội cộng sản chủ nghĩa trong


11


tương lai.
2. Quan điểm Mác Xít về Đấu tranh giai cấp
2.1. Đấu tranh giai cấp là gì?
Từ những quan điểm khoa học đúng đắn về Giai cấp, C. Mác,
Ph. Ăng ghen, Lê nin đã phân tích những cuộc đấu tranh giai cấp
trong suốt quá trình lịch sử.
Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là đấu tranh của những
tập đoàn có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Có áp bức thì có đấu tranh
chống áp bức. Vì vậy, đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã
hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong
xã hội có áp bức giai cấp. Lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối
kháng là lịch sử đấu tranh giai cấp. Những cuộc đấu tranh giai cấp
không phải là phải là những cuộc tạo phản, lật đổ mà là những
cuộc đấu tranh có ý nghĩa cách mạng, nhằm xóa bỏ những chế độ
xã hội, những giai cấp đã lỗi thời, thay đổi quan hệ sản xuất để tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuât phát triển. Với ý nghĩa đó, quan
điểm Mác xít cho rằng, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp
là động lực phát triển của lịch sử.
Tùy theo những điều kiện lịch sử khác nhau, các cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội có thể hiểu được biểu hiện dưới hiều hình
thức khác nhau, với những phạm vi và trình độ khác nhau như: đấu
tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng...Trong thực tế
lịch sử, cuộc đấu tranh giai cấp có thể còn mang những hình thức

12



đấu tranh dân tộc, tôn giáo, văn hóa và còn có thể có nhiều hình
thức đa dạng khác.
2.2. Vai trò của đấu tranh giai cấp
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đấu tranh giai cấp
giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự tiến
bộ, phát triển xã hộ trong điều kiện xã hội có sự phân hóa thành
đối kháng giai cấp. Mặt khác, Trong xã hội có áp bức giai cấp, đấu
tranh giai cấp chẳng những cải tạo xã hội mà còn có tác dụng cải
tạo bản thân giai cấp cách mạng và quần chúng lao động. Đấu
tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kỳ cách
mạng mà còn là động lực phát triển các mặt của đời sống xã hội
trong thời kỳ phát triển bình thường của xã hội có giai cấp.
Lịch sử nhân loại từ khi có sự phân hóa giai cấp đến nay thực
chất là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp được biểu hiện
dưới nhiều hình thức đa dạng với những mức độ khác nhau và
mang sắc thái khác nhau. Đó là cuộc đấu tranh của những người nô
lệ chống lại ách áp bức của chủ nô; cuộc đấu tranh của những
người nông nô, nông dân làm thuê chống lại sự áp bức, bóc lột của
bọn chúa đất, địa chủ; Cuộc đấu tranh của những người công nhân
làm thuê chống lại ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Kết
quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời
của phương thức sản xuất mới thông qua đỉnh cao của nó là những

13


cuộc cách mạng xã hội.
Vì sao đấu tranh giai cấp giữ vai trò là phương thức động lực
phát triển của xã hội trong điều kiện xã hội có sự đối kháng giai
cấp?

Theo lý luận hình thái kinh tế xã hội, phương thức và động lực cơ
bản nhất của sự tiến bộ, phát triển xã hội là sự vận động của mâu
thuẫn trong phương thức sản xuất trong bản thân nền sản xuất vât
chất của xã hội, nhưng trong điều kiện xã hội có sự phân hóa giai
cấp thì mâu thuẫn đó lại được bộc lộ và biến thành mâu thuẫn đối
kháng giữa các giai cấp trong đời sống chính trị xã hội. Trong
trường hợp này, mâu thuẫn đố kháng trong đời sống kinh tế chỉ có
thể được giải quyết thông qua việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng
giai cấp trên lĩnh vực chính trị xã hội.
Như vậy, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đã trở thành
phương thức, động lực chính trị xã hội để giải quyết mâu thuẫn
trong phương thức sản xuất, thực hiện nhu cầu khách quan của sự
phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển xã hội .
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử được phát huy như thế
nào tùy thuộc vào tính chất, trình độ phát triển của các cuộc đấu
tranh. Tác dụng to lớn đối với lịc sử là những cuộc đấu tranh mang
tính chất rộng lớn, do lực lượng tiên tiến của xã hội lãnh đạo, được
tổ chức một cách khoa học nhằm thực hiện thực hiện nghĩa vụ lịch

