Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội tại Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (735.32 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH

NGUYỄN NGỌC THANH

NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO
TẬP LUYỆN MÔN BƠI LỘI TẠI PHƯỜNG THÀNH CÔNG
QUẬN BA ĐÌNH - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH

NGUYỄN NGỌC THANH

NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO
TẬP LUYỆN MÔN BƠI LỘI TẠI PHƯỜNG THÀNH CÔNG
QUẬN BA ĐÌNH - HÀ NỘI

Chuyên ngành:
Mã số:



Huấn luyện thể thao
60140104

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Nguyễn Văn Phúc

BẮC NINH – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Thanh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CLB

-

Câu lạc bộ

ĐC


-

Đối chứng

HCB

-

Huy chương bạc

HCĐ

-

Huy chương đồng

HCV

-

Huy chương vàng

TDTT

-

TDTT

TN


-

Thực nghiệm

UBND

-

Ủy ban nhân dân

VĐV

-

Vận động viên


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Ký hiệu
Bảng 1.1
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6

Nội dung
Trang

Hệ thống các nội dung và cự ly thi đấu Bơi
19
Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn Bơi lội Phường
38
Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội.
Thực trạng cơ sở vật chất dành cho hoạt động TDTT của
40
Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội.
Kết quả phỏng vấn xác định các tiêu chí đánh giá phong
trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba
Đình - Hà Nội.
Đánh giá phong trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành
Công - Quận Ba Đình - Hà Nội từ năm 2011 – 2014
Số người tập luyện Bơi lội phân bổ theo các nhóm tuổi
Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội.
Kết quả phỏng vấn những nhân tố ảnh hưởng đến phong
trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba

42
43
45
47

Đình - Hà Nội.
Kết quả phỏng vấn lựa chọn biện pháp phát triển phong trào
Bảng 3.7
Bảng 3.8

tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba Đình
- Hà Nội.

Đánh giá phong trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành
Công - Quận Ba Đình - Hà Nội sau 1 năm thực nghiệm.
Số người tham gia tập luyện Bơi lội thường xuyên của

55
66

Bảng 3.9

Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội sau 1 năm

68

Sơ đồ 1.1

thực nghiệm.
Sơ đồ phân loại môn Bơi lội.
Phong trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công –

20

Biểu đồ 3.1

Quận Ba Đình - Hà Nội sau 1 năm thực nghiệm.
Số người tham gia tập luyện Bơi lội thường xuyên của Phường

Biểu đồ 3.2 Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội sau 1 năm thực
nghiệm.

67

69


MỤC LỤC
Phần mở đầu
Mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác phát
triển Thể dục thể thao
1.2. Vị trí, vai trò của TDTT trong phát triển kinh tế, chính trị, văn
hóa – xã hội
1.3. Những giải pháp phát triển Thể dục thể thao
1.4. Khái quát chung về môn Bơi lội
1.5. Vai trò, vị trí, tác dụng của môn Bơi lội trong việc phát triển
con người
1.6. Các yếu tố chi phối sự phát triển môn Bơi lội
1.7. Đặc điểm kinh tế xã hội Phường Thành Công - Quận Ba Đình
- Hà Nội
Chương 2. Phương pháp và tổ chức nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu tham khảo
2.1.2. Phương pháp phỏng vấn, toạ đàm
2.1.3. Phương pháp điều tra xã hội học
2.1.4. Phương pháp quan sát sư phạm
2.1.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
2.1.6. Phương pháp toán học thông kê
2.2. Tổ chức nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

Chương 3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Nghiên cứu thực trạng phong trào tập luyện môn Bơi lội trên địa
bàn Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
3.1.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ chuyên môn Bơi lội Phường
Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
3.1.2. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho phong trào Bơi lội
của Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
3.1.3. Thực trạng phong trào tập luyện Bơi lội của Phường Thành
Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
3.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến phong trào tập luyện môn
Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội

1
3
4
5
5
13
14
17
27
29
31
33
33
33
33
34
34
34

35
35
35
36
37
37
37
39
41
46


3.2. Nghiên cứu đề xuất và kiểm nghiệm các biện pháp phát triển
phong trào tập luyện môn Bơi lội tại Phường Thành Công - Quận Ba

