Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Kinh tế nông nghiệp châu văn lãng, tỉnh thái nguyên nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HOÀNG THỊ THƠM

KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CHÂU VĂN LÃNG,
TỈNH THÁI NGUYÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đàm Thị Uyên

Thái Nguyên, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Kinh tế nông nghiệp châu Văn Lãng,
tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, nội
dung đề tài luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các báo,
tạp chí và một số cuốn sách (đã nêu ở phần Tài liệu tham khảo).
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa được sử dụng trong công trình nghiên cứu nào. Các trích dẫn có
nguồn gốc rõ ràng.
6 năm 2017

Hoàng Thị Thơm

i




LỜI CẢM ƠN
PGS.TS Đàm Thị Uyên

Nam khoa L
giúp đỡ
Đ
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đ

4 năm 2017

Hoàng Thị Thơm

ii


MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan................................................................................................................. i
Lời cảm ơn ................................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................................ iii
D

........................................................................................... iv

D

, biểu đồ .......................................................................................v


MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nhiệm cứu .................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 6
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn ....................................................................................... 7
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN LÃNG, TỈNH THÁI NGUYÊN .........10

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ................................................................ 10
1.2. Lịch sử hành chính châu Văn Lãng ............................................................. 13
1.3. Các thành phần dân tộc................................................................................ 16
1.3.1. Dân tộc Tày............................................................................................... 18
1.3.2. Dân tộc Nùng ............................................................................................ 20
1.3.3. Dân tộc Kinh ............................................................................................. 21
1.3.4. Dân tộc Sán Chay ..................................................................................... 22
1.3.5. Dân tộc Dao .............................................................................................. 23
1.4. Văn hoá, xã hội ............................................................................................ 25
Chƣơng 2. SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở CHÂU VĂN LÃNG NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XIX ........................................................................................................................25

2.1 Tình hình ruộng đất ở châu Văn Lãng theo địa bạ năm Gia Long 4 (1805) ...... 32
2.2. Sở hữu ruộng đất ở châu Văn Lãng theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ..... 44
iii


2.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở châu Văn Lãng nửa đầu thế kỷ XIX theo địa

bạ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) ................................................ 51
2.4. Chế độ tô thuế .............................................................................................. 57
Chƣơng 3. SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở CHÂU VĂN LÃNG NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XIX ...............................................................................................................63

3.1. Trồng trọt ..................................................................................................... 63
3.1.1. Canh tác lúa nước ..................................................................................... 68
3.1.2. Canh tác nương rẫy ................................................................................... 75
3.2. Chăn nuôi ..................................................................................................... 82
3.3. Kinh tế tự nhiên ........................................................................................... 88
3.3.1. Hái lượm ................................................................................................... 88
3.3.2. Săn bắn...................................................................................................... 89
3.3.3. Đánh cá ..................................................................................................... 90
KẾT LUẬN ..................................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................96
PHỤ LỤC

iv


ĐHSP

: Đại học Sư phạm

KHXH

: Khoa học Xã hội

M.s.th.t


: Mẫu, sào, thước, tấc. Ví dụ: 10 mẫu 1 sào 3 thước 5 tấc
viết tắt là 10.1.3.5

Nxb

: Nhà xuất bản

Gs

: Giáo sư

PGS

: Phó giáo sư

TS

: Tiến sĩ

TTLTQG I

: Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

GD

: Giáo dục

Tr

: Trang


TCN

: Trước Công nguyên

iv


, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 1.1: Bảng thống kê các dân tộc huyện Đại Từ .......................................... 18
Bảng 2.1. Tình hình ruộng đất năm Gia Long 4 (1805) ..................................... 34
Bảng 2.2. Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ và bình quân số thửa theo
địa bạ Gia Long 4 (1805) .................................................................. 37
Bảng 2.3. Quy mô sở hữu ruộng đất theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ................. 38
Bảng 2.4. Thống kê sở hữu ruộng đất theo giới tính .......................................... 39
Bảng 2.5. Quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ ...................................... 41
Bảng 2.6. Sở hữu ruộng đất của các chức sắc theo địa bạ Gia Long 4 (1805) .. 42
Bảng 2.7. Thống kê tình hình ruộng đất châu Văn Lãng năm Minh Mệnh 21 (1840).... 44
Bảng 2.8. Tình hình phân bố ruộng đất theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ...... 45
Bảng 2.9. Quy mô sở hữu ruộng đất theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1805) ........... 46
Bảng 2.10. Bình quân sở hữu ruộng đất của một chủ và bình quân số thửa
theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)..................................................... 47
Bảng 2.11. Thống kê quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ ..................... 48
Bảng 2.12. Sở hữu ruộng đất của các chức sắc .................................................. 49
theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ...................................................................... 49
Bảng 2.13. Sự phân bố các loại ruộng đất ở hai thời điểm 1805 và 1840.......... 51
Bảng 2.14. So sánh quy mô sở hữu ruộng đất tư ở hai thời điểm 1805 và 1840...... 52
Bảng 2.15. So sánh quy mô sở hữu của các nhóm họ ........................................ 54
Bảng 2.16. So sánh tình hình sở hữu ruộng đất của các chức sắc năm 1805 và 1840. 56

Bảng 2.17. Biểu thuế ruộng công tư năm 1803 ................................................. 58
Bảng 2.18. Biểu thuế thời Minh Mệnh (1840) .................................................. 60
Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng đất của châu Văn Lãng năm 1805 ............. 38