14


sử chín muồi là đánh đổ giai cấp thống trị phản động đang là lực
lượng lớn đối với sự phát triển xã hội.
II. Thực tiễn của vấn đề đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay
- Đặc điểm cơ bản có liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp trong
thời kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần. Đằng sau các thành phần kinh tế là các giai cấp, tầng lớp xã
hội nhất định. Tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một
cơ cấu giai cấp đa dạng, phức tạp bao gồm các giai cấp, tầng lớp

vừa liên minh, vừa đấu tranh với nhau, trong đó giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo. Sự hình thành cơ chế thị trường đã dẫn đến
những thay đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp cùng với sự vận động
phức tạp của các giai tầng xã hội. Tính đa dạng, phức tạp còn thể
hiện ở sự biến đổi về chất ngay trong cơ cấu của từng giai cấp,
tầng lớp xã hội.
- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng
lớp doanh nhân. Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của toàn
xã hội, làm cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai
cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển
của xã hội. Nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động trở thành
người làm chủ xã hội. Trí thức ngày càng có vai trò quyết định
trong việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và

15


công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Tầng lớp doanh
nhân phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của mình, hoạt động
theo luật pháp và định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Do những biến đổi của thời đại, vấn đề giai cấp diễn ra phức tạp
trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
thực hiện chính sách mở cửa trong quan hệ quốc tế. Trên thực tế đã
phát sinh những quan điểm sai lệch, trái ngược nhau về vấn đề này.
Việc xác định cơ cấu giai cấp cũng như xác định nội dung và đặc
điểm của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay đang là vấn đề phải
tiếp tục giải quyết trên cơ sở giữ vững định hướng và có tư duy
mới.
1. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp ở Việt nam hiện nay

Trong thời kỳ qua độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nước ta và các nước
xã hội chủ nghĩa nói chung phải nhận thức rõ tính tất yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp. Tính tất yếu của Đấu tranh giai cấp thể hiện ở
mấy điểm sau :
Một là, Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ chs
minh, Đảng và nhân dân Việt nam ta đã làm nên những trang sử
hào hùng cho dân tộc, làm nên những trang sử hào hùng mà cả thế
giới phải nể phục, đưa đất nước tiến lên một trang sử mới- xây
dựng thành coonhg chủ nghĩa xã hội mà giai đoạn đầu hện nay là
thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
16


nghĩa. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn ngoan cố chống phá
cách mạng, chống phá những thành tựu mà nhân dân và Đảng ta đã
giành được.
Hai là, Chúng ta đi lên từ một nước phong kiến nông nghiệp lạc
hậu, cùng với đó, chúng ta phải thấy rằng lịch sử của dân tộc ta là
lịch sử của đấu tranh chống ngoại xâm. Sự đô hộ, xâm lược của
các nước lớn đã tạo cơ hội cho nhiều luồng văn hóa, tư tưởng ở các
nước đi vào. Bởi vậy, bên cạnh với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, chúng ta vẫn phải từng bước khắc phục những tư tưởng,
tâm lý, thói quen, văn hóa lạc hậu của xã hội cũ còn in đậm trong
đời sống tinh thần xã hội.
Ba là, Đất nước ta chủ động phát triển nền kinh tế hàng hoa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình đó nhất thiết phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó thành phần kinh tế tư bản tư nhà nước làm khâu trung
gian để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xa hội. Và tất yếu
nảy sinh mâu thuẫn khách quan giữa hai khuynh hướng phát triển

kinh tế, đó là khuynh hướng tự giác (chủ động, có sự điều điều
khiển, có mục đích) theo định hướng xã hội chủ nghĩa và khuynh
hướng phát triển tự phát tư bản chủ nghĩa- một đặc tính vốn có của
nền sản xuất nhỏ. Tức là, vẫn tồn tại những điều kiện cho xu
hướng tự phát tư bản chủ nghĩa phát triển. Nghĩa là, cuộc đấu
trannh giai cấp trên cả ba lĩnh vực: Kinh tế, Chính trị, Văn hóa

