KỊCH BẢN DIỄN ÁN HỒ SƠ 06 - HÌNH SỰ
(ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT)
(Sau phần: Thủ tục bắt đầu phiên tòa), Chủ tọa phiên tòa hỏi:
- Vị đại diện Viện Kiểm sát có ý kiến gì không?
- Trả lời: Kính thưa HĐXX, đại diện VKS không có ý kiến gì về thủ tục bắt đầu
phiên tòa, xin HĐXX tiếp tục làm việc.
(Sang phần: Thủ tụcxét hỏi tại phiên tòa) - Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát
viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có).
Kính thưa HĐXX, sau đây tôi xin đọc bản cáo trạng: (đọc toàn văn bản Cáo
trạng)
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
QUẬN 7 TP.HCM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quận 7, ngày 22 tháng 08 năm 2012
CÁO TRẠNG
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN 7
•
Căn cứ các điều 36, 166, 167 Bộ luật tố tụng hình sự
•
Căn cứ quyết định khởi tố vụ án hình sự số: 125 và các quyết định khởi tố bị
can số 109, 110, 111, 112 ngày 22.03.2012 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an
quận 7 TP.HCM
Đối với :
Lê Hy Minh Hải
Lê Quang Trung
Tống Hữu Thành
TRần Thị Mỹ Thảo
Về tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý”
Trên cơ sở kết quả kiểm sát điều tra đã xác định được như sau:
Khoảng vào lúc 1h ngày 16/03/2012, đội cảnh sát điều tra tội phạm ma tuý Công
an quận 7 kết hợp với công an phường Bình Thuận quận 7 kiểm tra phòng số 101 khách
sạn khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ số 30A đường số 1 phường Bình Thuận quận 7 phát
hiện các đối tượng Lê Quang Trung, Phạm Ngọc Thành, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm
đang sử dụng trái phép chất ma tuý tổng hợp. Vật chứng thu giữ gồm : 20 gói ma túy
tổng hợp tên gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng : 4,0852 gram, một máy điện thoại
hiệu NOKIA; 3,500,000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp.
Qua lời khai của Trung số ma túy tổng hợp trên Lê Quang Trung mua của Lê Hy
Minh Hải vào các ngày 12/03/2012 và 15/03/2012 mỗi lần ½ hộp 5 về phân ra từng gói
nhỏ có giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, Đội
ma tuý phát hiện Hải đang thuê phòng 303 khách sạn Khánh Ngọc cùng địa chỉ và đã mời
Hải về làm rõ và mở rộng điều tra đến khoảng 16 giờ 45 ngày 16/03/2012, tại ngã ba
đường Phan Huy Thực và đường Lê Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, đội ma túy
phát hiện Tống Hữu Thành đang được tên Võ Quốc Cường dùng xe NOUVO biển số
54Z4-2723 chở Thành mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện (Nhưng Cường không
biết Thành đi bán ma túy). Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng
0,0852gram, 01 điện thoại di động và 300.000 đồng và xe gắn máy mang biển số 54Z42723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt quả tang
Tống Hữu Thành thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành để mua ma túy nên bị
đội ma túy mời về làm việc; Phạm Văn Chính; (tự Ty) sinh năm: 1984; HKTT: ấp 2, thị
trấn Cần Giuộc, Long An; Phạm Quốc Hiệp; sinh năm 1988, HKTT: C84 xóm Chiếu,
phường 14, quận 4.
Mở rộng điều tra đến khoảng 0h 30 ngày 17/03/2012 trước khách sạn Lan Anh địa
chỉ A77 khu dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7,Đội ma túy Công an quận 7 đã
phát hiện Trần Thị Mỹ Thảo đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa (sinh năm 1956 HKTT:
245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi bán. Thu giữ của Thảo 01 gói
ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng lượng 2,3947 gram, 2 máy ĐTDĐ và
600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an quận 7, Trần Thị Mỹ Thảo khai nhận
đã đượ Dũng nhờ đem ma túy đi bán 02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Tống Hữu Thành
ra, Thảo còn 02 lần bán ma túy cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên
địa bàn quận 7. Việc Trần Thị Mỹ Thảo bán ma túy cho Dũng, Thảo được Dũng cho tiền
hai lần, tổng cộng là 3.000.000 đồng. Số tiền này Thảo đã ăn xài cá nhân và mua ma túy
sử dụng hết. Ngoài việc bán ma túy cho Lê Quang Trung, Lê Hy Minh Hải còn bán ma
túy của Thúng và Minh bê đê (không xác định nhân thân và lai lịch) tổng cộng 03 lần
Lần thứ nhất vào ngày 02/03/2012, tại khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ 30A đường
số 1, phường Bình Thuân, quận 7. Lần này Lê Hy Minh Hải bán cho Tống Hữu Thành ½
hôp năm ma túy tổng hợp giá 3,500,000 đồng, Thành trả trước 1000,000 đồng và thiếu
lại 2,500,000 đồng.