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo sư Trần Văn Giàu từng viết: “Trải qua mấy ngàn năm, nước ta vẫn
là một xứ nông nghiệp và lấy xã thôn làm đơn vị cơ sở. Tới đầu thế kỷ XIX
cương vực nước ta mới ổn định và thống nhất về mặt hành chính suốt từ ải
Nam Quan tới mũi Cà Mau, gồm khoảng 18.000 làng với các tên gọi khác nhau
như xã, thôn, phường, giáp, điếm, ấp, lân, trang, trại, man, sách...Làng nước
gắn bó xương thịt với nhau, vì nước là thân thể, còn làng là chi thể. Cả làng và
nước đều sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.
Cho nên, hai vấn để nông nghiệp và xã thôn là vô cùng quan trọng đối
với sự tồn vong, lớn mạnh của dân tộc ta...” [8, tr. 5].
Việt Nam đã là một nước nông nghiệp từ rất lâu đời, kinh tế nông nghiệp
giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam. Trong thời quân chủ,
kinh tế nông nghiệp càng thể hiện vai trò quan trọng của mình, nó là cơ sở kinh
tế, chính trị, xã hội cho sự tồn tại của các vương triều phong kiến. Do đó, các
triều đại quân chủ Việt Nam luôn tìm mọi phương thức khác nhau để quản lý
chặt chẽ vấn đề ruộng đất và phát triển kinh tế nông nghiệp để đảm bảo ổn định
đời sống nhân dân, ổn định chính trị trong nước, giữ vững chủ quyền quốc gia.
Tìm hiểu kinh tế nông nghiệp nói chung và ruộng đất nói riêng nhằm,
góp thêm những hiểu biết về tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở một
địa phương và trong một giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ giúp chúng ta có những
hiểu biết căn bản, về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống các tầng lớp nhân dân ở
địa phương trong giai đoạn lịch sử đó.

Việc nghiên cứu kinh tế nông nghiệp ở mỗi địa phương nhằm cho chúng
ta có những hiểu biết căn bản về trình độ quản lý ruộng đất, tập quán sản xuất,
sinh hoạt Với những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Kinh tế nông
nghiệp châu Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình. Thông qua đó tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé

1


của mình vào việc tìm hiểu các chính sách về ruộng đất, sự phân hoá xã hội và
tập quán sản xuất nông nghiệp của châu châu Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên
trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề kinh tế nông nghiệp thời nào cũng vậy luôn đóng vai trò hết sức
quan trọng đối kinh tế đất nước. Vì thế, từ lâu đã được các nhà sử học quan
tâm, ghi chép lại trong các cuốn sách cổ, tiêu biểu như: Lịch triều hiến chương
loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Kiến văn tiểu lục, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ, Đồng Khánh địa dư chí....
Trước hết là cuốn “Đất nước Việt Nam qua các đời” của tác giả Đào Duy
Anh, Nxb Thuận Hóa, Huế, xuất bản năm 1994. Đây là tác phẩm tập trung
nghiên cứu địa lý hành chính, cương vực của nước Việt Nam và vị trí các khu
vực hành chính trải qua các đời từ Văn Lang – Âu Lạc, qua thời kỳ Bắc thuộc ,
trải đến thời tự chủ và cho đến thời nhà Nguyễn.
Vào cuối thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, đã xuất hiện nhiều
công trình nghiên cứu, trong đó tiêu biểu là cuốn: “Chế độ ruộng đất và kinh tế
nông nghiệp thời Lê sơ” của tác giả Phan Huy Lê do Nhà xuất bản Văn Sử Địa,
Hà Nội xuất bản năm 1959, gồm 214 trang. Trong tác phẩm này, tác giả trình
bày những nét lớn về chính sách ruộng đất, nông nghiệp của nhà Lê sơ thế kỷ
XV, các hình thức sở hữu, chiếm hữu ruộng đất, địa tô và sự bóc lột địa tô. Kể từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đây là cuốn sách đầu tiên chuyên về đề tài

này của giới sử gia, dựa trên cơ sở các bộ sử cũ của các sử gia phong kiến. Mặc
dù cuốn sách không đề cập đến tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp châu
Văn Lãng tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX, nhưng đây là một trong những
tài liệu quan trọng để chúng tôi có thêm nhận thức trong quá trình hoàn thiện
luận văn.
Từ những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, một số
công trình chuyên khảo khá quy mô và công phu nghiên cứu về vấn đề ruộng

2


đất. Trong chuyên khảo “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX” (Nxb KHXH, Hà Nội, 1979), dựa trên những bộ chính sử của triều
Nguyễn, tác giả Vũ Huy Phúc đã hệ thống hoá nội dung, bản chất những chính
sách lớn về ruộng đất của triều Nguyễn và kết cấu ruộng đất hình thành từ
chính sách đó, cũng như tác động, hậu quả của nó đối với yêu cầu phát triển
của lịch sử kinh tế, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Nội dung của tác
phẩm không trực tiếp đề cập đến châu Văn Lãng tỉnh Thái Nguyên, nhưng đây
là một trong những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu về chế độ ruộng
đất của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Tác giả Trương Hữu Quýnh trong chuyên khảo “Chế độ ruộng đất Việt
Nam thế kỷ XI-XVIII” gồm 2 tập (Nxb KHXH, Hà Nội, 1982,1983), đã phác thảo
những nét chính về chế độ ruộng đất Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII, qua
đó bước đầu vạch ra xu thế phát triển chủ yếu cũng như tính chất kinh tế, xã hội
của nó. Trong chuyên khảo bên cạnh việc sử dụng tư liệu chính sử tác giả còn sử
dụng nguồn tư liệu địa phương rất phong phú (bao gồm gia phả, văn bia...). Vì vậy
chuyên khảo là một nguồn tài liệu quan trọng cung cấp những tư liệu quý báu, có
giá trị về vấn đề sở hữu ruộng đất cho người đọc, người nghiên cứu lịch sử.
Trong tác phẩm “Kinh tế thời nguyên thuỷ ở Việt Nam” xuất bản năm
1970, tác giả Đặng Phong trình bày, phân tích một cách sâu sắc về các ngành kinh

