Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

sáng kiến kinh nghiệm trò chơi học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 30 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Tên sáng kiến
Sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp
- Địa lí 10, ban cơ bản.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Mơn Địa lí khối 10
3. Thời gian áp dụng sáng kiến
- Tháng 1 năm 2017
4. Tác giả
- Họ và tên: Vũ Thị Ngọc Hoài
- Năm sinh: 24/9/1987
- Nơi thường trú: Xuân Đài – Xuân Trường – Nam Định
- Trình độ chun mơn: Cử nhân Địa lí
- Chức vụ cơng tác: Giáo viên
- Nơi làm việc: Trường THPT Xuân Trường C
- Địa chỉ liên hệ: Vũ Thị Ngọc Hoài – Trường THPT Xuân Trường C
- Điện thoại: 01696304871
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến
- Tên đơn vị: Trường THPT Xuân Trường C
- Địa chỉ: xã Xuân Đài, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định
- Điện thoại: 03503888209

Trường THPT Xuân Trường C

1

Năm học 2016 - 2017




Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

BÁO CÁO SÁNG KIẾN: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI
HỌC TẬP TRONG BÀI GIẢNG ĐỊA LÍ CƠNG NGHIỆP
– ĐỊA LÍ 10, BAN CƠ BẢN
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
Những biến đổi không ngừng của xã hội đã thôi thúc các nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Tuy nhiên so với nhiều nước trong khu vực thì sự phát triển của
giáo dục nước ta cịn nhiều mặt hạn chế, đang có nguy cơ tụt hậu. Do đó Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Chính vì vậy, trong những
năm qua, giáo dục phổ thơng nói chung cũng như dạy học Địa lí nói riêng cũng
đang có những định hướng đổi mới tích cực: chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung
sang tiếp cận năng lực của người học, chuyển đổi từ phương pháp dạy học truyền
thụ một chiều (học sinh học được gì?) sang dạy cách học, vận dụng kiến thức, rèn
luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất người học (học sinh làm được gì
thơng qua việc học?); lấy học sinh làm trung tâm, người thầy - cơ giáo giữ vai trị
thiết kế, định hướng cho học sinh trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Bênh cạnh đó, trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT liên tục thay đổi quy
chế thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học: từ việc gộp hai kì thi thành một đến
biện pháp thi theo hình thức trắc nghiệm đánh giá năng lực. Đứng trước những

thay đổi đó, GV cũng như HS phổ thơng nói chung và mơn Địa lí nói riêng tự phải
thay đổi cách dạy và học của mình để thích ứng. Về phía GV rất nhiều phương
pháp dạy học đổi mới đã được áp dụng vào thực tế giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học. Tuy nhiên, về phía HS vẫn cịn một số bộ phận học sinh (bao
gồm cả học sinh tự chọn mơn Địa lí) coi mơn này là mơn học thuộc lịng nhàm
chán, các em học đối phó, bị động, chưa chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, ỷ lại
vào sự truyền đạt kiến thức của giáo viên trên lớp. Thêm vào đó với suy nghĩ thi
trắc nghiệm thì khơng cần phải học lí thuyết, chỉ đọc đáp án là khoanh chọn được.
Vì vậy, việc học bài về nhà và xây dựng bài trên lớp không được các em chú ý,
thời gian dành cho môn học chưa nhiều.

Trường THPT Xuân Trường C

2

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

Thơng qua q trình giảng dạy và nghiên cứu tơi nhận thấy việc sử dụng
phương pháp trò chơi học tập trong giờ học có tác dụng rất tốt đến thái độ và hứng
thú học tập của học sinh; khơng khí của lớp học sơi nổi hơn, các em khơng cịn
cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi; đại bộ phận học sinh đều hoạt động
tích cực, các em mạnh dạn hơn và từ đó các em chiếm lĩnh kiến thức, ghi nhớ một
cách bền vững hơn, do đó kết quả học tập cũng cao hơn. Vì vậy, tơi đã “ Sử dụng
phương pháp trò chơi học tập trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp – Địa lí 10,
ban cơ bản” nhằm thay đổi cách học, nhận thức cũng như phát triển các năng lực

cốt lõi và chuyên biệt ở học sinh.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến - Thực trạng giảng dạy trước khi sử
dụng phương pháp trò chơi học tập trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp –
Địa lí 10, ban cơ bản
Trong nhiều năm giảng dạy bộ mơn Địa lí nói chung và Địa lí 10 nói riêng,
kết hợp với dự giờ và nghe phản ánh từ các đồng nghiệp, tôi thấy hiện nay đang
xuất hiện một thực trạng là lớp học tương đối trầm. Học sinh ngày càng thụ động,
không chịu phát biểu xây dựng bài. Các em trông giống như những cỗ máy vơ cảm
chỉ thực hiện động tác nhồi mình ra ghi ghi, chép chép các kiến thức của giáo viên
đọc trên lớp. Khi giáo viên đặt câu hỏi, dù là những câu hỏi rất dễ, chỉ cần đọc
SGK là trả lời được, nhưng các em vẫn khơng có phản ứng gì, vẫn ngồi im thin
thít. Và trước tình cảnh “một câu hỏi lớn khơng lời đáp” chính giáo viên – người
nêu ra câu hỏi – lại phải tự trả lời các câu hỏi do chính mình đặt ra. Điều này
thường gây ức chế cho giáo viên rất nhiều, làm cho các thầy cô cảm thấy chán nản,
không thiết tha với cơng việc của mình. Do đó, dù ý thức được sự đổi mới phương
pháp dạy học nhưng trước thái độ thờ ơ của học sinh, nhiều giáo viên đành “chép
miệng” và quay trở lại hình thức đọc chép như cũ. Khi đó thì học sinh được gì?
Các em khơng cần phải phát biểu xây dựng bài, chỉ cần im lặng ghi chép cho đủ
kiến thức của bài học. Không khí lớp học tưởng là nghiêm túc, tốt nhưng thực ra
lại rất căng thẳng đối với cả giáo viên và học sinh, giờ học dường như kéo dài hơn.
Và khi tiết học kết thúc cả cơ và trị đều cảm thấy uể oải, mệt mỏi.
Vậy hậu quả của tình trạng trên là gì?
Trước hết, chúng ta có thể thấy ngay trước mắt đó là chất lượng dạy và học
khơng được nâng cao.Giáo viên khơng có cảm hứng truyền tải kiến thức, khơng có
động lực trau dồi chun mơn, tạo sức ì lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương
pháp giảng dạy; học sinh không hiểu được các khái niệm, nội dung kiến thức địa lí
Trường THPT Xuân Trường C

3


Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

vừa học, khơng biết vận dụng các kiến thức đã học để giải thích các hiện tượng tự
nhiên, kinh tế - xã hội trong thực tế đời sống. Thực trạng học vẹt, trả bài kiểu vẹt,
chữ thầy trả thầy diễn ra phổ biến.
Tuy nhiên, tình trạng trên khơng chỉ ảnh hưởng đến kết quả dạy và học mà
sâu xa hơn nó cịn ảnh hưởng đến xã hội trong tương lai với những công dân kém
năng động, ì ạch, sống thụ động, sống khơng có trách nhiệm với bản thân và những
người xung quanh. Những con người đó liệu có thể tồn tại trong xã hội luôn luôn
biến động đầy thử thách? Đất nước liệu có thể sánh vai với các nước trên thế giới
như mong ước của bác Hồ với nguồn nhân lực như hay vậy khơng? Đó chính là
điều đáng lo ngại nhất đối với sự nghiệp trồng người hiện nay.
Nguyên nhân của tình trạng trên là gì?
- Thứ nhất: Đó là do nhận thức về môn học của học sinh, các em coi Địa lí là
mơn học thuộc, khơng cần tư duy, chỉ cần ghi chép bài đầy đủ về nhà đọc đi đọc lại
nhiều lần cho nhớ, trả được bài khi giáo viên kiểm tra để không bị điểm kém,
không bị bố mẹ và thầy cô quở trách. Thêm vào đó với tình trạng học lệch như
hiện nay, nhiều em học sinh (đặc biệt là các học sinh chọn ban khoa học tự nhiên)
ngay từ lớp 10 các em chỉ quan tâm tới các mơn mình thi, những mơn cịn lại thì
các em khơng cần quan tâm, coi đó là mơn học phụ.
- Thứ hai: Kiến thức mơn Địa lí 10 khá khái quát, trừu tượng cung cấp các
kiến thức nền cho Địa lí 11, 12; nhiều bài kiến thức khá nặng và dài. Do đó để các
em hiểu và nắm được bản chất của các hiện tượng địa lí cũng không phải là điều
đơn giản đối với học sinh và giáo viên, dẫn đến sự không hứng thú đối với môn