Lần 2 vào ngày 10/03/2012, tại quán café điểm hẹn quận 7, Lê Hy Minh Hải bán
cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 mà túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Hy Minh Hải
nói Lê Quang Trung đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về đưa Hải.
Lần thứ 3 vào ngày 12/03/2012, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Hy Minh Hải bán
cho Tống Hữu Thành ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng, Thành chưa trả
tiền cho Hải. Tổng cộng Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Hy Minh Hải 03 lần, riêng
lần mua 10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không xác định nhân thân
lai lịch) giá 12.800.000 đồng. Tống Hữu Thành thu lợi bất chính 600.000 đồng. Còn hai
lần Tống Hữu Thành mua của Lê Hy Minh Hải ½ hộp năm ma túy tổng hợp, Thành
mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 đến 300.000 đồng cất giấu
sẵn trong người. Chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử dụng, điện thoại cho
Thành theo số 0903536313, Thành sẽ mang đi bán cho các đối tượng nghiện. Các đối
tượng nghiện thường mua ma túy của Tống Hữu Thành gồm có: Phạm Văn Chính (tự
Ty), Phạm Quốc Hiệp và Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc Cường (cùng bị bắt ngày
16/03/2012) và 5 đối tượng khác không biết rõ tên và địa chỉ. Địa điểm Tống Hữu Thành
thường bán ma túy là những địa bàn vắng người trên quận 4 và quận 7.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Hy Minh Hải ra, Tống Hữu Thành còn mua ma
túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách ngày Tống
Hữu Thành bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày 17/03/2012. Mỗi lần
Tống Hữu Thành mua ma túy của Dũng thì Dũng không trực tiếp mang đi bán, mà Dũng
nhờ Trần Thị Mỹ Thảo mang đi bán cho Dũng. Trong thời gian thực hiện việc mua bán
trái phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2012 đến ngày 17/03/2012), tổng số tiền Tống
Hữu Thành thu lợi bất chính là 6.000.000 đồng, số tiền này Thành đã ăn sài và mua ma
túy sử dụng hết.
* Vật chứng vụ án:
Tạm giữ của Lê Quang Trung:
- 20 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công
an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA,cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA, là phương tiện trong việc liên lạc dùng
để buôn bán ma túy.
- 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng).
- 01 số dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
- 01 xe gắn máy biển số 54Z6 – 0098, số máy 1512399, số khung: 5055490 do chị
Phạn Thị Hoa đứng tên đăng ký. Chị Hoa khai nhận đã bán chiếc xe trên cho bà Trương
Thị Kim Sa (mẹ bị can Lê Quang Trung), ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận
Đông, quận 7, những chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Lời khai của bà Trương Thị Kim
Sa cũng phù hợp với lời khai của chị Phạm Thị Hoa. Trong thời gian nói trên bà đưa
chiếc xe nói trên cho con bà là bị can Lê Quang Trung dùng làm phương tiện chạy Honda
ôm, còn Trung dùng chiếc xe này làm phương tiện buôn bán ma túy bà Sa không biết.
Tạm giữ của Tống Hữu Thành:
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công
an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA,cân nặng: 4,0852 gram).
- 01 máy điện thoại di động, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán
ma túy.
- 300.000 đồng là số tiền bán ma túy mà có.