51

Đình - Hà Nội
3.2.1. Xác định nguyên tắc để xây dựng các biện pháp phát triển
phong trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba Đình Hà Nội
3.2.2. Lựa chọn và đề xuất các biện pháp phát triển phong trào tập
luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
3.2.3. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp phát triển

51
54

phong trào Bơi lội trên địa bàn Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà

62


Nội
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

70
72


1
PHẦN MỞ ĐẦU
Sức khoẻ được coi là vốn quý giá nhất đối với con người, bởi có sức
khoẻ, con người sẽ có tất cả, còn thiếu sức khoẻ là thiếu hạnh phúc, thiếu tinh
thần sáng tạo, thiếu của cải vật chất…chính vì vậy, đã thôi thúc con người tìm ra
các hình thức, phương pháp, phương tiện hữu hiệu nhằm duy trì sức khỏe, từ đó
hình thành nên nền TDTT ngày nay.
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn
hóa của mỗi dân tộc cũng như trong nền văn minh của nhân loại. Các hoạt động
TDTT quần chúng, cũng như thể thao thành tích cao ngày càng trở thành nhu
cầu của đông đảo quần chúng nhân dân, nó không chỉ là những hình thức nghỉ
ngơi, giải trí, nâng cao sức khỏe, mang lại tự hào cho mỗi dân tộc mà còn tăng
cường tình hữu nghị, giao lưu giữa các tổ chức chính trị - xã hội, các quốc
gia/vùng lãnh thổ, các khu vực, châu lục và thế giới.
Trong nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
khẳng định: “Đẩy mạnh hoạt động TDTT, nâng cao thể trạng và tầm vóc của
con người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần chúng với mạng lưới cơ
sở rộng khắp”. “Phát triển các hoạt độngTDTT về cả quy mô và chất lượng góp
phần nâng cao thể lực và phát huy tinh thần dân tộc của người Việt Nam”.
Ở nước ta hiện nay, phong trào tập luyện TDTT đang được phát triển rộng

khắp cả về số lượng và chất lượng với đầy đủ các thành phần đối tượng, địa bàn,
giới tính… Hơn nữa, nền thể thao nước nhà đã từng bước đạt được một số thành
tích trong các môn thể thao cơ bản trên đấu trường khu vực và tại các Đại hội
thể thao quốc tế lớn. Đặc biệt VĐV Bơi lội Nguyễn Thị Ánh Viên đạt Huy
chương vàng tại Đại hội Olympic Trẻ năm 2014; HCĐ 200m hỗn hợp, HCB
400m hỗn hợp tại FINA World Cup 2015; Tại Sea Games 28: Giành 10
HC (trong đó có tới 8 HCV cá nhân). VĐV Lâm Quang Nhật giành HCV nội
dung bơi tự do 1.500m. Quang Nhật phá sâu kỷ lục SEA Games 28 và trở thành
người đầu tiên bảo vệ thành công HCV ở 2 kỳ SEA Games liên tiếp tại nội dung
này...


2
Có được thành tích thể thao đó không thể không nói đến vai trò của thể
thao phong trào. Điều đáng nói và quan tâm ở những thành tích thể thao nước ta
trên đấu trường thể thao quốc tế là các vận động viên thường không được tập
luyện bài bản ở các lớp, các trường TDTT, các trung tâm đào tạo vận động viên
từ nhỏ mà lại đi lên từ các giải thể thao phong trào. Chính vì vậy mà ngành thể
thao luôn quan tâm chỉ đạo sát sao đối với các hoạt động thể thao quần chúng,
đặcbiệt là tổ chức các giải thể thao quần chúng nhằm khích lệ phong trào tập
luyện thể thao của người dân.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của công tác TDTT, ngay từ
ngày cách mạng tháng Tám thành công đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn
quan tâm đến việc phát triển phong trào TDTT, rèn luyện thân thể nâng cao sức
khỏe và thể chất con người, đáp ứng được những yêu cầu nhiệm vụ chính trị - xã
hội và hội nhập quốc tế trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động TDTT bao gồm rất nhiều môn thể thể thao khác nhau, nhưng
chúng đều có chung bản chất là tác động đến sự phát triển nhân cách và thể chất
con người.
Bơi lội là một trong những môn thể thao có ý nghĩa thực dụng rất lớn cần