học.
- Thứ ba: Do phương pháp giảng dạy của giáo viên bộ môn đặc biệt là
những giáo viên trẻ mới ra trường còn tham kiến thức nên lúc nào cũng sợ “cháy”
giáo án, không chú trọng vào một phần nội dung chủ chốt và hướng dẫn giao
nhiệm vụ cho học sinh tự hồn thành kiến thức. Vì vậy, giáo viên luôn cố đọc chép
mọi kiến thức trong SGK mà khơng chú ý rằng học sinh có thể tiếp nhận được hết
hay khơng? Thêm vào đó một số giáo viên cịn ngại tìm tịi đổi mới phương pháp,
hình thức dạy học nên giờ học Địa lí thường nhàm chán, khơng thu hút được học
sinh. Hoặc có giáo viên đã có ý thức đổi mới phương pháp, nhưng sự đổi mới đó
khơng thường xun chỉ diễn ra vào các tiết dự giờ, thao giảng; cũng có giáo viên
khơng dám đổi mới vì sợ thay đổi cách dạy thì học sinh sẽ khơng ghi chép đầy đủ,
khơng có tài liệu để học, kiểm tra, chất lượng môn học sẽ thấp.
Vậy làm thế nào để học sinh hứng thú hơn với môn Địa lí? Mỗi giờ học trơi
qua nhẹ nhàng, khơng căng thẳng đối với cả cơ và trị mà vẫn đảm bảo được nội
Trường THPT Xuân Trường C

4

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

dung, mục tiêu kiến thức, kĩ năng của bài học? Đó là những câu hỏi mà bản thân
tôi luôn trăn trở.
William Arthur Ward – một nhà giáo dục lỗi lạc của Mĩ đã từng nói “Chỉ nói
thơi là thầy giáo xồng. Giảng giải là thầy giáo tốt. Minh họa biểu diễn là thầy
giáo giỏi. Gây hứng thú trong học tập là thấy giáo vĩ đại”. Tơi thiết nghĩ, giáo viên

với vai trị là tổng đạo diễn, người khởi xướng, động viên, xúc tác cần phải khôi
phục động lực học tập, khơi dậy niềm say mê, tình u Địa lí của học sinh, phát
huy tính năng động, gây hứng thú với học sinh bằng những giờ học thực sự hấp
dẫn, lôi cuốn thông qua đổi mới các phương pháp dạy học tích cực.
Thực tế trong nhiều năm đứng lớp giảng dạy bộ môn Địa lí nói chung và mơn
Địa lí 10 nói riêng, bản thân tôi đã tự học, nghiên cứu, đồng thời học hỏi kinh
nghiệm từ nhiều đồng nghiệp trong cách giảng dạy các bài giảng Địa lí sao cho
hợp lí, học sinh dễ hiểu, nắm bắt được kiến thức bài nhanh nhất, hiệu quả nhất và
phát huy tối đa năng lực của các em. Qua từng tiết học của từng lớp và các năm
học khác nhau, tôi đã từng áp dụng nhiều phương pháp dạy học: từ phương pháp
truyền thống – thuyết trình kết hợp với phương pháp pháp thảo luận nhóm, phương
pháp trực quan – hình ảnh PowerPoint, phương pháp dự án, phương pháp đóng vai.
Và kết quả tơi nhận thấy: đại bộ phận các em học sinh đã có sự tích cực hơn trong
lĩnh hội tri thức, tham gia hăng hái xây dựng bài. Tuy nhiên khơng có một phương
pháp dạy học nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm và tồn tại
riêng của nó. Vì vậy vẫn còn một số bộ phận học sinh bị động, lười suy nghĩ, chỉ
sử dụng chủ yếu thính giác, thị giác cùng với tư duy tái hiện; trong lớp học các em
không chú ý nghe giảng xây dựng bài hay nói chuyện riêng hoặc mệt mỏi, ngủ gật
trong lớp. Do đó, việc lựa chọn một phương pháp dạy học tích cực, có hiệu quả
thích hợp với nội dung, phù hợp với từng loại bài, đặc trưng bộ môn là vấn đề trăn
trở không chỉ của bản thân tôi mà của rất nhiều giáo viên giảng dạy hiện nay ở các
bậc giáo dục. Trước thực tiễn đó, tơi đã mạnh dạn sử dụng phương pháp trò chơi
học tập trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp – Địa lí 10, ban cơ bản, nhằm xây
dựng, rèn luyện nếp học tập tích cực, tạo hứng thú trong học tập và phát huy cao
tính chủ động, sáng tạo của tất cả học sinh.
2. Giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong bài giảng
Địa lí cơng nghiệp – Địa lí 10, ban cơ bản
2.1.1 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Địa lí
Định hướng về đổi mới phương pháp dạy học đã được thể hiện rất rõ trong

các văn bản của nhà nước. Cụ thể là các nghị quyết TƯ 4 khóa VII, nghị quyết TƯ
Trường THPT Xuân Trường C

5

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

2 khóa VIII, nghị quyết TƯ 8 khóa XI…, và điều này đã được pháp chế hóa trong
luật giáo dục – điều 24.2: “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính
tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh”
Như vậy, mục tiêu của dạy học nói chung và dạy mơn Địa lí nói riêng là
hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập bị động của học
sinh; tạo ra cho học sinh một vị thế mới và những tiền đề, những điều kiện thuận
lợi để hoạt động. Các em trở thành chủ thể của hoạt động, tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo trong hoạt động để tạo ra kiến thức. Người thầy Địa lí hiện nay phải
là người tổ chức, chỉ đạo, điều khiển các quá trình học tập của học sinh. Muốn làm
được điều đó, người thầy cần:
+ Xuất phát từ mục đích, nội dung của bài học mà thiết kế ra những tình huống
thích hợp để học sinh chiếm lĩnh nó thơng qua hoạt động học tập tích cực theo
hướng độc lập hoặc hợp tác, giao lưu.
+ Biến ý đồ dạy học của mình thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự giác của
học sinh thông qua việc đặt vấn đề nhận thức và tạo động cơ hứng thú cho học

sinh.
+ Điều khiển quá trình học tập của học sinh trên cơ sở thực hiện một hệ thống
mệnh lệnh, chỉ dẫn, trợ giúp, đánh giá (bao gồm cả sự động viên).
+ Xác nhận định vị kiến thức mới trong hệ thống tri thức đã có, đồng nhất kiến
thức riêng lẻ của học sinh thành tri thức khoa học xã hội, hướng dẫn vận dụng và
ghi nhớ.
Vì vậy, việc giáo viên lựa chọn áp dụng trò chơi học tập trong bài giảng Địa
lí để đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh là
hết sức cần thiết và có ích. Bởi thơng qua trị chơi, học sinh gần gũi, cởi mở và chú
ý hơn đến nội bài giảng, ý nghĩa của nội dung bài học được truyền tải đến học sinh
một cách nhẹ nhàng nhưng đầy sâu sắc, dễ hiểu.
2.1.2. Trò chơi học tập và việc đổi mới dạy học Địa lí
a. Khái niệm trò chơi học tập
Để hiểu thế nào là trò chơi học tập thì trước tiên chúng ta cần hiểu trị chơi là
gì? Trong từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, chữ “trị” được hiểu là một hình
thức mua vui bày ra trước mắt mọi người, chữ “chơi” là một từ chung để chỉ các
hoạt động lúc nhàn rỗi, ngoài giờ làm việc nhằm mục đích giải trí là chính. Từ đó,
Trường THPT Xuân Trường C