- 01 xe gắn máy biển số 54Z4 – 2723 do anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt, sinh năm:
1982, ngụ tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn
Phát, phường Bình Thuận, quận 7 đứng tên đăng ký xe. Anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt khai
nhận, anh đã bán chiệc xe trên cho người bạn là Võ Quốc Cườn, sinh năm 1985, ngụ tại:
450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ cũng
như giấy tờ mua bán, lời khai của Cường phù hợp với lời khai của anh Kiệt. Vào ngày
16/03/2012, bị can Tống Hữu Thành nhờ Võ Quốc Cường dùng chiếc xe trên chở đi công
chuyện, còn việc Thành đi bán mà túy Cường hoàn toàn không biết.
Tạm giữ của Trần Thị Mỹ Thảo:
- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Qua giám định tại phòng PC 54 – Công
an TP. Hồ Chí Minh là ma túy tổng hợp, chứa thành phần MA,cân nặng: 2,3947 gram).
- 01 máy điện thoại di động, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán
ma túy.
- 600.000 đồng là tiền thu lợi bất chính trong việc buôn bán trái phép chất ma túy.
Tạm giữ của Lê Hy Minh Hải:
- 01 máy điện thoại di động hiệu NOKIA, là phương tiện trong việc liên lạc dùng
để buôn bán ma túy.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận 7 Lê Hy Minh Hải, Lê Quang
Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Căn cứ cào các tình tiết và chứng cứ nêu trên:
KẾT LUẬN
Đây là vụ án: “Mua bán trái phép chất ma túy” do các bị can Lê Hy Minh Hải, Lê
Quang Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo thực hiện. Hành vi này đã trực tiếp
xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý. Đồng thời còn gây
ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn của xã hội do đó cần phải được xử lý nghiêm khắc.
Đối với lời khai của bị can Lê Hy Hải Minh và Trần Thị Mỹ Thảo về đối tượng
cung cấp ma túy tổng hợp cho Lê Hy Minh Hải và Trần Thị Mỹ Thảo tên là Thúng,
Minh Bê Đê và Dũng. Do bị can không khai rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan
cảnh sát điều tra Công an quận 7 không có điều kiện xác minh làm rõ. Cơ quan cảnh sát
điều tra tiếp tục xác minh, nếu phát hiện được đối tượng sẽ đề nghị làm rõ và xử lý sau.
Đối với Nguyễn Văn Lành, Võ Quốc Cường, Phạm Quốc Hiệp, Huỳnh Văn
Chính, Võ Quý Hiếu, Nguyễn Thị Diễm và Phan Ngọc Thành có hành vi mua ma túy
về sử dụng, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận 7 đã chuyển giao cho công an
phường Bình Thuận và Tân Hưng, quận 7 xử lý hành chính.
II. LÝ LỊCH BỊ CAN
1/ Bị can: Lê Hy Minh Hải
Sinh ngày
tháng năm 1978
Tại: Cần Thơ
Nơi ĐKHKTT: 211D/7 Bến Ba Đình, phường 8, quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh.
Chỗ ở: 211D/7 Bến Ba Đình, phường 8, quận 8 – thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc tịch: Việt Nam
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Không
Trình độ văn hóa: 9/12
Con ông:
Lê Hy Cầu
Con bà:
Nguyễn Thị Hồng Lý
Tiền án, tiền sự: Chưa
Bị can bắt giữ từ ngày 17/03/2012 .
2/ Bị can: Lê Quang Trung
Sinh ngày
tháng năm 1982
Tại: TP. Hồ Chí Minh
Nơi ĐKHKTT: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7– thành phố Hồ
Chí Minh.
Chỗ ở: : 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7– thành phố Hồ Chí
Minh.
Quốc tịch: Việt Nam
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Không
Trình độ văn hóa: 10/12
Con ông:
Lê Quang Thái
Con bà :
Trương Thị Kim Sa
Tiền án, tiền sự: Chưa có
Bị bắt giam ngày 16/03/2012
3/ Bị can: Tống Hữu Thành
Tên gọi khác:/ Mạnh Đình
Sinh ngày
tháng năm 1974
Tại: TP. Hồ Chí Minh
Nơi ĐKHKTT: 266/9 Tôn Đản, phường 4, quận 4– thành phố Hồ Chí Minh.
Chỗ ở: 334/6A Tôn Đản, phường 4, quận 4– thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc tịch: Việt Nam
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Không
Trình độ văn hóa: 8/12
Con ông:
Nguyễn Hữu Hạnh
Con bà :
Tống Thị Nhung
Tiền án, tiền sự: Có 02 tiền án
- Ngày 15/12/2004: Bị Công an quận 7 bắt về tội: “Đánh bạc”, Tòa án nhân dân
quận 7 xử phạt 3 năm tù giam.