phát triển. Ở nước ta hiện nay, Bơi lội được xác định là một trong những môn
thể thao trọng điểm thuộc nhóm 1. Tập luyện Bơi lội thường xuyên giúp cho cơ
thể phát triển cân đối, hài hòa, rèn luyện ý chí, phòng và chữa một số bệnh, nâng
cao sức khỏe, khả năng vận động, tạo điều kiện tốt để sản xuất, phục vụ quốc
phòng. Ngoài ra, do điều kiện địa lý đất nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa,
nhiều sông ngòi và biển vây quanh, đặc biệt thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt,
hàng năm mưa bão, lũ lụt thường xuyên xảy ra, đòi hỏi mọi người phải biết Bơi
lội. Bơi lội là một trong những môn thể thao được nhiều người ưa thích và tham
gia luyện tập. Bởi vì, tập luyện Bơi lội không chỉ nâng cao sức khỏe mà còn cần
được phổ cập rộng rãi trong mọi ngành, mọi nghề, mọi đối tượng để phục vụ
cho mục đích chính trị của Đảng là bồi dưỡng sức dân để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên con đường hội nhập và hiện đại hóa đất nước.


3
Bơi lội là một môn thể thao cơ bản không thể thiếu trong các kỳ Olympic,
Đại hội thể thao ở khu vực, châu lục và trên thế giới. Chính vì vậy, Bơi lội đã và
đang ngày càng được phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ các
tỉnh, thành, ngành cho tới các quận, huyện, thị xã...
Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội có dân số là 25.000 người,
mật độ dân số đạt 32.814 người/km². Đây là Phường có dân số khá đông trong
Quận. Việc tập luyện TDTT của người dân chủ yếu diễn ra vào sáng sớm và
chiều tối, tập trung ở lứa tuổi trung niên và người cao tuổi. Các hoạt động thể
thao được mọi người yêu thích chủ yếu là: Đi bộ, chạy nhẹ nhàng, cầu lông và
Bơi lội.
Bơi lội là môn thể thao có tính quần chúng cao, dễ tập luyện. Tuy nhiên,
phong trào tập luyện thể thao tại Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội
chưa có định hướng cụ thể về phát triển môn thể thao này, chưa coi nó là môn
thể thao trọng điểm cần phát triển mặc dù Bơi lội là môn thể thao có ý nghĩa
thiết thực và có điều kiện phát triển tốt.

Đến nay đã có một số tác giả nghiên cứu về phong trào TDTT như: Lê
Văn Lỡi (1999), Lê Xuân Bình (1999), Thoonngsuvânnlath Bôunpne (2004),
Nguyễn Văn Hải (2006), Nguyễn Thị Việt Hằng (2006), Cao Tiến Long (2009),
Bùi Đức Tuy (2012)… Những công trình trên đã có ý nghĩa to lớn trong việc
nâng cao chất lượng tập luyện cũng như thi đấu môn Bơi lội. Tuy nhiên, nghiên
cứu về môn Bơi lội ở Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội lại chưa có
tác giả nào quan tâm nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn đóng góp một phần vào sự
nghiệp phát triển môn Bơi lội tại địa phương, chúng tôi mạnh dạn tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu biện pháp phát triển phong trào tập luyện
môn Bơi lội tại Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội”.
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng phong trào tập luyện môn Bơi
lội trên địa bàn Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội, đề tài tiến hành
nghiên cứu và đề xuất các biện pháp phát triển phong trào tập luyện môn Bơi lội


