Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

PHẪU THUẬT LOẠI bỏ lồi XƯƠNG (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 14 trang )

PHẪU THUẬT LOẠI BỎ LỒI XƯƠNG.
I. LỒI XƯƠNG HÀM TRÊN
Một lồi xương hàm trên là một khối không có cuống của của xương vỏ nằm giữa
khẩu cái cứng.
Thông thường lồi xương hàm trên không cần loại bỏ. Phục hình có thể được thiết
kế một cách thích hợp trên chúng. Tuy nhiên một số trường hợp, phẫu thuật loại
bỏ lồi xương cần phải chỉ định:
• Chấn thương liên tục.
• Khi chúng cản trở việc làm được Postdam tốt hoặc chiếm diện tích lớn gây cản
trở kỹ thuật lấy dấu.
• Gây trở ngại phát âm.
• Gây ám ảnh tâm lý.
Một đánh giá về X quang nên được thực hiện để xác định khoảng cách giữa lồi
xương của khoang mũi và các xoang hàm trên.
X quang mặt nghiêng nói chung sẽ cung cấp thông tin này . Một trong những biến
chứng có thể có của thủ thuật này là xâm phạm khoang mũi, tạo ra một thông
thương mũi miêng.

II. KỸ THUẬT

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 1


Lấy dấu hàm trên và đổ mẫu . Lồi xương được loại bỏ khỏi mẫu và một khuôn
nhựa trong suốt được thực hiện. Khuôn nhựa sẽ bảo vệ vùng phẫu thuật , ngăn
chặn sự hình thành khối máu tụ, và giúp bệnh nhân thoải mái sau phẫu thuật (
hình 1). Một số tác giả khuyến cáo sử dụng stent, trong khi đó một số bác sĩ phẫu
thuật không cho rằng nó thật sự cần thiết.



Hình 1: Các kiểu khuôn nhựa ( stent)
Gây tê tại chỗ với thuốc co mạch được áp dụng cho dây thần kinh khẩu cái lớn
hơn và thần kinh mũi khẩu cái ( hình 2, 3). Gây tê ngấm xung quanh và vào lồi
xương để tạo điều kiện bóc tách niêm mạc màng xương mỏng .Cho phép đủ thời
gian vô cảm và co mạch để làm việc.

Hình 2: Thần kinh khẩu cái lớn.
Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 2


Hình 3: Thần kinh mũi – khẩu cái.
Một Lưỡi dao 15 được sử dụng để tạo đường rạch hình chữ Y tới lúc mũi dao tiếp
xúc xương của lồi xương. Việc lật vạt được thực hiện với một cây bóc tách màng
xương, cẩn thận không làm rách niêm mạc rất mỏng. Sau đó vạt được giữ mở ra
bằng chỉ silk 3-0.
Sau khi toàn bộ lồi xương được bộc lộ , nó được ghi dấu ( bằng các vết cắt sâu) với
một mũi khoan ( fissure bur) ( hình 4) theo kiểu đan chéo nhau, chú { bơm rửa
nhiều.
Độ sâu của vết cắt nên vào khoảng 1,0-2,0 mm xuống tính từ mức nhô ra của
phần khẩu cái theo chiều ngang (về phía khoang miệng).

Hình 4: fissure bur

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist


Page 3


Sau khi mô hình cắt có được thành lập, một cái đục và búa được được sử dụng để
loại bỏ các phân đoạn riêng lẻ. ( hình 5) (Nếu các nhà phẫu thuật là không thoải
mái khi sử dụng đục / búa, một mũi khoan có thể được sử dụng.) Can thiệp ở bên
ngoài, không xâm phạm phía dưới để tránh thủng vào khoang mũi.

Hình 5: Đục và búa.

Việc làm mịn cuối cùng của xương được thực hiện với một mũi khoan hình bầu
dục lớn và bơm rửa dồi dào. Không cần loại bỏ toàn bộ lồi xương. Vùng phẫu
thuật được bơm rửa và khâu với chỉ 3.0 silk hoặc chromic ( hình 6) và sử dụng
đường khâu bị gián đoạn.