- Ngày 20/03/2006: Bị Công an quận 4 bắt về tội: “Đánh bạc”, Tòa án nhân dân
quận 7 xử phạt 2 năm tù giam.
Bị bắt giam ngày 16/03/2012.
4/ Bị can: Trần Thị Mỹ Thảo
Tên gọi khác:/
Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1995
Tại: Khánh Hòa
Nơi ĐKHKTT: thôn Tân Mỹ, xã Ninh Xuân, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
Chỗ ở: 43/5 đường 18, khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ Đức– thành phố
Hồ Chí Minh.
Quốc tịch: Việt Nam
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiệp: Không
Trình độ văn hóa: 9/12
Con ông:
Nguyễn Tâm
Con bà :
Trần Thị Tuyết Mai
Tiền án, tiền sự: Chưa có
Bị can bị tạm giam từ ngày 17/03/2012 đến ngày 29/05/2011 thì được thay đổi
biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang biện pháp Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú do bị can
đang có thai 11 tuần tuổi.
Hành vi trên đây của các bị can Lê Hy Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu
Thành và Trần Thị Mỹ Thảo đã can tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và
hình phạt được quy định ở điểm b khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự.
Điều 194 BLHS quy định:
• Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
tuý thì bị phạt 2 năm đến 7 năm
• Phạm tội thuộc một trong các trường họp sau đây thì bị phạt tù từ 7 năm đến
15 năm
b) Phạm tội nhiều lần
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Truy tố ra trước toà án nhân dân quận 7 TP.hcm để xét xử đối với: Lê Hy Minh
Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo (có lý lịch nêu trên) về tội:
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 điều 194 Bộ luật hình sự.
Hồ sơ từ tờ số 1 đến tờ số…
KT. VIỆN TRƯỞNG - Phó viện trưởng: Nguyễn Ngọc Toàn (đã ký và đóng dấu).
XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA: (Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi
trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên).
Kiểm sát viên hỏi:
Thưa HĐXX cho tôi hỏi bị cáo Lê Quang Trung:
Bị cáo Trung cho HĐXX biết:
- Biên bản ghi lời khai tại bút lục 75, 76,77, 78; 95,96 và Bản tự khai ở bút lục
số 101 có phải những lời khai và chữ ký tại các bút lục đó đúng là của bị cáo không?
- Trong các bút lục vừa nêu, bị cáo có nhớ nội dung mình khai trong đó
không?
- Vậy tại sao, lời khai ngày 16/3/2012 bị cáo khai là: "Số ma túy công an thu giữ
trong phòng 101 đó là do Hải đưa cho tôi đem đi để bán cho các đối tượng nghiện, còn
dụng cụ sử dụng ma túy đó là của tôi". Tuy nhiên, lời khai ngày 01/4/2012 thì lại khai là:
"số ma tuý bị công an quận 7 thu giữ là tôi lấy của Minh bê đê để trừ tiền cái loa súp"?
.............................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Thưa HĐXX cho tôi hỏi bị cáo Lê Hy Minh Hải;
Bị cáo Hải cho HĐXX biết:
- Tại sao lúc mới bị bắt, bị cáo lại khai trong thời gian qua bị cáo bán ma tuý cho Lê
Quang Trung và Tống Hữu Thành (Mạnh Đình) thì bị công an quận 7 bắt giữ?
- Nếu bị cáo không bán ma tuý tại sao bị cáo Trung và Thành lại khai bị cáo có bán
ma tuý cho Trung và Thành?
.............................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Đại diện Viện Kiểm sát không hỏi thêm gì nữa, xin HĐXX tiếp tục làm việc.
PHẦN TRANH LUẬN:
Kính thưa HĐXX; thưa toàn thể những người có mặt tại phiên tòa hôm nay.