4
tại phường Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội, nhằm góp phần phát
triển phong trào Bơi lội của phường, cũng như góp phần phát triển phong trào
Bơi lội của quận trong tình hình mới hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài xác định các nhiệm vụ cụ thể sau:
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu thực trạng phong trào tập luyện môn Bơi lội trên
địa bàn Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu đề xuất và kiểm nghiệm các biện pháp phát triển
phong trào tập luyện môn Bơi lội Phường Thành Công - Quận Ba Đình - Hà Nội.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác phát triển
Thể dục thể thao
Trên cơ sở tiến trình đổi mới và phát triển đất nước từ năm 1986 đến nay
có thể khái quát những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về
TDTT theo hai giai đoạn gắn liền với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Đó là
giai đoạn 1986-1995 và giai đoạn từ năm 1996 đến nay.
1.1.1 Giai đoạn 1986-1995
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là Đại hội đổi mới khởi đầu
những định hướng lớn bằng tư duy thay đổi các cơ chế phát triển kinh tế - xã hội
trong đó có công tác TDTT.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phong trào TDTT quần chúng năm 1985
và Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ I (1985) ngành TDTT trình Đại hội Đảng
xem xét và khẳng định nhiệm vụ cơ bản của TDTT. Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VI đã khẳng định: “Mở rộng và nâng
cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân
thể trở thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ.
Nâng cao chất lượng GDTC trong trường học”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI ngành TDTT đã triển khai xây dựng quy
hoạch phát triển sự nghiệp TDTT 5 năm (1986-1990) và định hướng đến năm
2000, trong đó đề ra nhiệm vụ phát triển phong trào TDTT sâu rộng, trong đó có
mục tiêu chủ yếu là: Đến năm 1990 đạt tỉ lệ 4,5% dân số tập luyện TDTT
thường xuyên. Trong quá trình đổi mới nhận thức về lãnh đạo công tác TDTT
theo tinh thần Đại hội VI, Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) ban hành Chỉ thị số
112-CT ngày 9/5/1989 về công tác TDTT trong những năm trước mắt [14]. Chỉ
thị này đã xác định nhiệm vụ quan trọng là nâng cao chất lượng GDTC cho học
sinh các trường học; duy trì và phát triển phong trào TDTT học sinh, sinh viên
và lực lượng vũ trang phải trở thành nòng cốt của phong trào TDTT trong cả



6
nước. Một yêu cầu đổi mới trong quản lý và điều hành TDTT rất cơ bản được
Chính phủ đặt ra cho ngành TDTT là “Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý các
hoạt động TDTT, theo đó các cơ quan Nhà nước về TDTT tập trung sức thực
hiện các chức năng quản lý Nhà nước, chuyển dần việc tổ chức các hoạt động
TDTT quần chúng, trước hết là cuộc thi đấu thể thao cho các Hội, các Liên đoàn
thể thao đảm nhiệm. Đổi mới theo tinh thần của Chỉ thị đối với hoạt động của tổ
chức xã hội là “nguyên tắc tự quản”, có sự giám sát và giúp đỡ của cơ quan quản
lý Nhà nước về TDTT, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước phát
luật và tự đảm bảo về tài chính.
Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phong trào TDTT quần chúng
đã có nhiều tiến bộ bước đầu, đánh dấu sự khởi sắc đó là Đại hội TDTT toàn
quốc lần thứ II (1990) và vai trò các Hội, Liên đoàn bước đầu chuyển biến trong
việc phối hợp với các cơ quan Nhà nước chọn lựa vận động viên tham gia thi
đấu các giải thể thao quốc tế khởi đầu bằng việc thể thao Việt Nam trở lại đấu
trường SEA Games, năm 1989.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) tiếp tục đề ra nhiệm vụ “Bảo
vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân phải trở thành hoạt động tự giác của
mỗi người, với sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội”[1]. Nhiệm vụ
đó đã được Chính phủ cụ thể hóa trong “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội đến năm 2000” báo cáo tại Đại hội Đảng VII là “Bảo vệ, nâng cao sức
khỏe về thể chất nhân dân, chống suy dinh dưỡng trẻ em, tăng chiều cao, cân
nặng của thế hệ trẻ, tăng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam, xây dựng
phong trào toàn dân rèn luyện thân thể, hoạt động TDTT, nhất là trong thanh
niên, kết hợp phổ cập với nâng cao, phát triển các câu lạc bộ TDTT hoạt động
theo nguyên tắc tự quản và tự bù đắp chi phí, có sự quản lý và tài trợ một phần
của Nhà nước”[1].
Đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII (1993) tiếp tục xác định: “Phát
triển phong trào TDTT nhân dân trong cả nước, trước hết là trong thanh niên,

học sinh, từng bước hình thành TDTT chuyên nghiệp đỉnh cao”[2].