tế ở Việt Nam như hái lượm, săn bắt, trồng trọt, chăn nuôi, các ngành thủ công...
Năm 1997, hai tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang đã cho xuất
bản tác phẩm Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân
dưới triều Nguyễn do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành. Tác giả vẽ lại bức
tranh cụ thể về tình hình ruộng đất chủ yếu thông qua tài liệu địa bạ. Các
chính sách về nông nghiệp đặc biệt là các chính sách về ruộng đất dưới
triều Nguyễn. Bên cạnh đó, các tác giả còn nêu được một số nội dung về
đời sống nông dân dưới triều Nguyễn.

3


Bên cạnh các cuốn sách nói trên còn có nhiều bài viết đề cập đến vấn
đề này được đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu kinh tế,
dân tộc học của các tác giả như: Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Nguyễn Hồng
Phong, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, Phan Đại Doãn, Vũ Huy
phúc, Vũ Văn Quân - Nguyễn Quang Ngọc, Đào Tố Uyên, Nguyễn Cảnh
Minh....Các bài viết của những tác giả nêu ở trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của chế độ sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX.
Ngoài ra còn có thể kể đến một số công trình nghiên cứu có giá trị như:
luận án “Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn (1829)” (1991), của
tác giả Đào Tố Uyên. Công trình đã chỉ ra những điểm cơ bản và diễn biến của
chế độ ruộng đất ở huyện Kim Sơn nửa đầu thế kỷ XIX. Luận án Huyện Quảng
Hoà (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến giữa thế kỷ XIX” (2000) của tác giả
Đàm Thị Uyên đã làm rõ tình hình kinh tế, chính trị xã hội của huyện Quảng
Hoà (tỉnh Cao Bằng), đặc biệt tác giả quan tâm nghiên cứu sâu về ruộng đất,
kinh tế nông nghiệp của huyện Quảng Hoà dưới triều Nguyễn.
Luận văn thạc sĩ “Sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Đại
Từ (Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX” của tác giả Hoàng Xuân Trường, bảo vệ

tại Đại học Sư phạm Thái Nguyên năm 2012. Luận văn đã trình bày đặc điểm tự
nhiên, thành phần dân tộc, tình hình ruộng đất, sự phát triển kinh tế nông nghiệp
của huyện Đại Từ, một huyện giáp gianh với châu Văn Lãng xưa.
Luận văn thạc sĩ “Ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở huyện Bảo Lạc
(Cao Bằng) nửa đầu thế kỷ XIX” của tác giả Chu Thu Hương, bảo vệ tại Đại
học Sư phạm Thái Nguyên năm 2014. Luận văn đã trình bày khái quát đặc
điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, đi sâu nghiên cứu về tình hình ruộng đất, sự
phát triển kinh tế, nông nghiệp của huyện Bảo Lạc, một huyện vùng cao của
tỉnh Cao Bằng.

4


Cuốn “Địa chí Thái Nguyên”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, xuất bản
năm 2009. Cuốn sách đã trình bày cụ thể về kinh tế, văn hóa, xã hội của cả tỉnh
Thái Nguyên cũng như các huyện trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu tìm hiểu về
vấn đề “Kinh tế nông nghiệp châu Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế
kỷ XIX”. Bởi vậy, còn nhiều vấn đề quan trọng chưa được làm sáng tỏ như vị
trí địa lí, điều kiện tự nhiên, nguồn gốc dân tộc, chế độ sở hữu ruộng đất, kinh
tế nông nghiệp... Song, chúng tôi vẫn xem thành quả của những nhà nghiên
cứu đi trước là ý kiến gợi mở quý báu, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt luận
văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nhiệm cứu
- Mục đích: Đề tài “Kinh tế nông nghiệp châu Văn Lãng, tỉnh Thái
Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX”, tác giả mong muốn phản ánh một cách khách
quan, khoa học tình hình sở hữu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của châu
Văn Lãng nửa đầu thế kỷ XIX nhằm làm rõ tình hình ruộng đất cũng như hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Từ đó bước đầu phân tích và đưa ra một số nhận
xét sơ bộ về tình hình sở hữu ruộng đất và cơ cấu kinh tế của châu Văn Lãng

thời điểm này. Ngoài ra, còn góp phần nâng cao kiến thức chuyên môn cho bản
thân phục vụ cho công tác học tập và giảng dạy.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Bước đầu nghiên cứu tương đối cụ thể về: Vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư, tình hình kinh tế - xã hội của châu Văn Lãng,
tỉnh Thái Nguyên trong quá khứ và hiện tại. Nội dung chính cần phải làm rõ là
tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp châu Văn Lãng nửa đầu thế kỷ
XIX.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
sản xuất