Phần xét hỏi tại phiên tòa đã kết thúc; tôi Kiểm sát viên Hoàng Thị Duyên, đại diện Viện
Kiểm sát nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện quyền công tố trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy được đưa ra xét xử công khai tại phiên tòa hôm nay; tôi xin
phát biểu quan điểm của mình như sau:
Qua hồ sơ vụ án và phần xét hỏi được làm rõ trong phiên tòa hôm nay, tôi nhận
thấy: Số ma túy được công an quận 7 thu giữ ngày 16/3/2012 tại Phòng 101 khách sạn
Khánh Ngọc của Trung mà Trung khai không phải mua của Hải mà là lấy của Minh (Bê
Đê) để trừ nợ thùng loa Súp. Cái loa súp do Trung nhờ Hải bán hộ cho Minh (Bê Đê) có
giá 5.000.000 đ là không có căn cứ, vì theo lời khai của Hải tại phiên tòa hôm nay, Hải
không biết gì về cái loa súp Trung nhờ bán cho Minh Bê Đê. Lời khai của Nguyễn Mạnh
Hùng ngày 01/11/2012 và tại phiên tòa hôm nay một lần nữa chứng minh số ma túy tổng
hợp Trung lấy của Minh Bê Đê để trừ nợ là hoàn toàn không có cơ sở. Theo lời khai của
Hải và Trung thì Trung có sử dụng ma túy tổng hợp với số lượng đã bị công an thu giữ của
Lê Quang Trung vào ngày 16/3/2012 ban đầu Trung khai mua của Hải là đúng sự thật; việc
Trung khai như vậy ban đầu nhằm để tránh né tội của mình. Tại phiên tòa hôm nay, Lê
Quang Trung, Lê Hy Minh Hải mặc dù không thừa nhận hành vi phạm tội của mình nhưng
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Hy
Minh Hải và bị cáo Lê Quang Trung phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với bị cáo Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo đã thừa nhận hành vi của
mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
do đó có đủ cơ sở để kết luận Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy thuộc trường hợp nhiều lần, tội phạm và hình phạt được quy định
tại Điểm b , Khoản 2 , Điều 194 Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Về vai trò, trách nhiệm hình sự của từng bị cáo trong vụ án, tôi có quan điểm như
sau:
Bị cáo Hải là người trực tiếp nhiều lần đi mua ma túy tổng hợp về bán cho bị cáo
Tống Hữu Thành và Lê Quang Trung, từ đó bị cáo Thành và bị cáo Trung bán lẻ cho các
con nghiện thu lợi bất chính kiếm tiền tiêu xài. Bị cao THành nhiều lần mua ma túy của
đối tượng tên Dũng nhưng chưa xác minh được lai lịch, nhân thân. Đây là vụ án mua bán
trái phép các chất ma túy với hình thức mua đứt, bán đoạn nên không có sự thống nhất
bàn bạc, ăn chia, vì vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm theo các điều luật tương ứng.
Các bị cáo đều thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần, tuy nhiên trong quá trình điều tra,
xét xử bị cáo Trung quanh co chối tội nên khi lượng hình cần phải áp dụng hình phạt cho
bị cáo Trung nặng hơn các bị cáo khác. Bị cáo Thành và bị cáo Thảo trong quá trình điều
tra và trong phiên tòa hôm nay đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên khi lượng
hình coi đây là tình tiết giảm nhẹ.
Kính thưa HĐXX.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm văn hóa, kinh tế, xã hội của khu vực Nam
Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, xã hội thì các tội phạm về kinh tế và tội phạm về trật tự xã hội nhất
là tội phạm về ma túy cũng gia tăng gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt đến an ninh, trật
tự, đời sống của nhân dân đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có các biện pháp
mạnh mẽ để đấu tranh phòng và chống các loại tội phạm, trong đó có tội phạm về ma túy.
Đây là vụ án: “Mua bán trái phép chất ma túy” do các bị cáo Lê Hy Minh Hải, Lê Quang
Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo thực hiện. Hành vi này đã trực tiếp xâm
phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý. Đồng thời còn gây ảnh
hưởng xấu đến trật tự an toàn của xã hội do đó cần phải được xử lý nghiêm khắc, cách ly
khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục và cai nghiện sau này trở
thành người có ích cho xã hội.