7
Trong giai đoạn này Đảng và Nhà nước đã quan tâm vấn đề đổi mới sự
nghiệp giáo dục và đào tạo như một quốc sách hàng đầu. Nghị quyết Trung ương
4 (khóa VII) đã nhấn mạnh: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người và của
toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy chúng ta phải phấn đấu để mọi người đều được quan tâm chăm sóc sức
khỏe, rèn luyện thân thể là một trong những biện pháp tích cực để chăm sóc sức
khỏe”[2].
Trước tình hình yêu cầu nhiệm vụ mới của ngành TDTT sau khi thành lập
lại Tổng cục TDTT, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã Ban hành Chỉ thị về công
tác TDTT trong giai đoạn mới. Đây là sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp TDTT
của đất nước đang trên đường đổi mới vào những năm cuối thế kỉ 20. Trong tình
đó Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tiếp tục khẳng định những quan điểm cơ bản
của Đảng về công tác TDTT trên con đường đổi mới như sau:
- Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, công tác TDTT phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo
dục, nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa,
tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của
lực lượng vũ trang.
- Xây dựng nền TDTT có tính dân tộc, khoa học nhân dân. Giữ gìn, phát
huy bản sắc và truyền thống dân tộc, đồng thời nhanh chóng tiếp thu có chọn lọc
những thành tựu hiện đại. Phát triển rộng rãi phong trào TDTT quần chúng với
khẩu hiệu “Khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, từng bước xây dựng lực
lượng thể thao chuyên nghiệp đỉnh cao.
- Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, các
đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội, xã hội hóa tổ chức hoạt động TDTT dưới

sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về TDTT phục vụ cho sự phát triển
TDTT đất nước, tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân
ta và nhân dân các nước.


8
Mục tiêu cơ bản, lâu dài của công tác TDTT là hình thành nền TDTT phát
triển và tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa,
tinh thần của nhân dân và phấn đấu đạt được vị trí xứng đáng trong các hoạt
động TDTT quốc tế, trước hết là khu vực Đông Nam Á.
Thể chế hóa về mặt Nhà nước đối với sự nghiệp TDTT trong thời kì đổi
mới đã được Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước và
xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước thống nhất
quản lý sự nghiệp phát triển TDTT...”. Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc xây
dựng quy hoạch phát triển ngành TDTT số 133 - TTg ngày 7/3/1995. Chủ
trương đó được Ủy ban nhân dân của các tỉnh, thành phố cả nước triển khai một
cách mạnh mẽ. Chính phủ chỉ đạo sâu sát cuộc vận động tổ chức Đại hội TDTT
các cấp, Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ III và nhiều hoạt động TDTT khác để
thiết thực chào mừng kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh
(2/9/1945-2/9/1995).
1.1.2 Giai đoạn 1996 đến nay
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới thắng lợi (1986-1995) Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã quyết định đưa đất nước vào giai đoạn
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiên đại hóa, xây dựng quy hoạch chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2015. Đại hội VIII của Đảng xác định: “Sự cường
tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo
ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội. Chăm lo cho con người về thể chất là
trách nhiệm của toàn xã hội của tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể” [3].
Quan điểm của Đại hội về chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể chất nhân dân chính

là bồi dưỡng cho nguồn lực con người. Do vậy nhiệm vụ của chiến lược đào tạo
nhân lực phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cần thực hiện phương
châm đẩy mạnh xã hội hóa trong mọi hoạt động TDTT quần chúng hướng vào
mục tiêu tăng cường sức khỏe và thể chất con người. Văn kiện Đại hội Đảng
VIII đã chỉ rõ: “Phát triển phong trào TDTT sâu rộng trong cả nước, trước hết là
trong thanh, thiếu niên, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả
giáo dục thể chất trong trường học, trong các lực lượng dự bị quốc phòng và lực