6

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

trị chơi được hiểu là những hoạt động làm thỏa mãn những nhu cầu của con người
trước hết là vui chơi, giải trí. Theo quan điểm giáo dục, trò chơi vừa là phương tiện

phát triển tồn diện nhân cách vừa là hình thái tổ chức cuộc sống, giúp cho cá nhân
được rèn luyện và tập thể có được bầu khơng khí vui vẻ, thoải mái.
Theo nhiều cách phân chia, trị chơi có nhiều loại, như: trò chơi dân gian, trò
chơi vận động, trò chơi trong nhà, trị chơi ngồi trời…Xuất phát từ việc nhìn nhận
trị chơi theo chức năng và ý nghĩa giáo dục trò chơi chúng ta còn gặp: trò chơi học
tập hay trò chơi dạy học…Vậy trò chơi học tập là gì?
Trị chơi học tập trong lí luận dạy học là tất cả những trị chơi có nội dung
gắn với nội dung học tập, nó được sử dụng như một phương pháp, hình thức tổ
chức và luyện tập cho học sinh, có luật chơi chặt chẽ mang tính định hướng đối với
sự phát triển trí tuệ của học sinh. Và cũng giống như đặc điểm của trị chơi nói
chung, trị chơi học tập (TCHT) cũng mang lại cảm xúc chân thực, mạnh mẽ, tạo
cho học sinh một tâm thế hứng khởi, vui sướng khi tham gia để lĩnh hội kiến thức.
Bên cạnh đó, TCHT cịn có một số đặc điểm sau:
+ Có luật rõ ràng do giáo viên đặt ra nhằm đạt được mục tiêu, nội dung bài
học
+ Ln có một kết quả nhất định, kết quả này được thực hiện trong việc giải
quyết nhiệm vụ của trò chơi học tập, đồng thời mang lại niềm vui, sự thỏa mãn cho
những người tham gia trị chơi học tập. Kết quả đó thể hiện sự cố gắng trong suy
nghĩ, tìm tịi sáng tạo; trong việc nắm kiến thức và trong tính hợp tác của nhóm học
sinh.
+ Có cấu trúc chặt chẽ, bao gồm các yếu tố: mục đích của trị chơi học tập
(nhiệm vụ nhận thức), hành động chơi, luật chơi và tổ chức chơi.
+ Trong trị chơi học tập, vị trí của mọi thành viên tham gia trò chơi đều như
nhau và được xác định bằng luật chơi. Việc thực hiện luật chơi là tiêu chuẩn khách
quan để đánh giá khả năng của học sinh.
+ Trong trò chơi học tập, sự thống nhất giữa hành vi thật và hành vi chơi rõ
ràng. Trong quá trình chơi nếu bất cứ học sinh nào khơng tn thủ đúng luật chơi
thì sẽ bị loại khỏi cuộc chơi, quyền chơi sẽ dành cho học sinh khác hoặc nhóm
khác. Vì vậy, ngay trong q trình chơi trò chơi học tập, học sinh vừa là người chơi
vừa là người giám sát.

b. Cấu trúc của trò chơi học tập
Tất cả các trị chơi học tập đều có chung một cấu trúc nhất định, bao gồm:
+ Chủ đề chơi: tên gọi của trò chơi

Trường THPT Xuân Trường C

7

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

+ Nội dung chơi: trò chơi sẽ sử dụng những nội dung nào trong bài học, mục
đích chơi để làm gì? (củng cố, luyện tập kiến thức, kĩ năng hoặc khai thác kiến
thức mới).
+ Vai chơi: là những người tham gia trò chơi (học sinh trong lớp học).
+ Luật chơi: là yếu tố cơ bản của trị chơi. Nó là những quy định bắt buộc để
thực hiện nội dung chơi. Luật chơi tạo ra sự liên tục của hành động chơi, xác định
tính chất, phương thức, hành động, tổ chức và điều khiển hành vi cùng với mối qua
hệ giữa học sinh với học sinh trong khi chơi; từ đó giúp học sinh tiếp thu được kiến
thức dễ dàng hơn.
+ Hành động chơi (cách chơi): là những thao tác, các bước phải thực hiện
trong khi tiến hành trị chơi. Nó rất đa dạng và phụ thuộc vào luật chơi…
Mỗi trò chơi học tập đều phải có đầy đủ 5 thành tố trên, nếu thiếu một trong
những thành tố đó trị chơi sẽ khơng đúng với dạng trị chơi học tập. Vì vậy, khi
thiết kế trò chơi học tập giáo viên cần phải lưu ý tới cấu trúc của trò chơi học tập.
c. Vai trò của trò chơi học tập trong dạy học Địa lí

Từ cấu trúc của trị chơi học tập, chúng ta có thể thấy việc sử dụng trị chơi
học tập trong dạy học nói chung và giảng dạy mơn Địa lí nói riêng có tác dụng rất
lớn đối với học sinh và giáo viên. Cụ thể:
+ Học sinh hứng thú, tích cực tham gia vào q trình nhận thức, góp phần
làm giảm mệt mỏi, căng thẳng trong học tập của các em, phù hợp với định hướng
đổi mới phương pháp dạy học.
+ Khi tham gia trò chơi học tập, việc thực hiện nhiệm vụ chơi, luật chơi và
hành động chơi đòi hỏi học sinh phải tích cực huy động những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo của mình, phân tích, so sánh, tổng hợp… để đạt được kết quả mà trò chơi đề
ra. Từ đó tăng cường khả năng chú ý, khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức
đã học; phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận ở học sinh; giúp
các em khắc sâu kiến thức, nắm bắt nội dung bài học tốt hơn.
+ Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên với học sinh và giữa học
sinh với nhau; từ đó giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp; kĩ
năng hợp tác làm việc nhóm được phát huy tối đa. Đồng thời qua việc quan sát học
sinh chơi, giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh,
giúp cho giáo viên có biện pháp phát huy và uốn nắn kịp thời đối với quá trình
nhận thức của các em
+ Thu hút được sự tham gia của tất cả các thành viên trong lớp học. Đây
chính là điểm nổi bật mà đối với các phương pháp đã áp dụng tôi thấy chưa đạt
được. Bởi khi tham gia chơi trò chơi học tập, các em học sinh trong lớp không nghĩ
Trường THPT Xuân Trường C

8

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm


GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

là mình đang học, các em tưởng tượng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập luận chỉ với
mục đích là đạt được kết quả mà trị chơi đề ra. Do đó, kiến thức cung cấp trong
giờ học Địa lí sẽ đi vào đầu các em một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn.
Như vậy có thể nói, Trị chơi học tập là phương tiện có ý nghĩa trong việc
góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Bên cạnh đó, thơng qua trị
chơi học tập, học sinh còn được phát triển nhiều phẩm chất đạo đức như tình đồn
kết, thân ái, lịng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Vì vậy, việc sử dụng
trị chơi học tập trong bài giảng Địa lí nói là rất cần thiết, góp phần thực hiện mục
tiêu của đổi mới phương pháp dạy học nói chung và mơn Địa lí nói riêng.
2.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong bài
giảng Địa lí cơng nghiệp – Địa lí 10, ban cơ bản.
2.2.1. Mục tiêu, nội dung phần Địa lí cơng nghiệp – Địa lí 10, ban cơ bản.
Chương trình bộ mơn Địa lí THPT được thiết kế thành 3 mảng lớn có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Đó là: Địa lí Đại cương (Địa lí 10), Địa lí Thế giới (Địa lí
11), Địa lí Việt Nam (Địa lí 12).
Trong 3 bộ phận trên, có thể nói chương trình Địa lí 10 là phần cơ bản, là
tiền đề quan trọng để học sinh có thể học tốt 2 chương trình Địa lí cịn lại. Bởi
chương trình Địa lí 10 cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thơng, mang
tính cơ bản về: Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế - xã hội với 13 chủ đề có các nội
dung về Trái Đất – Môi trường sống của con người (gồm các thành phần cấu tạo và
tác động qua lại giữa chúng, một số quy luật của môi trường tự nhiên trên Trái
Đất); dân cư và các hoạt động kinh tế của yếu của dân cư trên Trái Đất; mối quan
hệ giữa dân cư, hoạt động sản xuất với môi trường và sự phát triển bền vững.
Trong đó, Địa lí cơng nghiệp thuộc chủ đề 11, trong phần Địa lí kinh tế - xã hội
của SGK Địa lí 10. Chủ đề này gồm 4 tiết với 3 tiết lí thuyết và 1 tiết thực hành.
Sau khi học xong chủ đề Địa lí cơng nghiệp, học sinh cần phải đạt được các mục
tiêu sau:

a. Về kiến thức
- Trình bày được vai trị và đặc điểm của sản xuất cơng nghiệp.
- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố cơng
nghiệp.
- Trình bày và giải thích được vai trò, đặc điểm và sự phân bố một số ngành
công nghiệp chủ yếu trên thế giới.