ă

5


+ Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỷ XIX
+ Phạm vi không gian: Tác giả tập trung nghiên cứu châu Văn Lãng theo
địa giới lãnh thổ nửa đầu thế kỷ XIX với 4 tổng 19 xã.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Đề tài nghiên cứu khai thác, sử dụng nguồn tư liệu bao gồm một số
cuốn sách và địa chí cổ như:


... Các sách chuyên khảo

,

và các bài viết đề cập đến lịch sử, văn hóa người Tày, Nùng, Kinh…. Của các cơ

quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Bên cạnh đó là tài liệu nghiên cứu về ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
như: “Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XI-XVIII”, tập I và tập II của tác giả
Trương Hữu Quýnh, “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”
(Nxb KHXH, Hà Nội, 1979)” của Vũ Huy Phúc, “Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn” của Nguyễn Đình Đầu. Các bài viết đề cập đến vấn đề này trong “Nông
thôn Việt Nam trong lịch sử” (2 tập) (Nxb KHXH, Hà Nội, 1991, 1993)...
- Nguồn tư liệu địa bạ: Luận văn sử dụng 19 đơn vị địa bạ. Trong đó có 11
đơn vị địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805), 8 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh
21 (1840). Có 5 xã có địa bạ ở hai thời điểm 1805 và 1840. Các bản địa bạ đều là
bản chính, hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I Hà Nội, tất cả các xã
của châu Văn Lãng đều có địa bạ, đó là cơ sở để cho chúng tôi khôi phục tình hình
ruộng đất của châu Văn Lãng tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX.
Ngoài ra đề tài còn khai thác, sử dụng một số nguồn tư liệu khác như:
Nguồn tư liệu địa phương (Địa chí Thái Nguyên...); Nguồn tư liệu điền dã đó là
những bài ca dao, tục ngữ địa phương, những hình ảnh có đề cập đến vấn đề
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài này tác giả đã sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp logic, là hai phương pháp chính, kết hợp với
6


khác
hệ thống hoá bằng các biểu bảng,
nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Trên cơ sở thực tế là nguồn địa bạ triều Nguyễn, tác giả đặc biệt chú ý
khâu giám định tư liệu để thấy được mức độ chính xác của nó. Đồng thời tác
giả kết hợp các nguồn tư liệu khác để hoàn thiện luận văn, sử dụng phương
pháp phân tích định lượng để xử lý nguồn tư liệu trong địa bạ.
Phương pháp đồng đại và lịch đại giúp c

ă

6. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên công bố 19 tập địa bạ của châu Văn Lãng được khai thác
tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I Hà Nội.
- Từ những tư liệu địa bạ luận văn chỉ ra tình hình ruộng đất và sản xuất
nông nghiệp của châu Văn Lãng ở nửa đầu thế kỷ XIX. Đồng thời cho chúng ta
thấy được phong tục, tập quán, tín ngưỡng sản xuất của nhân dân địa phương
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
- Luận văn góp thêm tư liệu cho việc biên soạn lịch sử địa phương và
là tài liệu tham khảo cho tác giả và nhân dân địa phương trong việc học tập,
giảng dạy lịch sử địa phương và tộc người.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, phần
nội dung của luận văn được chia làm 3 chương
Chương 1: Khái quát vể châu Văn Lãng, tỉnh Thái Nguyên
Chương 2: Sở hữu ruộng đất ở châu Văn Lãng nửa đầu thế kỷ XIX
Chương 3: Sản xuất nông nghiệp ở châu Văn Lãng nửa đầu thế kỷ XIX

7


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH THÁI NGUYÊN

(Nguồn: Tác giả biên vẽ)

8


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN ĐẠI TỪ


ế

Na Mao

Tân Linh

(Nguồn: Tác giả biên vẽ)
9


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ CHÂU VĂN LÃNG, TỈNH THÁI NGUYÊN
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Văn Lãng là một châu thuộc Phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XIX, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái Nguyên. Địa giới của
châu vào nửa đầu thế kỷ XIX đã được sách Đại Nam nhất thống chí chép như
sau: “Huyện Văn Lãng ở cách phủ 44 dặm về phía đông nam, đông tây cách
nhau 36 dặm, phía đông đến địa giới huyện Phú Lương 21 dặm, phía tây đến
địa giới huyện Sơn Dương tỉnh Sơn Tây 15 dặm, phía bắc đến địa giới châu
Định 21 dặm, không rõ tên huyện đặt từ đời nào. Trước thuộc phủ Phú Bình do
phiên thần họ Ma nối đời quản trị” [29, tr. 183].
Sách Đồng Khánh địa dư chí miêu tả chi tiết về vị trí của châu Văn
Lãng ở nửa đầu thế kỷ XIX như sau: “Huyện lỵ nguyên đặt ở xã Thượng Lãm,
năm Tự Đức 4 (1851) vâng chỉ giám bỏ, do phủ Thông Hoá kiêm nhiếp.
Huyện hạt ở phía đông nam cách phủ lỵ 44 dặm, phía đông giáp xã Phủ Lý
huyện Phú Lương, phía Tây giáp xã Trúc Đạm huyện Sơn Dương tỉnh Sơn
Tây, phía nam giáp xã Phú Minh Thượng huyện Đại Từ, phía bắc giáp 2 xã
Phúc Nhiêu, Quảng Nạp thuộc Định Châu. Đông tây cách nhau 36 dặm. Nam