9
lượng vũ trang…”[3]. Đại hội VIII của Đảng đã thông qua phương hướng,
nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000 trong đó nhiệm
vụ của ngành TDTT cả nước đề ra thực hiện chỉ tiêu đạt 10% dân số tập luyện
TDTT, 50% trường học các cấp thực hiện giáo dục thể chất có nền nếp.
Trên cơ sở tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 36 CT/TW, ngày 24-3-1994
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII [9] và yêu cầu đẩy mạnh công tác
TDTT hơn nữa trong những năm cuối thế kỷ 20, Thường vụ Bộ Chính trị đã ban
hành Thông tri số 03 -TT/TW ngày 2/4/1998 về “Tăng cường lãnh đạo công tác
TDTT”. Thông tri đã đánh giá phong trào TDTT cả nước có bước phát triển
nhưng chưa đều, giáo dục thể chất trong trường học còn nhiều hạn chế, nhiều
trường học và địa bàn dân cư không có sân bãi tập luyện, cơ sở vật chất TDTT
còn nhiều thiếu thốn. Thông tri của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII về “tăng
cường lãnh đạo công tác TDTT” là sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với
TDTT. Điểm mới và quan trọng trong sự chỉ đạo của Đảng đối với TDTT trong
thời gian này là đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động TDTT và chú trọng phát
triển các phong trào tập luyện của quần chúng nhân dân ở cơ sở xã, phường,
trường học; mở rộng tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò công
tác TDTT đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Triển khai quan điểm và đường lối chính trị của Đại hội Đảng VIII về vấn
đề xã hội hóa, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90-NQ/CP về xã hội hóa

các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá (1997) về chính sách khuyến khích xã hội
hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và TDTT. Năm 2000 Ủy Ban thường
vụ Quốc hội (khóa X) ban hành Pháp lệnh thể dục, thể thao nhằm thể chế mọi
hoạt động của Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các
thành phần kinh tế cho đến mọi người dân có quyền lợi và nghĩa vụ tham gia
phát triển sự nghiệp TDTT của đất nước. Như vậy, trong 5 năm cuối của thế kỷ
20 (1996-2000) sự nghiệp TDTT Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và toàn diện
các lĩnh vực TDTT: phong trào tập luyện TDTT của quần chúng, thể thao thành
tích cao; bước đầu hội nhập TDTT quốc tế. Tổ chức bộ máy và cán bộ, cơ sở vật
chất - kỹ thuật TDTT, các công trình TDTT, năng lực quản lý tổ chức các sự


10
kiện thể thao tầm cơ quốc gia và quốc tế từng bước được nâng cao; xã hội hóa
TDTT có sự tham gia của các thành phần xã hội góp phần phát triển sự nghiệp
TDTT đã tạo được một hệ thống các tiền đề quan trọng cho sự nghiệp TDTT
tiến nhanh ngay từ những năm đầu của thế kỷ 21.
Bước vào thiên niên kỷ mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4-2001)
là Đại hội của trí tuệ, quyết định đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước đối
với đất nước nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Đối với lĩnh vực công tác TDTT văn kiện Đại hội đã chỉ rõ “phát
động phong trào toàn dân tập luyện TDTT, nâng cao sức khỏe và tầm vóc người
Việt Nam...”[18]. Đại hội Đảng đã thông qua “Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001-2010 do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình bày tại Đại
hội, trong đó một lần nữa đặt ra yêu cầu “Đẩy mạnh hoạt động TDTT nâng cao
thể trạng và tầm vóc người Việt Nam. Phát triển phong trào TDTT quần chúng
với mạng lưới cơ sở rộng khắp” đồng thời nhấn mạnh “Đẩy mạnh xã hội hóa,
khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu quả các hoạt
động văn hóa, thể thao. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và bảo trợ các
hoạt động văn hóa, thể thao”[18].

Trong qua trình phấn đấu đưa Nghị quyết Đại hội Đảng IX vào cuộc sống,
ngành TDTT đã được Chính phủ cho phép đăng cai Đại hội thể thao Đông Nam
Á lần thứ 22 (Seagame 22) vào năm 2003 và phát động cuộc vận động lớn
“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, Chính phủ phê duyệt
Quy hoạch phát triển ngành TDTT đến năm 2010 (Quyết định số 57/2002/QĐTTg ngày 26/4/2002) [18].
Trước yêu cầu nhiệm vụ to lớn như trên Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa IX) ban hành Chỉ thị số 17-CT/TW, ngày 23-10-2002 về “Phát triển
TDTT đến năm 2010” [15]. trong đó khẳng định: “Hoạt động TDTT ở xã,
phường là yếu tố cơ bản để phát triển TDTT quần chúng ở nước ta. Do đó, cần
tập trung chỉ đạo phát triển TDTT quần chúng ở cơ sở theo một chương trình
thống nhất toàn quốc trong tất cả các đối tượng, địa bàn, trước hết là thanh, thiếu
niên, lực lượng vũ trang, người cao tuổi, người khuyết tật; chú trọng địa bàn