Trường THPT Xuân Trường C

9

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

- Phân biệt được một số hình thức tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp: điểm công
nghiệp, khu công nghiệp tập trung, trung tâm công nghiệp, vùng công nghiệp.
b. Về kĩ năng
- Sử dụng bản đồ để nhận xét sự phân bố một số ngành công nghiệp trên thế
giới: công nghiệp năng lượng, thực phẩm.
- Vẽ và phân tích biểu đồ tình hình sản xuất của một số ngành công nghiệp.
Đối với những nội dung kiến thức và kĩ năng trong chương trình Địa lí 10
nói chung và phần Địa lí cơng nghiệp ở trên thường mang tính đại cương, trừu
tượng nên khá khó để học sinh tiếp nhận, mặc dù đó là các nội dung các em đã
được tiếp cận một phần ở chương trình Địa lí THCS. Vì vậy nếu giáo viên chỉ đưa
ra những bài tập nhận thức thông thường để đàm thoại, pháp vấn thì nhiều học sinh
vốn khơng có hứng thú với mơn Địa lí sẽ khơng hề quan tâm. Nhưng nếu vẫn với

các bài tập đó, giáo viên biến đổi thành các trị chơi học tập Địa lí cộng với việc
chia đội để tạo ra kịch tính trong trị chơi sẽ khiến học sinh tồn bộ lớp học có
hứng với bài học và kiến thức sẽ được các em hấp thụ ngay trên lớp một cách tự
nhiên, không gị ép.
2.2.2. Đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh THPT
a. Đặc điểm tâm lí
Ở lứa tuổi 16-18 (lứa tuổi học sinh THPT lớp 10-12) về thể chất và cấu tạo
não của các em đã gần đạt tới sự hồn thiện như người lớn. Về tâm lí, có một số
chú ý:
- Ý thức về bản thân đã phát triển mạnh: cho rằng mình đã lớn và địi hỏi mọi
người phải đối xử với mình như người lớn. Trong các hoạt động, nhất là hoat động
chủ đạo, các em đã hình thành thái độ tự khẳng định mình, đi liền với nó là sự phát
triển mạnh mẽ của tinh thần tự lực và tự lập, tự trọng.
- Sự phát triển đặc biệt về nhận thức vì việc học tập dựa trên cơ sở các môn
khoa học tương ứng đã đòi hỏi phải trực tiếp nắm vững đi sâu vào bản chất hệ
thống khái niệm của các ngành khoa học, một cách tương đối có hệ thống.
- Hứng thú của học sinh THPT đã phát triển mạnh: khơng chỉ thích hoạt động
thực hành mà còn hứng thú trong hoạt động nhận thức. Bên cạnh việc nhận thức sự
việc một cách trực tiếp cảm tính là hứng thú lí luận về sự việc ấy. Do ngôn ngữ
ngày càng chiếm ưu thế trong tâm lí các em dẫn đến hứng thú đọc sách với ham
muốn nhận thức tất cả mọi loại hiện tượng mà khoa học và kĩ thuật đã phát hiện
được về tự nhiên, xã hội, con người. Cùng với hoạt động học tập đã hình thành
hứng thú sâu sắc với học tập nói chung cũng như là hứng thú đi sâu vào khoa học,
kinh tế, xã hội nói riêng. Từ chỗ hứng thú với bài giảng sẽ dẫn tới hứng thú trong
Trường THPT Xuân Trường C

10

Năm học 2016 - 2017



Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

nhận thức chung. Vì vậy nếu trong bài giảng, người giáo viên biết cách gợi mở khả
năng tự lực trong từng học sinh thì năng lực tiếp thu nội dung, kiến thức và nhu
cầu tự học của các em sẽ phát triển. Đây chính là cơ sở để giáo viên vận dụng
phương pháp trị chơi học tập trong dạy học Địa lí 10 nói chung và phần Địa lí
cơng nghiệp nói riêng.
b. Đặc điểm nhận thức
- Khả năng cảm giác và tri giác đã đạt tới trình độ phát triển như người lớn.
Tri giác có chủ định phát triển mạnh, năng lực quan sát của các em đã mang tính
mục đích và có hệ thống rõ rệt. Biết phân tích, tổng hợp đối tượng tri giác có chủ
định.
- Khả năng ghi nhớ và tái hiện có chủ động đã phát triển cao. Đối với các sự
vật, hiện tượng q trình địa lí, các em có ý thức lựa chọn những nội dung chủ yếu
để ghi nhớ. Ghi nhớ máy móc giảm dần, ghi nhớ có ý nghĩa ngày càng phát triển.
Trong q trình tái hiện lại sự vật hiện tượng địa lí các em có thể đi từ bản chất,
khái quát đến cụ thể, cá biệt, các em không chỉ ghi nhớ nguyên văn, máy móc mà
đã biết diễn đạt nội dung, tài liệu học tập bằng ngơn ngữ của mình.
- Khả năng tư duy và tưởng tượng, khả năng trừu tượng hóa, khái qt hóa
đã phát triển mạnh thơng qua các thao tác trí tuệ như: so sánh, suy luận, phân tích,
tổng hợp các đối tượng địa lí trong q tình nhận thức – học tập. Sự phát triển tư
duy trừu tượng cho phép các em có khả năng tiếp nhận các khái niệm trừu tượng,
có khả năng tiến hành độc lập các thao tác tư duy bước đầu biết vận dụng các tri
thức đã học vào thực tiễn.
- Khả năng ngôn ngữ: vốn từ tăng lên rõ rệt, trong ngôn ngữ tính hình tượng
và trình độ logic chặt chẽ đã phát triển ở mức độ nhất định. Sự xuất hiện và tham
gia của ngơn ngữ vào hành động trí nhớ đã làm cho sự ghi nhó, giữ gìn và nhớ lại

của học sinh có chủ định, có ý nghĩa và chủ thể tư duy nhận thức được trong hồn
cảnh có vấn đề.
Tuy nhiên những động nhận thức của học sinh THPT xuất hiện đến mức độ
nào tùy thuộc vào tổ chức hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của từng
học sinh. Do đó trong q trình dạy học trên lớp, nhiệm vụ của người giáo viên là
phát triển toàn diện khả năng nhận thức, đồng thời phát huy được tính tích cực, tự
lực của học sinh. Và dạy học sử dung phương pháp trò chơi học tập trong giảng
dạy mơn Địa lí chính là nhằm mục đích đó.
2.3. Sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp
– Địa lí 10, ban cơ bản.
2.3.1. Thiết kế trò chơi học tập trước khi lên lớp
Trường THPT Xuân Trường C