bắc cách nhau 36 dặm” [41, tr. 809].
Trước Năm 1835 châu Văn Lãng thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên,
năm Minh mệnh thứ 16 (1835) nhà Nguyễn tách Châu Định Hoá và 3 huyện Văn
Lãng, Đại Từ, Phú Lương ra khỏi Phủ Phú Bình và đặt làm phủ Tòng Hoá.
“Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia tỉnh hạt gọi là tỉnh Thái Nguyên, đặt các
chức bố chánh và án sát dưới quyền tổng đốc Ninh – Thái. Năm thứ 16 trích lấy
4 châu huyện là Định Châu, Văn Lãng, Đại Từ và Phú Lương đặt thành phủ
Tùng Hoá, các phủ huyện đầu đổi đặt lưu quan” [29, tr. 178].
Như vậy, địa bàn châu Văn Lãng hiện nay là khu vực phía Bắc của huyện
Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên bao gồm các xã: Yên Lãng, Minh Tiến, Phúc Lương,
10


Đức Lương, Phú Cường, Na Mao, Phú Thịnh, Bản Ngoại, Phú Lạc, Phú Xuyên,
Tân Linh, Phúc Linh. Khu vực này giáp với huyện Định Hoá, Phú Lương tỉnh
Thái Nguyên và huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang ngày nay.
Điều kiện tự nhiên
Châu Văn Lãng nay là khu vực phía Bắc của huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên, khu vực này dưới sự tác động của quá trình vận động địa chất đã quy
định đặc điểm của địa hình nơi đây là vùng trung du và miền núi.
Châu Văn Lãng là vùng đất ít sông, suối, nhiều núi. Sách Đồng Khánh
địa dư chí chép về địa hình núi sông Văn Lãng như sau: “Toàn hạt đều là núi,
nhưng không núi nào có tên. Một dòng sông từ giáp địa phận Định Châu chảy
quanh huyện lỵ rồi chảy về nam đến giáp bến Xuân Độ huyện Đại Từ, dài 95
dặm, rộng 3 trượng, sâu 5 thước.” [41, tr. 809]. Con sông chảy qua địa phận
châu Văn Lãng là dòng sông Công bắt nguồn từ vùng rừng núi Điềm Mạc
(huyện Định Hoá) chảy theo hướng tây bắc – đông nam với chiều dài chạy qua
huyện Đại Từ khoảng 2km. Mặc dù có duy nhất một con sông nhưng khu vực
này lại được ưu đãi bởi dãy núi Tam Đảo và hệ thống các núi khác tạo ra các
con suối nhỏ trong khu vực huyện rồi chảy ra sông Công. Các con suối nhỏ này

có chung đặc điểm là ngắn và chảy mạnh. Hệ thống thuỷ văn ở Văn Lãng
không có giá trị lớn về vận tải đường thuỷ, nhưng có một vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc cung cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và cuộc sống
sinh hoạt của người dân nơi đây. Một số hồ, đập nhân tạo như: hồ Phượng
Hoàng, đập Minh Tiến, Phú Xuyên, Na Mao, Đức Lương với dung lượng nước
tưới bình quân từ 40 – 50 ha mỗi đập và từ 180-500 ha mỗi hồ.
Khí hậu Văn Lãng mang nét chung của vùng trung du miền núi phía Bắc.
Sách Đại Nam nhất thống chí chép về khí hậu tỉnh Thái Nguyên, trong đó có
phản ánh khí hậu nơi đây: “Hàng năm cuối mùa xuân mới hơi nóng, đến mùa
hè nóng lắm, đầu mùa thu lạnh dần, đến mùa đông rét lắm. Vì địa thế có nhiều
núi cao nên rét nhiều, nóng ít......các huyện Tư Nông, Đồng Hỷ, Phú Bình, Bình
11


Xuyên khí lam chướng nhẹ còn các huyện khác thì nặng mà huyện Đại Từ, Vũ
Nhai thì nặng hơn cả” [29, tr. 187-188].
Đặc điểm của khí hậu châu Văn Lãng được sách Đồng Khánh địa dư chí
như sau: “Cuối xuân còn lạnh, đến mùa hạ hơi nóng, đầu thu chớm lạnh, đến
mùa đông rét đậm. Sương mù phủ khắp, gần trưa mới tan” [41, tr. 810].
Khí hậu của Văn Lãng chịu ảnh hưởng bởi khí hậu của khu vực được tạo
nên bởi các cánh cung lớn Tây Bắc và Việt Bắc gần như đồng quy về tỉnh Thái
Nguyên nói chung, dạng địa hình này tạo điều kiện cho sự xâm nhập khí lạnh
từ phương Bắc vào sâu lãnh thổ qua các huyện miền núi của tỉnh vào Đại Từ,
đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam thổi tới. Đặc trưng khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm thể hiện qua các chỉ số: Nhiệt độ trung bình 22,90C,
nhiệt độ cao nhất trung bình trong năm là 27,20C, nhiệt độ thấp nhất trung bình
trong năm là 200C, tổng nhiệt độ năm của huyện Đại Từ là 7.000 – 8.0000C.
Lượng mưa ở đây tương đối cao, bình quân từ 1.872mm/năm, do mưa nhiều
khí hậu thường ẩm ướt, độ ẩm trung bình từ 70 - 80% phù hợp cho nhiều loại
cây trồng phát triển, nhất là cây chè. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều

theo không gian và thời gian, lượng mưa có sự chênh lệch lớn giữa mùa khô và
mùa mưa, mùa mưa cường độ mưa tương đối lớn, chiếm gần 80% tổng lượng
mưa trong năm.
Khí hậu phân thành 2 mùa, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, gió Đông
Nam, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 gió Đông
Bắc chiếm ưu thế, lượng mưa ít, thời tiết hanh khô. Với những đặc điểm khí
hậu như vậy làm cho hoạt động kinh tế, văn hoá của vùng vừa có nét chung lại
vừa có nét riêng đặc thù.
Hiện nay diện tích đất tự nhiên là 23.313 ha (năm 2015) chiếm trên 40%
diện tích toàn huyện Đại Từ, trong đó đất nông nghiệp chiếm 38,50%, (8.990
ha) đất lâm nghiệp chiếm 47, 80%, (11.146 ha) còn lại là đất phi nông nghiệp
chiếm 13,70% (2,739 ha). Trong tổng diện tích đất hiện có thì diện tích đất
12


chưa sử dụng chiếm 1.81% (101 ha), chủ yếu là đất đồi núi và sông suối. Đất
đai ở đây chủ yếu là đất sườn đồi thích hợp cho việc phát triển cây công
nghiệp, nhất là cây chè.
Về khoáng sản: có nguồn nguyên liệu than và khoáng sản khá dồi dào, tập
trung ở một số xã như Yên Lãng, Na Mao, Minh Tiến... trữ lượng lớn nhất là
mỏ than Núi Hồng ở xã Yên Lãng với trữ lượng khoảng 10 nghìn tấn/ năm.
Bên cạnh nguồn nguyên liệu than, khu vực này còn có nhiều loại khoáng
sản quý như: quặng sắt, quặng ti tan đều có rải rác ở các xã phía Bắc này.
Ngoài ra còn có vật liệu xây dựng gồm các mỏ đất sét, đá, cát, sỏi...
Về động thực vật: mặc dù là một huyện thuộc trung du miền núi phía
Bắc, nhưng sản vật của địa phương không nhiều. Trong sách Đại Nam nhất
thống chí có ghi rằng: “Nhung hươu, mật gấu, sáp ong sơn phận các huyện đều
có” [29, tr. 210]. Sách Đồng Khánh địa dư chí chép cụ thể như sau: “Toàn hạt
chỉ có lúa, khoai, đậu. Các sản vật khác có tre vầu, củ nâu, sa nhân. Thú rừng có
hươu, lợn rừng, gà rừng. Ngoài ra không có sản vật quý gì” [41, tr.810].

Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ở đây thuận lợi cho sự phát triển vật
nuôi và cây trồng, thích hợp cho sự phát triển kinh tế nông lâm nghiệp hiện
nay, đặc biệt là cây chè.
1.2. Lịch sử hành chính châu Văn Lãng
Trong lịch sử hình thành và phát triển, vùng đất Văn Lãng luôn gắn liền
với quá trình phát triển của lịch sử của Thái Nguyên qua các thời đại.
Vào thời kỳ các vua Hùng dựng nước, nước ta chia thành 15 bộ, Văn
Lãng hồi đó chưa được thành lập nên chưa có tên trong các bộ của nước ta.
Dưới triều Lý, là châu Thái Nguyên và châu Vũ Lặc. Đến thời nhà Trần, năm
Quang Thái thứ 10 (1397), Trần Thuận Tông đổi châu Vũ Lặc thành trấn Thái
Nguyên: “Thời thuộc Minh là phủ, năm Vĩnh Lạc mới đổi trấn Thái Nguyên
làm châu Thái Nguyên gồm 11 huyện: Phú Lương, Tư Nông, Vũ Lễ, Đồng

13


Hỷ, Vĩnh Thông, Tuyên Hoá, Lộng Thạnh, Đại Từ, An Định, Cảm Hoá, Thái
Nguyên” [41, tr. 810]. Như vậy, thời thuộc Minh chưa có tên châu Văn Lãng.
Năm 1412, trấn Thái Nguyên đổi thành phủ Thái Nguyên. Năm 1423
nhập huyện Tư Nông vào huyện Yên Định, gồm huyện Đồng Hỷ vào huyện
Phú Lương và huyện Đại Từ vào huyện Tuyên Hoá (phủ Thái Nguyên chỉ còn
8 huyện).
Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) cả nước chia thành 12 đạo, Văn Lãng
thuộc phủ Phú Bình đạo Thái Nguyên. Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469)
trên cơ sở hoạch định lại bản đồ hành chính, nhà Lê chia cả nước ta thành 12
thừa tuyên. Văn Lãng và những đơn vị hành chính khác của phủ Phú Bình
thuộc thừa tuyên Ninh Sóc. Năm Hồng Đức năm thứ 21 (1490), thừa tuyên
Ninh Sóc được lấy lại tên cũ là xứ Thái Nguyên lãnh 3 phủ, 7 huyện, 6 châu.
“Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Thái Nguyên Thừa tuyên. Năm thứ 10 đổi làm
Ninh Sóc thừa tuyên. Đời Hồng Đức gọi là xứ Thái Nguyên lãnh 3 phủ, 7