17


tưởng.
Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là tất yếu
khách quan. Nhưng trong điều kiện phức tạp như hiện nay, chúng
ta phải nhận thức cho đúng tính chất, nội dung, hình thức của cuộc
đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ này.
2. Nội dung cuộc đấu tranh cấp ở Việt Nam hiện nay
Cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta hiện
nay để chiến thắng khuynh hướng tư bản chủ nghĩa là nhiệm vụ cơ
bản của cuộc đấu tranh giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh giữa các
nhân tố thúc đẩy đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa với những nhân tố tự phát tư bản chủ nghĩa. Các nhân tố tự
phát tư bản chủ nghĩa này được những thế lực thù địch với độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xà hội lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng.
Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, các tầng lớp
lao động khác, tầng lớp tư sản dân tộc, các nhân sỹ yêu nước tán
thành mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa - Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, một bộ
phận không nhỏ trong xã hội vì quyền lợi ích kỷ, vì hận thù giai
cấp, đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc tế chống

lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Có thể khái quát đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ ở nước

18


ta trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một bên là
quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng xã hội đi theo con
đường dẫn đến mục tiêu xã họi chủ nghĩa đoàn kết trong mặt trận
thống nhất do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực, các tổ
chức, các phần tử phản động chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chống Đảng, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng trên đây diễn ra hàng ngày,
hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực kinh tế, lĩnh
vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng mà nội dung của nó được khái quát
trong Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ IX :" Nội dung
chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiên thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã họi chủ nghĩa, khắc phục tình trạng đói
nghèo, kams phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áo
bức bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng và hành động sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch"
2.3. Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận
Đấu tranh tư tưởng là một bộ phận của đấu tranh giai cấp, là
cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp. Trong tình hình hiện nay,
đấu tranh tư tưởng, lý luận còn là một mặt trận hết sức nóng bỏng,
chiếm vị trị hàng đầu của đất tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Mục tiêu cốt lõi chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực


19


Tư tưởng lý luận là tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng,
nhằm làm chệch hướng con đường phát triển của đất nước; phủ
nhận tính ưu việt của của chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả của
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; phá vỡ sự thống
nhất về nhận thức, tư tưởng và ý chí trong toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta, hòng làm cho nội bộ ta suy yếu và dẫn đến " tự diễn
biến", " Tự chuyển hóa". Thủ đoạn của chúng thường sử dụng là:
giả mạo, đơm đặt, cắt xén, ngụy tạo bằng chứng để vu cáo một
cách trắng trợn; sử dụng chiêu bài viết cũ bằng những luận điệu
mới; tung tin đồn nhảm, tạo dư luận xấu; triệt để tận dụng những
vấn đề nhạy cảm, những khó khăn tam thời, những sai sót trong
quá trình tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước; Những tiêu cực nảy sinh ở một số cán bộ có
chức, có quyền...để quy chụp, cho đó là sai phạm thuộc về bản
chất, có nguồn gốc từ hệ tư tưởng, quan điểm, đường lối của Đảng.
Họ xuyên tập trung xuyên tạc chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng ta, xem đó là mục tiêu xã hội chủ nghĩa; đồng
thời,họ tập trung phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đề
cao vai trò của kinh tế tư nhân. Họ liên tiếp tung ra nhiều luận
điệu, chẳng hạn: "Chấp nhận kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần
là từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, hoặc chí ít là tạm gác lại chủ nghĩa
Mác Lê nin; là sự quá độ sang chủ nghĩa tư bản", "tiếp tục khẳng
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thì không thể có nền