11

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

Hoạt động dạy học của người giáo viên tác động trực tiếp tới học sinh là ở
khâu lên lớp. Do đó, để sử dụng có hiệu quả các trị chơi học tập ở trên lớp thì
bước soạn giáo án thiết kế trị chơi là rất quan trọng. Đầu tiên là giáo viên phải xác
định được mục tiêu của bài học là gì? Bao gồm những nội dung nào? Tổ chức trò
chơi học tập nhằm mục đích gì? (kiểm tra bài cũ, gợi mở cho bài mới; hay hình
thành kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức). Từ đó, giáo viên thiết kế trị chơi với
các bài tập nhận thức là những câu trả lời nhanh, câu trắc nghiệm… dựa trên
những trò chơi sẵn có trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là những gameshow đa

dạng hiện nay trên truyền hình như: Rung chng vàng, Đường lên đỉnh Olympia,
Ai là triệu phú, Đuổi hình bắt chữ…. Tuy nhiên, tùy vào nội dung bài học mà giáo
viên phải chỉnh sửa lại cách chơi và bài tập nhận thức trong giáo án cho phù hợp
với điều kiện lớp học và khả năng của học sinh. Điều đó cũng khiến cho trị chơi
có yếu tố mới lạ, giúp học sinh hứng thú tham gia chơi và nhận thức bài học từ trị
chơi đó. Đồng thời, thơng qua soạn giáo án trò chơi học tập, giáo viên cũng có sự
chuẩn bị sẵn các phương tiện dạy học cần thiết để học sinh tham gia trò chơi được
tốt hơn, như: thẻ chọn đáp án A,B,C,D; cờ đưa ra đáp án, bảng học sinh, bút dạ,
phần thưởng…
2.3.2. Cách thức tổ chức trò chơi học tập trên lớp
Việc tổ chức trò chơi học tập trong các bài giảng Địa lí giúp cho học sinh
tích cực và hứng thú hơn trong tiếp thu kiến thức. Tuy nhiên, sử dụng các trò chơi
học tập trong các tiết học nếu không tốt sẽ không mang lại hiệu quả làm cho tiết
học kéo dài và ảnh hưởng đến các tiết học sau. Vì vậy, khi tổ chức trò chơi học tập
trên lớp, giáo viên cần thực hiện theo các bước sau:
+ Phổ biến trò chơi: giáo viên giới thiệu tên trị chơi, giải thích cách chơi và
nêu rõ luật chơi để học sinh nắm vững được trò chơi trước khi thực hiện.
+ Cho học sinh chơi thử.
+ Chơi thật: học sinh tham gia trò chơi theo nhóm hoặc cá nhân; giáo viên
hướng dẫn các học sinh hoặc nhóm học sinh khác chú ý đến việc thực hiện trò chơi
của bạn.
+ Tổng kết, đánh giá: kết thúc trò chơi, giáo viên yêu cầu học sinh đánh giá
việc thực hiện trị chơi của nhau: trị chơi có được thực hiện đúng quy tắc không
theo luật không? Giáo viên nhận xét, đánh giá chung, tuyên bố nhóm (hay cá nhân)
thắng cuộc và khen thưởng (nếu có).
2.3.3. Tổ chức một số trò chơi học tập cụ thể trong bài giảng Địa lí cơng nghiệp
– Địa lí 10, ban cơ bản.

Trường THPT Xuân Trường C


12

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

Dựa vào mục tiêu kiến thức, kĩ năng và đặc điểm học sinh, tơi đã vận dụng
một số trị chơi trong các tiết học thuộc chủ đề Địa lí cơng nghiệp với việc chia lớp
học thành các nhóm chơi; mỗi nhóm có từ 4 – 6 học sinh (nhằm mục đích tạo ra sự
ganh đua giữa các nhóm và đảm bảo tất cả học sinh trong các nhóm đều được làm
viêc; từ đó hoạt động chơi sẽ sơi nổi, tích cực hơn). Và sau mỗi phần chơi trong
từng tiết học, điểm số của các nhóm sẽ được tổng kết và tính tổng vào cuối giờ
(như vậy sẽ có tính kích thích các em cố gắng trong các lần chơi), nhóm có điểm
cao nhất sẽ dành được phần quà của giáo viên. Cụ thể, tơi đã sử dụng các trị chơi
học tập sau:
* Trị chơi: Ai nhanh hơn

Trị chơi này nhằm kích thích học sinh động não, kể cả các em học sinh yếu
kém. Nó có thể được áp dụng khi giáo viên yêu cầu học sinh nêu những biểu hiện
cụ thể của nội dung, khái niệm địa lí mà các em chưa biết, đã được học hoặc đã
quen thuộc trong đời sống hàng ngày để các em thảo luận và nhanh chóng đưa ra
đáp án. Trị chơi này có thể được tổ chức vào đầu giờ hoặc cuối giờ học tùy vào
mục đích để kiểm tra bài cũ, liên hệ bài mới hoặc củng cố kiến thức.
Cách tiến hành trò chơi: giáo viên chuẩn bị một số dụng cụ chơi cần thiết và
phát cho từng nhóm học sinh; phổ biến luật chơi và cuối cùng là tổng kết trị chơi,
động viên, khuyến khích sự cố gắng của từng nhóm.
Cụ thể ở phần khởi động trước khi vào bài 31: Vai trò và đặc điểm của công

nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và phân bố công nghiệp, giáo viên
phát cho mỗi đội một phiếu trắng, nêu yêu cầu của trò chơi: trong 10 giây các đội
suy nghĩ và nhanh tay ghi tên các sản phẩm của ngành cơng nghiệp mà mình biết.
Sau khi thời gian kết thúc, giáo viên chiếu kết quả của từng nhóm và chấm điểm:
mỗi sản phẩm đúng sẽ tính là 1 điểm; sản phẩm phẩm sai khơng tính điểm. Mục
đích của phần chơi này nhằm giúp học sinh tiếp cận với kiến thức bài học mà các
em sắp được học, huy động tính tích cực của tất cả học sinh trong lớp, em nào cũng
phải động não suy nghĩ và hoạt động. Đồng thời, nó cịn giải tỏa tâm lí mệt mỏi,
căng thẳng; tạo ra tâm lí thoải mái, phấn khởi, hào hứng học tập hơn. Bên cạnh đó
thơng qua phần đáp án của các nhóm, giáo viên căn cứ để dẫn dắt vào bài học đảm
bảo tính liên tục và hệ thống.
Tương tự như vậy, trong phần VII – Công nghiệp thực phẩm của bài 32: Địa
lí các ngành cơng nghiệp (tiết 2), giáo viên cũng có thể tổ chức cho học sinh trong
các nhóm lần lượt thay nhau lên bảng kể tên các sản phẩm của ngành công nghiệp
thực phẩm trong thời gian là 1 phút (mỗi học sinh chỉ được ghi một sản phẩm). Khi
thời gian kết thúc, nhóm nào liệt kê được nhiều sản phẩm đúng nhất thì nhóm đó
Trường THPT Xn Trường C

13

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

thắng. Bên cạnh đó, thơng qua việc đánh giá kết quả của từng nhóm, giáo viên có
thể chỉnh sửa lỗi sai cho học sinh trong các nhóm. Ví dụ như có nhóm học sinh tôi
dạy đã nêu lúa gạo là sản phẩm của cơng nghiệp thực phẩm, điều này là khơng

hồn tồn chính xác. Như vậy, việc sửa sai đó của giáo viên không chỉ giúp thay
đổi nhận thức của cá nhân làm sai mà còn rút kinh nghiệm cho nhiều học sinh
khác, tạo ra những tình huống có vấn đề mà các em chưa kịp nghĩ tới. Đồng thời,
thông qua việc thay nhau lên bảng viết với yêu cầu nhanh, khẩn trương đã tạo ra
cho học sinh một trạng thái mới (thông thường trong các giờ học, học sinh chủ yếu
là ngồi nghe, ghi chép và thi thoảng có em đứng lên trả lời câu hỏi hoặc làm bài),
giúp các em bớt ì hơn, tỉnh táo hơn, khơng khí lớp học sẽ thay đổi, sôi nổi hơn.
Hoặc sau khi dạy xong phần II của bài 33 – Tổ chức lãnh thổ công nghiệp,
nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức ở học sinh, giáo viên phát cho mỗi nhóm 4 sơ đồ
về 4 hình thức tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp và các mảnh ghép ghi thông tin về đặc
điểm, tên của các hình thức tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp; băng dính hai mặt để các
nhóm dán các thơng tin lên vị trí đúng. Trong thời gian 5 phút, các nhóm treo kết
quả của nhóm mình lên bảng. giáo viên và các nhóm sẽ đánh giá và cho điểm đối
với nhóm làm đúng nhất. Cụ thể:
+ 4 sơ đồ về 4 hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp là

Trường THPT Xuân Trường C

14

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

+ Các mảnh ghép ghi thông tin về đặc điểm, tên của các hình thức tổ chức
lãnh thổ cơng nghiệp là: khu cơng nghiệp; điểm công nghiệp; trung tâm công
nghiệp; vùng công nghiệp; đồng nhất với điểm dân cư; gồm 1 đến 2 xí

nghiệp ; có ranh giới rõ ràng, tập trung nhiều xí nghiệp với khả năng hợp tác
sản xuất cao; gắn với đơ thị vừa và lớn; có các xí nghiệp nịng cốt và các xí
nghiệp bổ trợ, phục vụ; vùng lãnh thổ rộng lớn; có một vài ngành cơng nghiệp
chủ yếu tạo nên hướng chun mơn hóa với các ngành phục vụ, bổ trợ.
Trường THPT Xuân Trường C