Hình 6: Chỉ chromic.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 4


Khuôn nhựa ( stent) được thử trong miệng. Nếu khuôn không ổn định nó sẽ được
đệm bằng các vật liệu đệm mềm. Các stent có thể được làm từ vật liệu dẻo nóng
với một thiết bị Vacu-forming , hoặc cách khác, một stent acrylic có thể được chế
tạo bởi một phòng thí nghiệm. (Vacu-forming là một trong những phương pháp
lâu đời nhất và phổ biến nhất chế biến nguyên liệu nhựa. Sản phẩm của kỹ
thuật được tạo thành xung quanh chúng ta và đóng một phần quan trọng trong
cuộc sống hàng ngày . Quá trình này bao gồm việc làm nóng một tấm nhựa cho

đến khi mềm, sau đó đặt nó trên một khuôn. Sự hút chân không ép tấm nhựa
sát vào khuôn. Tấm nhựa sau đó được đẩy ra khỏi khuôn, kết quả là có hình
dạng giống khuôn )
Các stent được lưu trong 48 giờ, sau khi mà nó được lấy ra bởi các bác sĩ phẫu
thuật để để làm sạch và kiểm tra các khu vực phẫu thuật. Nó có thể được đeo
trong thời gian chữa bệnh khoảng hai tuần, nhưng 48 giờ đầu, stent nên được gỡ
bỏ sau mỗi bữa ăn để làm sạch. Chú ý không phải là bất thường khi vạt ở khẩu cái
bị bong ra. Đây không phải là một vấn đề nghiêm trọng, mô hạt cuối cùng sẽ che
phủ các khiếm khuyết với sự biểu mô hóa thứ cấp (xem hình
7- 15 ).

Hình 7: Một lồi xương khẩu cái làm cản trở việc đeo phục hình tháo lắp.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 5


Hình 8: Đường nét đứt chính là đường rạch tạo vạt hình chữ Y, nó đi qua lồi
xương và mở rộng ra phía ngoài lồi xương.

HÌNH 9: Vạt được lật và lồi xương được bộc lộ.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 6



Hình 10: Lồi xương được khoanh vùng như hình trên.

Hình 11: Lồi xương được cắt bỏ từng phân đoạn một, việc loại bỏ toàn bộ lồi
xương một lúc có thể dẫn tới việc thủng lên khoang mũi, đường nét đứt cho thấy
cách chia của nhà phẫu thuật cho từng phân đoạn.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 7


Hình 11: Hình cho thấy rõ hơn cách chia cắt lồi xương.

Hình 12: Lồi xương có thể được loại bỏ bằng dụng cụ cầm tay, dụng cụ xoay hoặc
cả hai, hình trên cho thấy bề mặt của vùng phẫu thuật sau khi loại bỏ lồi xương,
lồi xương không cần phải lấy hết hoàn toàn. Mức độ loại bỏ có thể xác định bằng
cách đóng vạt lại và cảm nhận sự gồ ghề của xương.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 8


Hình 13: Khuôn phẫu thuật được sử dụng như việc tạo một áp lực để cầm máu và
tạo lớp lót mềm như một chiếc áo phẫu thuật.Nếu bệnh nhân đã có kế hoạch làm
hàm toàn bộ thì một khuôn nhựa trong toàn hàm được thiết kế. Một hàm giả tức
thì cũng có thể được sử dụng.