20



kinh tế nhiều thành phần đích thực", "kinh tế nhà nước sinh ra để
chịu lỗ và bao giờ cũng không hiệu quarneen không thể làm được
vai trò chủ đạo"...
Với Đảng cộng sản Việt Nam, chúng lợi dụng vấn đề nhạy cảm
như: Việc phân định biên giới lãnh thổ trên bộ và trên biển Đông;
tình trạng tham nhũng, suy thoái đạo đức của một số cán bộ, đảng
viên; hiện tượng tập trung khiếu kiện đông người..để nhào nặn,
bóp méo sự thật, nhằm quy kết và phủ định những thành quả của
công cuộc đổi mới đất nước, phủ định con đường mà Đảng và Bác
Hồ đã lựa chọn. Họ còn cho rằng: Con đường đi lên CNXH của
nhân dân ta là sai lầm, bởi có nhiều nước trong khu vực và trên thế
giớ có điểm xuất phát giống Việt Nam, nhưng nhờ đi theo con
đường TBCN, đã trở nên giàu có, phồn vinh...Họ còn khẳng định,
đa nguyên đa đảng, nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường tất
yếu sẽ thay đổi mô hình độc đảng và kinh tế thị trường định hướng
xã hội chur nghĩa ở Việt Nam. Hơn thế nữa, họ còn lớn tiếng cho
rằng, ở Việt Nam "k có dân chủ, tự do nhân quyền, tự do tôn giáo,
tự do ngôn luân", Đảng cộng sản Việt Nam " không có khả năng
lãnh đạo, điều hành, quản lý kinh tế", "bao che tham nhũng"...
Có thể nói rằng, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là
rất nham hiểm, xảo quyệt. Vì vậy, chủ động phòng, chống có hiệu
quả các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên
lĩnh vực tư tưởng lý luận là một vấn đề hết sức quan trọng và cấp

21


thiết. Để thực hiên nhiệm vụ này phải có sự chung tay thực hiện
các biện pháp cụ thể, hiệu quả.
Thứ nhất, phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, kịp thời vạch

rõ và vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống
phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Muốn
vậy, trước hết chúng ta phải nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của
chúng. Theo đó, lực lượng làm công tác TT,LL phải thường xuyên
được các cơ quan chức năng cung cấp tình hình hoạt động của các
tổ chức, cá nhan này; đặc biệt phải chỉ rõ hành vi giả mạo, xuyên
tạc, bóp méo sự thật của chúng; qua đó, giúp các cơ quan chức
năng, cơ quan báo chí lật tẩy bộ mặt của những kẻ giả danh vì
nước. Cùng với đó, các cơ quan chức năng phải thường xuyên nắm
bắt tình hình địa phuqoqng để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Thứ hai, Chăm lo xây dựng phẩm chất, năng lực của đội ngũ
làm công tác TT,LL đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Đây là lực
lượng làm nhiệm vụ tiên phong trong quá trình đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu chống phá cách mạng nước ta, Thực tế cho thấy,
trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đội ngũ cán bộ làm công tác
TT,LL luôn tỏ ra trung thành với Đảng, nhà nước, với cách mạng.
Tuy nhiên cũng có một số kẻ cơ hội, hữu khuynh, thậm chí thoái
hóa biến chất. Vì vậy, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ
làm công tác TT,LL đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các
âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch là vấn đề có

22


ý nghĩa vô cùng quan trọng. Điều này đòi hỏi Đảng, nhà nước phải
có những chủ trương, giải pháp phù hợp để lựa chọn, bồi dưỡng
những người đủ đức, đủ tài để phục vụ sự nghiệp cao cả này.
Thứ ba, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

Nhà nước cho nhân dân. Cùng với việc chăm lo, phát triển kinh tế
xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, chúng ta cần quan
tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng.. Làm cho mọi
tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn bản chất khoa
học, cách mạng và sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta
trong hoàn cảnh mới; qua đó, góp phần làm cho nhân dân thêm tin
tưởng, gứn bó với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam XHCN. Đồng thời, giúp các tầng lớp nhân dân thấy rõ
hơn âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch, tạo sự
"miễn dịch" trước những luận điệu chống phá của chúng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa trong chặng đường hiện nay. NXB Thông tin lý luận, năm
1984

23


2. Vấn đề dân tộc. Giai cấp và toàn nhân loại. Nxb Chính trị quốc gia,
năm 1995
3. Giáo trình Triết học Mác-Lê nin. Nxb Chính trị quốc gia, 2001
4. Giáo trình Triết học Mác Lê nin- chủ nghĩa Duy vật Lịch Sử. Nxb
lý luận Chính trị, năm 2005
5. Hỏi đáp về Triết học, tập thể tác giả. Nxb lý luận chính trị, năm
2008
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb chính trị quốc
gia, năm 2003
7. Bài báo “ Chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá

của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận”, Báo Quốc
phòng toàn dân, thứ sáu, 24/6/2011.

24



×