15

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

Đáp án của trị chơi là:
Điểm cơng nghiệp

đồng nhất với điểm dân cư
gồm 1 đến 2 xí nghiệp

Khu cơng nghiệp tập trung
Trung tâm cơng nghiệp

có ranh giới rõ ràng
gắn
đơ nhiều
thị vừa
lớn
tập với

trung
xívà
nghiệp
với khả năng hợp tác sản
xuất cao
có các xí nghiệp nịng cốt và các
xí nghiệp bổ trợ, phục vụ

Vùng cơng nghiệp

có các xí nghiệp nịng
vùng lãnh thổ rộng lớn
cốt và các xí nghiệp bổ
trợ, phục vụ
có một vài ngành cơng nghiệp chủ
yếu tạo nên hướng chun mơn hóa
với các ngành phục vụ, bổ trợ

Như vậy sau trị chơi này, ngồi tính giải trí, học sinh cịn có thể học thuộc
bài ln trên lớp mà không phải mất thời gian về nhà học bài.
Trường THPT Xuân Trường C

16

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi


* Trị chơi: Nhìn hình đốn chữ
- Mục đích của trị chơi này là nhằm phát huy cao độ khả năng tư duy nhanh
nhạy của học sinh để tìm ra kiến thức, tạo khơng khí sơi nổi, hứng thú trong lớp
học. Bởi sau mỗi hình ảnh mà các em đốn ra được nội dung ẩn trong đó là sự
phấn khích, hưng phấn, thơi thúc bản thân các em tiếp tục tìm hiểu tiếp. Đồng thời,
việc nhớ kiến thức của các em sẽ được khắc sâu hơn vì con người chỉ nhớ 10%
những gì họ đọc, 20% những gì học nghe, 80% những gì họ nói, và 90% những gì
họ nói và làm, tức là khi họ tự khám phá. Trị chơi này có thể được áp dụng khi tìm
hiểu kiến thức mới hoặc áp dụng ở phần củng cố nội dung, kiến thức của bài học.
Cách tiến hành trò chơi: Giáo viên chuẩn bị hình ảnh minh họa liên quan đến
nội dung bài học; cờ báo trả lời đáp án. Giáo viên chiếu hình lên máy chiếu hoặc
treo hình lên bảng phụ và cho các nhóm đốn những hình ảnh đó thể hiện nội dung
gì? Các học sinh trong nhóm cùng thảo luận, sau một thời gian nhất định nhóm nào
giơ cờ báo trả lời đáp án trước, nhóm đó được quyền đưa đáp án trước và sẽ được
cộng điểm nếu đó là đáp án đúng; nếu đáp án sai, các nhóm khác có quyền giơ cờ
báo và trả lời thay. Kết thúc trị chơi, nhóm nào ghi được nhiều điểm nhất sẽ giành
chiến thắng.
Cụ thể trong mục I .1 của bài 31: Vai trị và đặc điểm của cơng nghiệp. Các
nhân tố ảnh hưởng tới phát triển và phân bố công nghiệp, tơi đã áp dụng trị chơi
này với mục đích hình thành ở học sinh kiến thức mới về vai trò của ngành công
nghiệp. Sau khi phổ biến luật chơi, giáo viên sẽ chiếu lần lượt một số hình ảnh
minh họa liên quan đến vai trị của ngành cơng nghiệp, học sinh các nhóm sẽ quan
sát và dựa vào kiến thức SGK mục I.1 trang 118 để đưa ra được đáp án đúng. Thời
gian suy nghĩ, thảo luận của các nhóm đối với mỗi hình ảnh là 10 giây. Dưới đây là
hình minh họa cho trị chơi (phần chữ chú thích trên hình do học sinh phát hiện
ra):
Dựa vào mục I.1 ( SGK trang 118) và các hình ảnh sau em hãy cho biết :
-Vai trị của ngành cơng nghiệp?


Trường THPT Xuân Trường C

17

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

Trường THPT Xuân Trường C

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

18

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

* Trị chơi: Chúng tơi là những nhà thơng thái
Tên gọi của trị chơi đã một phần nào thể hiện được nội dung và tác dụng mà
trị chơi mang lại. Đó là thơng qua những kiến thức đã cung cấp trong SGK kết hợp
với hiểu biết của bản thân, học sinh thảo luận để đưa ra giải thích, kết luận của một
quan điểm địa lí nào đó. Để tham gia tốt trị chơi này, học sinh cần phát huy năng
lực hợp tác, ngôn ngữ, tư duy logic. Khi trình bày những ý kiến của bản thân và
nhóm đưa ra được giáo viên cơng nhận, học sinh và nhóm của mình sẽ cảm thấy tự
hào, hãnh diện hơn; từ đó các em cảm thấy tự tin hơn vào bản thân mình. Đó chính

là phần q lớn nhất trong q trình tham gia trị chơi mà học sinh đạt được. Trị
chơi này có thể diễn ra vào phần củng cố của bài học hoặc hình thành kiến thức
mới cho học sinh.
Cách thức tiến hành: tôi đã áp dụng trò chơi trên vào phần II – Các nhân tố
ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố công nghiệp của bài 31. Sau khi hướng dẫn
học sinh đọc SGK mục II - trang 120, để giúp học sinh đưa ra nhận thức đúng về
vai trò quan trọng của từng nhân tố, giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia trị
chơi “Chúng tơi là những nhà thông thái”
Nội dung và luật chơi như sau: Giáo viên chiếu bài tập nhận thức trên bảng Nối nhân tố với ảnh hưởng thích hợp của các nhân tố đó đến phát triển và phân bố
công nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, nhân tố đóng vai trị quan trọng đối với sự
phát triển và phân bố cơng nghiệp? Vì sao?

Trường THPT Xuân Trường C

19

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

Nhân tố

Ảnh hưởng

Vị trí địa lí

Qui mơ, cơ cấu, phân bố, hình thức

tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp.

Tự nhiên

Thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển
công nghiệp

Kinh tế - xã hội

Lựa chọn xây dựng các nhà máy, xí
nghiệp, khu cơng nghiệp, khu chế xuất

Các nhóm có thời gian suy nghĩ 5 phút, đại diện các nhóm sẽ lần lượt đưa ra
đáp án của mình và trình bày trước lớp. Giáo viên nhận xét, đánh giá và cho điểm.
Kết quả tôi nhận thấy: khi tham gia trị chơi này, mỗi nhóm học sinh đưa ra một
nhận định. Có nhóm coi vị trí địa lí đóng vai trị quyết định đến sự phát triển và
phân bố của cơng nghiệp; có nhóm lại coi nhân tố tự nhiên hay nhân tố kinh tế - xã
hội mới là nhân tố quyết định. Việc không thống nhất về quan điểm đó đã dẫn tới
sự tranh luận sơi nổi giữa các nhóm, nhóm nào cũng cố đưa ra những quan điểm
đúng đề bảo vệ cho ý kiến của mình; các em không chỉ vận dụng kiến thức đã học
mà còn biết vận dụng vốn hiểu biết từ thực tế khá phong phú để đưa ra những ví dụ
minh họa cho nhận định của mình. Nếu như đã có lúc tơi nghĩ học sinh của mình
hầu như khơng quan tâm về xã hội xung quanh,chỉ biết sống thụ động, hưởng thụ
thì thơng qua việc tranh luận của các em tơi đã thay đổi cách nhìn nhận của mình.
Như vậy bằng cách áp dụng trị chơi “Chúng tơi là những nhà thơng thái” giáo
viên có thể phát huy tối đa những mặt mạnh về tâm sinh lí của học sinh lớp 10. Để
trò chơi phát huy hiệu quả, giáo viên cần lựa chọn nội dung có vấn đề, gần gũi với
đời sống thực tế của học sinh. Và trong nội dung chương trình Địa lí 10 cũng có rất
nhiều nội dung mà giáo viên có thể nghiên cứu áp dụng trị chơi trên.
* Trị chơi: Đốn ý đồng đội