HÌNH 14: Hàm được đóng bằng chỉ.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 9


Hình 15: Sau 8 tuần liền thương.
II. LỒI XƯƠNG HÀM DƯỚI.
Lồi xương hàm dưới thường có cả hai bên cùng lúc và mặt lưỡi của hàm dưới.
Chúng thường được tìm thấy ở vùng răng hàm và răng tiền hàm. Trước khi làm
hàm giả tháo lắp, chúng cần phải được loại bỏ. Niêm mạc phủ lên chúng thường
mỏng, dễ bị kích thích và loét.
KỸ THUẬT
Gây tê tại chỗ bao gồm gây tê chặn dây thần kinh răng dưới và gây tê ngấm dưới
màng xương trên lồi xương (giúp bóc tách dễ dàng). Một vết rạch được thực hiện
dọc theo các đỉnh của lồi xương, mở rộng vết rạch ra hai răng hai đầu lồi xương.
Trong răng bệnh nhân, vết rạch được đặt trong các khe nướu mặt lưỡi. Vết mổ
giảm căng thường không cần thiết.
Với thao tác cần thận, một vạt toàn bộ được lật lên. Bởi vì niêm mạc mỏng, thủng
vạt có thể dễ dàng xảy ra với hậu quả của chậm lành thương và đau đớn sau phẫu
thuật. Vạt được mở rộng dưới lồi xương đủ để đặt cây Seldin retractor ( banh vết
mổ ( hình 15) , dụng cụ sẽ bảo vệ vùng phẫu thuật trong khi lồi xương đang được
loại bỏ.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 10



Hình 15: Banh vết mổ.
Với một mũi khoan (fissure bur) tạo một rãnh bên rìa trên của lồi xương, nơi lồi
xương tiếp giáp với hàm dưới.
Độ sâu của rãnh là khoảng nửa kích thước chiều dọc của lồi xương. Nếu lồi xương
lớn, tạo ra một số đường cắt dọc bổ sung để tào điều kiện loại bỏ dễ dàng. Một
chiếc đục monobevel ( hình 16) sau đó được đặt vào rãnh với một góc đối diện
với hàm dưới. Trong khi cằm được đỡ bằng tay, chiếc đục được gõ với một chiếc
vồ. Cách khác, dùng mũi khoan đầu tiên có thể được mở rộng tất cả các đường
qua các kích thước theo chiều đứng của lồi xương, sau đó nó có thể được loại bỏ
với một kìm kẹp kim.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 11


Hình 16: Đục monobel.

Sau khi các lồi xương được lấy ra, bề mặt được làm mịn một cây dữa xương ,
hoặc mũi khoan tròn có khía. Tại mọi thời điểm bảo vệ vạt bằng banh vết mổ.
Vùng phẫu thuật được bơm rửa bằng dung dịch nước muối sinh lý. Đóng vạt với
chỉ 3-0 silk hoặc Vicryl mũi khâu rời hoặc liên tục. Sử dụng gạc ẩm, các nhà phẫu
thuật có thể đặt kỹ ngón tay áp trên vạt một vài phút để tạo áp lực giúp khởi động
fibrin kết dính và ngăn chặn hình thành khối máu tụ sau này. Ngay cả khi cẩn thận,
chảy máu sau phẫu thuật với sự hình thành khối máu tụ là một biến chứng có thể
xảy ra. Chảy máu trong sàn của miệng có thể đặt ra một mối đe dọa cho đường
thở (xem hình 17- ).


Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 12


Hình 17: Đường khoanh vùng lồi xương hàm dưới. Nó cản trở việc làm hàm giả.
Niêm mạc mỏng có thể bị loét dưới áp lực tz đè của hàm giả.

Hình 18: Lồi xương sau khi được bộc lộ. Một vết rạch được thực hiện dọc theo các
đỉnh của lồi xương, mở rộng vết rạch ra hai răng hai đầu lồi xương.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 13


Hình 19: Lồi xương được loại bỏ và làm nhẵn. Việc làm nhẵn có thể được kiểm tra
bằng cách đóng vạt lại và sờ bên ngoài để cảm nhận sự săc nhọn của xương.

Hình 20: Hình ảnh lành thương.

Dịch : Nguyễn thị Huyền.
Nguồn: Chapter 4 cuốn Manual of Minor Oral Surgery for the General Dentist

Page 14




×