Bởi những lẽ trên, thay mặt Viện Kiểm sát, tôi kính đề nghị HĐXX tuyên phạt các
bị cáo như sau:
1. Bị cáo Lê Hy Minh Hải phạm tội nhiều lần, đây được xem là tình tiết tăng nặng.
Do vậy, áp dụng điểm g, Khoản 1, Điều 48; điểm b, Khoản 2, Điều 194 Bộ luật Hình sự
tuyên phạt bị cáo Lê Hy Minh Hải từ 8-9 năm tù giam;
2. Bị cáo Lê Quang Trung phạm tội nhiều lần, trong quá trình điều tra, xét xử và
trong phiên tòa hôm nay, bị cáo Trung đã khai báo gian dối, chối tội, đây được xem là
tình tiết tăng nặng. Do vậy, áp dụng điểm g, Khoản 1, Điều 48; điểm b, Khoản 2, Điều
194 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo Lê Quang Trung từ 9-12 năm tù giam;
3. Bị cáo Tống Hữu Thành phạm tội nhiều lần, đã có 02 tiền án đã chấp hành xong
hình phạt nhưng chưa được xóa án tích, đây được xem là tình tiết tăng nặng; tuy nhiên,
trong quá trình điều tra, xét xử, bị cáo Thành đã thành khẩn khai báo nên cần được xem
xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Áp dụng điểm g, Khoản 1, Điều 48; điểm p,
Khoản 1, Điều 46; điểm b, Khoản 2, Điều 194 Bộ luật Hình sự tuyên phạt Tống Hữu
Thành từ 8-9 năm tù giam;
4. Bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo phạm tội nhiều lần, tuy nhiên trong quá trình điều tra,
xét xử thành khẩn khai báo, ăn năm hối cải, khi bị bắt bị cáo Thảo mới 16 tuổi 5 tháng 7
ngày. Áp dụng điểm p, Khoản 1, Điều 46; Khoản 5, Điều 69; điểm b, Khoản 2, Điều 194
Bộ luật Hình sự tuyên phạt Trần Thị Mỹ Thảo từ 5-7 năm tù giam;
Về xử lý vật chứng:
- Về xe mô tô biển số 54Z6 – 0098, số máy 1512399, số khung: 5055490 do chị
Phạm Thị Hoa đứng tên đăng ký. Chị Hoa khai nhận đã bán chiếc xe trên cho bà Trương
Thị Kim Sa (mẹ bị can Lê Quang Trung), ngụ tại: 92/2 khu phố 3, phường Tân Thuận
Đông, quận 7, những chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Lời khai của bà Trương Thị Kim
Sa cũng phù hợp với lời khai của chị Phạm Thị Hoa. Trong thời gian nói trên bà Sa đưa
chiếc xe nói trên cho con bà là bị cáo Lê Quang Trung dùng làm phương tiện chạy Honda
ôm, còn Trung dùng chiếc xe này làm phương tiên buôn bán ma túy bà Sa không biết, do
vậy trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu;
- Về mô tô biển số 54Z4 – 2723 do anh Nguyễ Đỗ Tuấn Kiệt, sinh năm: 1982, ngụ
tại 570/59/5 Đoàn Văn Bơ, phường 16, quận 4; Chỗ ở: 502/45/11 Huỳnh Tấn Phát,
phường Bình Thuận, quận 7 đứng tên đăng ký xe. Anh Nguyễn Đỗ Tuấn Kiệt khai nhận,
anh đã bán chiệc xe trên cho người bạn là Võ Quốc Cường, sinh năm 1985, ngụ tại:
450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ cũng
như giấy tờ mua bán, lời khai của Cường phù hợp với lời khai của anh Kiệt. Vào ngày
16/03/2012, bị can Tống Hữu Thành nhờ Võ Quốc Cường dùng chiếc xe trên chở đi công
chuyện, còn việc Thành đi bán mà túy Cường hoàn toàn không biết, do vậy trả lại chiếc
xe trên cho chủ sở hữu;
- 02 máy điện thoại di động, là phương tiện trong việc liên lạc dùng để buôn bán
ma túy và 600.000 đồng là tiền thu lợi bất chính trong việc buôn bán trái phép chất ma
túy do đây là tang vật, phương tiện của vụ án, áp dụng điểm a,b, Khoản 1 Điều 41 Bộ luật
Hình sự nên tịch thu sung công quỹ;
- Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đề nghị tiêu hủy.
Trên đây là quan điểm của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX tiếp tục làm việc.