huyện và 6 châu” [29, tr. 177]. Cụ thể:
Phủ Phú Bình gồm 7 huyện là: Phổ Yên, Bình Tuyền, Đại Từ, Tư Nông,
Đồng Hỷ, Phú Lương, Văn Lãng và hai châu là Châu Định và Vũ Nhai. Phủ
Thông Hoá gồm 1 huyện là Cảm Hoá và một châu là Bạch Thông. Phủ Cao
Bằng (đời Quang Thuận gọi là Bắc Bình) lãnh 4 châu là Thượng Lang, Hạ
Lang, Thạch Lâm, Quảng Uyên.
Như vậy, châu Văn Lãng được thành lập và đặt tên năm Quang Thuận
thứ 7 (1466), đời Lê Thánh Tông, đặt thuộc phủ Phú Bình. Qua các triều đến
đời Gia Long không thay đổi. Năm Minh Mệnh 16 (1835) tách sang thuộc phủ
Tòng Hoá mới lập.
Thời Lê Trung Hưng, năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), 4 châu phía Bắc dưới
sự kiểm soát của nhà Mạc, gần 70 năm, nhà Lê đổi gọi 4 châu đó làm làm trấn
Cao Bằng. “Hai phủ Phú Bình và Thông Hoá vẫn lệ thuộc vào trấn Thái Nguyên
như cũ do thổ quan chia nhau cai trị” [29, tr. 178].
14


Đầu thời Nguyễn, địa giới hành chính Thái Nguyên không thay đổi, sách
Đại Nam nhất thống chí viết: “Bản triều đầu đời Gia Long vẫn theo như thế, đặt
các chức Trấn thủ, Hiệp trấn và Tham hiệp, lãnh 2 phủ 9 huyện, 2 châu (Phủ phú
Bình, lãnh 8 huyện là Tư Nông, Bình Tuyền, Phú Lương, Đồng Hỷ, Vũ Nhai, Đại
Từ, Phổ Yên, Văn Lãng và một châu là Định Hoá; Phủ Thông Hoá lãnh 1 huyện
Cảm hoá và 1 châu Bạch Thông. Hai huyện Phổ Yên và Văn Lãng không thấy
chép trong bản đồ thời Hồng Đức chưa rõ đặt từ đời nào” [29, tr. 178].
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), địa giới hành chính Thái Nguyên có sự
thay đổi, theo đó châu Văn Lãng cũng có sự thay đổi về địa giới hành chính
trực thuộc các đơn vị hành chính khác nhau. Sách Đại Nam nhất thống chí
chép: “Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) chia tỉnh hạt, gọi là tỉnh Thái Nguyên
đặt các chức Bố chánh và Án sát, dưới quyền tổng đốc Ninh –Thái. Năm thứ 16
(1835) trích lấy 4 huyện là Định Châu, Văn Lãng, Đại Từ và Phú Lương đặt

thêm phủ Tùng Hoá. Các phủ huyện đều đổi đặt lưu quan. Nay lãnh 2 phủ, 9
huyện 2 châu” [29, tr. 178]. Như vậy, huyện Đại Từ và châu Văn Lãng thuộc
phủ Tùng Hoá từ năm 1835.
Thời vua Đồng Khánh (1886-1889) châu Văn Lãng có các đơn vị hành
chính sau: “Huyện có 5 tổng, 12 xã, trang:
1- Tổng Thượng Lương, 3 xã:
Xã Hạ Lương,

Xã Thanh Bằng

Xã Thượng Lương

2- Tổng Hạ Lãm, 3 xã trang:
Trang Hạ Lãm

Trang An Nghiệp

Trang An Nhuận

3- Tổng Vị Xuyên, 3 xã, trang:
Xã Vị xuyên

Trang Tân Quy

4- Tổng Văn Xiển, 2 xã:
Trang An Cư,

Xã Văn Xiển

Tổng Thượng Lãm, 1 xã:

Thượng Lãm” [41, tr. 809].
15

Trang Phú Nghĩa


Ngày 14 tháng 1 năm 1900, thực dân Pháp lấy phần đất thuộc phủ Thông
Hoá để Thành lập tỉnh mới gọi là Bắc Kạn gồm 4 huyện: Bạch Thông, Na Rì,
Ngân Sơn, Chợ Đồn. Châu Văn Lãng vẫn thuộc địa phận tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 1 tháng 8 năm 1922 huyện Đại Từ và châu Văn Lãng hợp lại làm
một gọi là huyện Đại Từ gồm 9 tổng, 38 xã.
Châu Văn Lãng xưa nay là khu vực phía Bắc của huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên bao gồm 12 xã: Yên Lãng, Minh Tiến, Phúc Lương, Đức Lương,
Phú Cường, Na Mao, Phú Thịnh, Bản Ngoại, Phú Lạc, Phú Xuyên, Tân Linh,
Phúc Linh giáp với huyện Định Hoá, Phú Lương của tỉnh Thái Nguyên và
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ngày nay.
Trong thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám năm 1945, Đại Từ cùng
Định Hoá và Sơn Dương có vị trí trung tâm của chiến khu Nguyễn Huệ, có thời
gian được mang tên châu Giải phóng nằm trong chiến khu.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) ra quyết định
số 103-QN-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn.
Ngày 6/11/1996, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX, kỳ họp thứ 10, đã phê chuẩn việc phân chia lại địa giới hành chính của
một số tỉnh, trong đó chia tỉnh Bắc Thái thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Từ đó đến nay địa bàn của châu Văn Lãng xưa gồm 12 xã phía Bắc của huyện
Đại Từ ngày nay thuộc tỉnh Thái Nguyên.
1.3. Các thành phần dân tộc
Châu Văn Lãng đã quy tụ được nhiều tộc người đến ngụ cư, sinh sống