Mục đích của trị chơi tạo cho học sinh có thể phát triển khả năng diễn đạt
ngôn ngữ, tư duy logic cũng như khả năng vận dụng kiến thức địa lí tốt để diễn tả
cho bạn hiểu được ý của mình; cũng như là đốn được nội dung địa lí mà bạn mình
diễn tả. Trị chơi được dùng trong khi hình thành kiến thức mới hoặc củng cố nội
dung bài học vào cuối giờ hoặc tiết ôn tập.
Cách thức tiến hành: Giáo viên chuẩn bị một số gói các từ, cụm từ liên quan
đến nội dung bài học. Đại diện của từng nhóm lên bốc thăm chọn và lần lượt diễn
Trường THPT Xuân Trường C

20

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

tả cho các bạn trong nhóm biết về từ hay cụm từ đó bằng ngơn ngữ , hình vẽ hoặc
các động tác diễn tả (lưu ý khơng được nói, vẽ bất cứ từ nào có liên quan đến từ
cần diễn tả). Nếu sau 10 giây các thành viên cịn lại trong nhóm khơng đưa ra được
đáp án, phần trả lời sẽ thuộc về các nhóm khác. Cứ một từ được trả lời đúng thì
điểm số sẽ được tính cho đội đốn đúng từ đó là một điểm. Sau khi diễn tả xong
các từ khóa, GV sẽ đội lên đầu người diễn tả của từng đội một chiếc mũ có ghi từ
chủ đề của các từ ngữ mà bạn đó vừa diễn tả. Các học sinh trong nhóm đó sẽ phải
diễn tả bằng ngơn ngữ, hình vẽ, động tác cho bạn đốn ra được từ khóa mà mình
đang đội. Nếu bạn đó nêu đúng từ khóa thì đội có 5 điểm, cịn khơng sẽ khơng ghi
được điểm.
Đối với phần hình thành kiến thức mới, giáo viên có thể nâng cao trị chơi
thêm một chút. Đó là từ những từ khóa đã có, nhóm học sinh nghiên cứu SGK để

nêu nội dung vắn tắt, đầy đủ của từ khóa chủ đề với những từ ngữ gợi ý đã có. Sau
một thời gian nhất định nhóm học sinh sẽ đưa ra ý kiến của mình, giáo viên cho
học sinh đối chiếu với kết quả chuẩn và đánh giá cho điểm. Thông thường đây là
nhiệm vụ khá khó những cũng rất thú vị đối với học sinh những lớp tôi đã làm thử
nghiệm.
Cụ thể đối với bài 32: Địa lí các ngành cơng nghiệp (tiết 2), tơi đã chuẩn bị 3
gói từ, nhóm từ:
+ Gói 1 gồm các từ, nhóm từ: mũi nhọn, thước đo trình độ, trẻ có trình độ, 4
nhóm , nước phát triển và từ chủ đề là công nghiệp điện tử - tin học.
+ Gói 2 gồm các từ, nhóm từ: tiêu dùng, lao động, vốn đầu tư, dệt may, nước
đang phát triển và từ chủ đề là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
+ Gói 3 gồm các từ, nhóm từ: ăn uống, thủy hải sản, trồng trọt, chăn nuôi,
nước đang phát triển và từ chủ đề là công nghiệp thực phẩm.
Với 3 gói từ trên tơi đã áp dụng trị chơi trên với 2 mục đích:
+ Với mục đích hình thành kiến thức mới về vai trò, đặc điểm, cơ cấu ngành
công nghiệp điện tử - tin học, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp
thực phẩm; tôi chia lớp học thành 3 nhóm lớn, mỗi nhóm sẽ cử một đại diện tiêu
biểu lên bốc thăm gói từ để diễn tả. Sau khi gói từ đã được diễn tả và đốn xong,
các thành viên trong nhóm sẽ đọc SGK, thảo luận và viết vào phiếu trắng do giáo
viên phát cho để nêu vai trò, đặc điểm, cơ cấu ngành, phân bố của ngành cơng
nghiệp mà nhóm mình bốc diễn tả (trong phần trình bày của nhóm phải đảm bảo có
các từ khóa mà nhóm đã diễn tả). Sau đó giáo viên sẽ thu và đối chiếu với kết quả
chuẩn do GV chuẩn bị, đánh giá và cho điểm theo từng tiêu chí. Như vậy trên cơ
sở các từ đã có học sinh đã tự mình tìm ra kiến thức bài học một cách dễ dàng theo
Trường THPT Xuân Trường C

21

Năm học 2016 - 2017



Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

định hướng của giáo viên. Tuy nhiên đối với mục đích này tơi mới chỉ áp dụng với
lớp chọn với đại đa số các em học sinh khá và giỏi.
+ Ở những lớp học đại trà, tơi áp dụng trị chơi trên với mục đích củng cố
kiến thức. Các em chỉ cần diễn tả và đốn đúng được gói từ của mình.
* Trị chơi: Ơ chữ bí mật
Đây là một trong những trị chơi quen thuộc nhưng khi được chơi học sinh vẫn
thấy thú vị và hào hứng vì nó phát huy cao độ tư duy nhanh nhạy, sáng tạo của học
sinh. Trò chơi này có thể tổ chức vào đầu giờ với mục đích kiểm tra bài cũ và giới
thiệu bài mới hoặc diễn ra vào cuối giờ học nhằm củng cố, khắc sâu ở học sinh nội
dung địa lí nào đó.
Cách chơi: Giáo viên giới thiệu qua ơ chữ gồm có bao nhiêu hàng ngang, hàng
dọc từ chìa khố nằm ở hàng nào sau đó giáo viên lần lượt đọc từng câu hỏi gợi ý để
học sinh các nhóm xung phong giải ơ chữ. Nếu nhóm nào trả lời đúng thì ghi dịng
chữ đó vào ơ chữ và sẽ được cộng điểm, cịn nếu trả lời sai thì sẽ nhường cơ hội cho
các nhóm cịn lại. Nhóm nào tìm ra được ơ từ khóa chính xác và nhanh nhất sẽ là
nhóm chiến thắng.
Ví dụ khi dạy xong chủ đề Địa lí các ngành cơng nghiệp, giáo viên tổ chức trị
chơi ơ chữ cho học sinh nhằm khắc sâu, củng cố kiến thức đã học trong tiết ôn tập.
Sau khi phổ biến luật chơi, giáo viên treo ô chữ lên bảng và trình bày: Ơ chữ bí mật
gồm 13 chữ cái nói về quá trình mà các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
đang tiến hành thực hiện. Để tìm ra được ơ chữ từ khóa, các em sẽ lần lượt giải mã 8 ô
chữ hàng ngang (mỗi ô chữ hàng ngang sẽ chứa một số chữ cái trong ô chữ bí mật)
với các gợi ý sau:
1. Hàng ngang thứ 1 gồm 6 chữ cái: Cơng nghiệp có vai trị như thế nào trong
nền kinh tế quốc dân?

2. Hàng ngang thứ 2 gồm 6 chữ cái: Sản xuất công nghiệp bao gồm 2 giai đoạn,
cả 2 giai đoạn đó đều sản xuất bằng …?
3. Hàng ngang thứ 3 gồm 7 chữ cái: Có vai trị kìm hãm hay thúc đẩy sự phát
triển công nghiệp là nhân tố…?
4. Hàng ngang thứ 4 gồm 9 chữ cái: Khai thác than, dầu, công nghiệp điện lực
là các ngành thuộc nhóm ngành cơng nghiệp…?
5. Hàng ngang thứ 5 gồm 10 chữ cái: Điểm khác biết của công nghiệp điện tử tin học so với các ngành công nghiệp khác là cần…?
6. Hàng ngang thứ 6 gồm 6 chữ cái: Ngành chủ đạo và quan trọng của công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là…?
7. Trong các sản phẩm: cám, gạo, lúa; sản phẩm nào không thuộc công nghiệp
thực phẩm là…?
Trường THPT Xuân Trường C

22

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hoài

8. Trong các hình thức tổ chức lãnh thổ cơng nghiệp, hình thức đơn giản nhất
là…?
Đáp án của trị chơi trên là:

C H
N

Đ

C


T
Ă
L

Đ
M

N
A
D


Á
N
G
O

L
C

I

M
Ơ chữ bí mật là:
Ơ
N
G

N

O
Y
H
L
Đ
T
Ú
Ơ
G

M
I
Ư

M
A
N
H

Ĩ
Ê

N
A

C
N
G

G
Y

G

N

I



P

T

R



G

H

I

H

Ĩ




P

A

Bằng cách vận dụng những trị chơi đó, tơi thấy bài giảng hấp dẫn hơn, học
sinh bị cuốn hút bởi những trò chơi mới được vận dụng linh hoạt, phù hợp với những
nội dung địa lí và từng đối tượng học sinh.

III. HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN MANG LẠI
Sau khi kết thúc chủ đề Địa lí cơng nghiệp theo phương pháp sử dụng trò chơi
học tập ở các lớp khối 10 là 10a2, 10a6 do tôi giảng dạy, tôi thấy đã đạt được các kết
quả sau :
* Về phía giáo viên : Bản thân là giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi cảm thấy vui nhẹ
nhàng hơn, không còn mệt mỏi khi truyền thụ kiến thức tới học sinh vì các em tiếp
nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực thơng qua trị chơi. Kỹ năng vận dụng trị
chơi của tơi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tơi có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa
chọn và tổ chức trò chơi hơn, đảm bảo kiến thức và kỹ năng bài học cho học sinh.
Đồng thời, khi quan sát học sinh chơi một số trị chơi tơi cũng phát hiện ra nhiều học
sinh thơng minh, có tố chất học tốt mơn Địa lí để động viên, khuyến khích các em
tham ga đội tuyển học sinh giỏi bộ mơn mình.
* Về phía học sinh : Thơng qua trao đổi, trị chuyện với học sinh các lớp tơi dạy,
để tìm hiểu về thái độ (phản ứng) của các em khi giáo viên dạy học theo phương pháp
sử dụng trò chơi học tập, tơi thấy các em rất thích thú và mong muốn giáo viên tổ
chức nhiều trò chơi học tập hơn nữa trong các bài học để các em tiếp thu kiến thức
một cách dễ dàng và hiệu quả hơn. Khi tham gia trò chơi học tập các em thấy rất hứng
phấn và tích cực tham gia xây dựng bài (kể cả các học sinh nhút nhát, học lực yếu
kém) ; có nhiều học sinh cảm thấy tự tin hơn vào khả năng của mình, từ đó các em
Trường THPT Xn Trường C


23

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm

GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

thích thể hiện mình hơn trong các giờ học thơng qua tham gia tích cực các trị chơi ;
khơng khí lớp học vì thể cũng sơi nổi hơn.
Ngồi ra, tơi cũng tiến hành tổ chức cho học sinh các lớp dạy bằng phương pháp
trò chơi học tập là 10a2, 10a6 (lớp thực nghiệm – lớp TN) và lớp 10a4 không dạy
phương pháp trên (lớp đối chứng – lớp ĐC) cùng làm bài kiểm tra 30 phút (phụ lục).
Thông qua việc chấm bài kiểm tra kiến thức, kĩ năng 15 phút, thống kê số điểm của
học sinh từ thấp đến cao; đánh giá và đối chiếu kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng; sử dụng thang điểm 10 để đánh giá các bài kiểm tra kiến thức, kĩ năng theo
mức độ: (tính theo tỉ lệ %)
Điểm 8-10: loại giỏi
Điểm 7: loại khá
Điểm 5-6: loại trung bình
Điểm <5: loại yếu
Tơi đã thu được kết quả của bài kiểm tra trên tiến hành ở lớp TN (thực nghiệm)
và lớp đối chứng (ĐC) như sau:
Xếp loại

Lớp ĐC

Loại giỏi


10A2(40HS)
Số h/s Tỉ
lệ( %)
12
30

Lớp TN
10A6(38HS)
10A4(38HS)
Số h/s Tỉ
lệ Số h/s Tỉ lệ (%)
(%)
10
26,3
5
13,2

Loại khá
18
45
15
39,5
12
31,6
Loại
trung
10
25
12
31,6

17
44,7
bình (5-6 điểm)
Loại yếu (<
0
4,8
1
2,6
4
10,5
5điểm)
Thơng qua bảng tổng kết trên, tôi thấy rằng tỉ lệ học sinh nắm kiến thức sau bài
học ở lớp thực nghiệm vẫn cao hơn hẳn so với lớp đối chứng, tỉ lệ học sinh khá giỏi
cao hơn rất nhiều so với lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ, tham gia hình thức dạy học
theo phương pháp sử dụng trò chơi học tập học sinh chủ động nắm được kiến thức và
nhớ kiến thức được lâu hơn so với hình thức dạy học thông thường.
Với các kết quả thực nghiệm trên, tôi có thêm cơ sở thực tiễn để tin tưởng vào
khả năng ứng dụng phương pháp sử dụng trò chơi học tập trong mơn Địa lí 10 nói
riêng và mơn Địa lí nói chung. Việc sử dụng phương pháp trị chơi học tập vào dạy
học Địa lí THPT là điều rất cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, phát huy
tính tích cực học tập của học sinh, đáp ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung và
phương pháp trong dạy học hiện nay.
Trường THPT Xuân Trường C

24

Năm học 2016 - 2017


Sáng kiến kinh nghiệm


GV: Vũ Thị Ngọc Hồi

Tuy nhiên, thơng qua việc áp dụng phương pháp sử dụng trò chơi học tập trong
bài giảng Địa lí cơng nghiệp, kết hợp với ý kiến của các em học sinh và đồng nghiệp,
tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
+ Việc sử dụng trị chơi học tập trong bài giảng Địa lí là rất cần thiết nhưng
khơng nên q lạm dụng nó: không nên biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức
quá nhiều trò chơi trong tiết học, tạo cho học sinh sự thái quá, không nghiêm túc.
+ Khi thiết kế trị chơi, GV cần có sự chuẩn bị chu đáo về đồ dùng học tập phục
vụ trò chơi, đảm bảo tính khoa học, thẩm mĩ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
học sinh THPT; góp phần thu hút sự chú ý của học sinh trước khi chơi. Ngoài ra GV
cần nghiên cứu tùy theo số lượng học sinh, điều kiện cơ sở vật chất để tổ chức các trò
chơi sao cho phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, nếu tổ chức trị chơi khơng tốt
sẽ bị hạn chế về ý nghĩa giáo dục của trò chơi. Luật chơi cần rõ ràng, đơn giản, dễ
nhớ, dễ thực hiện, khơng địi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện chơi thử.
+ Sau mỗi lần chơi, GV cần phải nhận xét việc thực hiện của học sinh, chú ý đến
những học sinh yếu kém, nhút nhát; khuyến khích động viên các em một cách kịp thời
để khích lệ các em nói và tích cực tham gia vào hoạt động chơi.
+ Trong quá trình dạy học, giáo viên cần yêu cầu học sinh nghiêm túc trong học
tập và thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị học tập của học sinh ở nhà, phải theo
dõi quá trình học tập của học sinh để làm cơ sở cho quá trình kiểm tra đánh giá được
khách quan hơn, tạo động cơ học tập tốt cho học sinh.

IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HAY VI PHẠM BẢN QUYỀN
Trên đây là toàn bộ sáng kiến: Sử dụng phương pháp trò chơi học tập trong
bài giảng Địa lí cơng nghiệp - Địa lí 10 – ban cơ bản đã được tôi thực hiện dạy vào
tháng 1 năm học 2016 – 2017. Tôi cam kết đây là sáng kiến kinh nghiệm do chính bản
thân tơi thực hiện thơng qua q trình học tập ở thầy cô, đồng nghiệp, qua nghiên cứu
và thực tiễn giảng dạy. Tôi xin chia sẻ và rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của

thầy cơ, bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tơi được hồn thiện hơn. Tơi xin chân
thành cảm ơn!
CƠ QUAN ĐƠN VỊ
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Vũ Thị Ngọc Hoài

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trường THPT Xuân Trường C

25

Năm học 2016 - 2017


×