như: Tày, Nùng, Kinh, Mông, Dao, Sán Chay... đã tạo nên ở nơi đây những nét
văn hoá tộc người đặc trưng riêng biệt. Trong đó, mỗi một dân tộc đều có sắc
thái văn hoá riêng, có một quá trình lịch sử phát triển riêng và có nhiều nguồn
gốc khác nhau. Tuy nhiên, các dân tộc sinh sống tại châu Văn Lãng đều mang
những nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt, đó là, đùm bọc, giúp đỡ lẫn
nhau, cùng nhau trị thuỷ, sản xuất nông nghiệp, săn bắn, hái lượm...góp phần
16


tạo nên tính cộng đồng cao của nhiều thế hệ người dân nơi đây. Đồng thời các
dân tộc do sống xen kẽ với nhau nên họ đã tiếp nhận văn hoá của nhau, hình
thành một nền văn hoá đa dạng, phong phú.
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Trong huyện hạt chỉ có tổng Vị
Xuyên rải rác có người Kinh, phong tục cũng giống như miền xuôi, còn người
Mán, người Thổ (Tày) thì ở xen kẽ. Tập tục của họ quê mùa, xảo trá, thích săn
bắn, ít học hành. Về tục thờ thần và cưới xin của người Mán, người Thổ cũng
giống như [người Mán, người Thổ] ở Định Châu” [41, tr. 809]. Với những ghi
chép trên cho ta thấy được các thành phần dân tộc, đặc điểm phong tục, tập
quán của cư dân Văn Lãng xưa.
Cư dân người Tày, Nùng chiếm số đông, nhiều hơn so với các dân tộc
khác trên địa bàn châu và ít hơn so với các huyện khác trong phủ “Trong phủ
hạt người Kinh, người Thổ (Tày), người Mán ở xen nhau. Huyện Văn Lãng,
thuộc Định Châu ở về miền thượng du, người Thổ và người Mán khá nhiều, các
huyện Phú Lương, Đại Từ ở vùng hạ du thì người Kinh nhiều hơn, trong đó có
một số người biết chữ” [41, tr. 806].
Bên cạnh cư dân bản địa cũng có một số ít dân di cư đến, nhất là người
Kinh, họ đến từ các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đến đây
sinh cơ lập nghiệp. Họ đến đây là do nhiều nguyên nhân: một bộ phận đến đây
do tư bản Pháp tuyển mộ dân phu làm thuê trong các đồn điền, hầm mỏ. Một
bộ phận khác vốn là đồng bào các tỉnh miền xuôi di cư đến đây khai hoang lập

làng. Người miền xuôi đến sinh sống đan xen với người miền núi đã tạo nên ở
nơi đây sự đa dạng, phong phú không chỉ về văn hoá mà còn làm du nhập cả
tập quán sản xuất của miền xuôi vào cư dân bản địa, đồng thời cũng làm phong
phú thêm các thành phần dân tộc trên địa bàn châu Văn Lãng.
Theo số liệu điều tra dân số năm 2015, huyện Đại Từ có 164.730 người,
trong đó khu vực phía Bắc huyện Đại Từ hiện nay (châu Văn Lãng xưa) có
tổng số 66.286 người.
17


Bảng 1.1: Bảng thống kê các dân tộc huyện Đại Từ
Dân tộc

STT

Số dân

Tỉ lệ

1

Kinh

116.606

73,03%

2

Tày


15645

9,08%

3

Nùng

12.604

7,89%

4

Sán chay

6.750

4,22%

5

Dao

4.125

2,60%

6


Ngái

132

0,08%

7

Mường

163

1,10%

8

Các dân tộc khác

3.633

3,00%

159.667

100%

Tổng số

Ghi chú


(Nguồn: Cục thống kê tỉnh Thái Nguyên năm 2009)

Theo số liệu bảng thống kê trên thì thì người Kinh chiếm số đông nhất,
nhưng châu Văn Lãng xưa thì người Tày và người Nùng chiếm đa số, người
Kinh ít hơn nhiều. Ngày nay trên địa bàn châu Văn Lãng cũ, số người Tày,
Nùng vẫn chiếm số đông, có những xã người Tày vẫn chiếm trên 80% số dân.
Người kinh chủ yếu tập trung ở phía Nam của huyện Đại Từ ngày nay.
1.3.1. Dân tộc Tày
Người Tày là một cộng đồng dân tộc thuộc ngữ hệ ngôn ngữ Tày – Thái.
Họ là cư dân bản địa, là những người sớm có mặt trong thành phần cư dân Văn
Lãng. Người Tày hoặc Thổ là dân tộc có số dân đông nhất trong số các dân tộc.
Vì vậy người Tày có vai trò chủ lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội... Cộng đồng Tày là một cộng đồng khá thuần nhất với những
nét bản sắc văn hoá rất đặc trưng và có quan hệ thân thuộc với các dân tộc khác
như Nùng, Cao Lan, Sán Chỉ.....
Dân tộc Tày còn có một tên gọi khác vừa mang ý nghĩa tộc người, vừa
mang ý nghĩa thổ dân, dân bản xứ đó là “người Thổ”. Tên gọi này đã xuất hiện
trong các sách lịch sử, địa lý của các học giả đương thời để phân biệt với các
18


×