11
nông thôn, miền núi. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ đảng,
chính quyền ở các cơ sở xã phường cần dựa vào trường học và các đoàn thể
nhân dân để phát triển các hoạt động TDTT phù hợp với từng đối tượng; khai
thác và phát huy các hình thức tập luyện cổ truyền và các môn thể thao dân tộc.
Khuyến khích phong trào TDTT nhân dân; hình thành các tổ chức xã hội tự
nguyện về TDTT. Xây dựng mạng lưới hướng dẫn viên, VĐV làm nòng cốt cho
phong trào. Từng bước hình thành khu vực trung tâm TDTT của xã, phường, thị
trấn gắn với trường học, các điểm vui chơi của thanh, thiếu niên và các thiết chế
văn hóa tại cơ sở” [15].
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình
bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, về TDTT đã nêu rõ:
“Xây dựng chiến lược Quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt
Nam, tăng cường tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực
của thanh niên. Phát triển mạnh TDTT, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể
thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp để

phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí cao
của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới”.
Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TDTT 5 năm 2006-2010, Nghị
quyết Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh các hoạt động TDTT cả
về quy mô và chất lượng. Khuyến khích và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia
hoạt động và phát triển sự nghiệp TDTT. Phát triển mạnh thể thao quần chúng,
thể thao nghiệp dư, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. Làm tốt công tác
giáo dục thể chất trong trường học. Mở rộng quá trình chuyên nghiệp hóa thể
thao thành tích cao. Đổi mới và tăng cường hệ thống đào tạo vận động viên trẻ.
Từng bước chuyển các đơn vị sự nghiệp TDTT công lập sang áp dụng chế độ tự
chủ tài chính, tiến tới tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện như các tổ chức dịch
vụ công cộng khác. Khuyến khích các doanh nghiệp ngoài công lập đầu tư và
kinh doanh cơ sở tập luyện, thi đấu thể thao. Phân định rõ trách nhiệm giữa cơ
quan quản lý hành chính nhà nước và các tổ chức, liện đoàn, hiệp hội thể thao.


12
Chuyển giao hoạt động tác nghiệp về thể thao cho các tổ chức xã hội và các cơ
sở ngoài công lập thực hiện”.
Trên cơ sở đó ngành TDTT đã kiến nghị Chính phủ Ban hành Quyết định
100/2005/QĐ-TTg ngày 10/5/2005 phê duyệt Chương trình phát triển TDTT ở
xã, phường thị trấn đến năm 2010 nhằm “làm cho mỗi người dân ở xã, phường
và thị trấn được hưởng thụ và tham gia các hoạt động văn hóa TDTT nhằm tăng
cường sức khỏe, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
trí tuệ và thể chất, phục vụ lao động sản xuất, công tác, học tập, góp phần ổn
định, giữ gìn an ninh chính trị và đẩy lùi các tệ nạn xã hội”[34]. Những chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước thể hiện rõ sự luôn quan tâm của
đảng đối với công tác TDTT đồng thời cũng khẳng định vị trí và tầm quan trọng
của TDTT đối với sự nghiệp Cách mạng nước ta.
Đảng ta cũng khẳng định rõ vị trí quan trọng của TDTT nhằm bồi dưỡng

và phát huy nhân tố con người, tạo ra sức mạnh và động lực phát triển đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ TDTT ngày càng trở thành một bộ
phận không thể thiếu được trong đời sống xã hội nước ta.
Trên cơ sở những nội dung đã trình bày ở trên, có thể khái quát quan điểm
nhất quán của đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác TDTT theo 5 nhóm vấn đề sau:
1. Phát triển TDTT là một yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của
chính sách xã hội, một biện pháp tích cực để giữ gìn và nâng cao sức khoẻ nhân
dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng
của đất nước, đáp ứng nhu cầu văn hoá, tinh thần của nhân dân.
2. Phát triển TDTT phải đảm bảo tính Dân tộc - Khoa học - Nhân dân.
3. Phát triển cân đối và thống nhất các lĩnh vực TDTT: TDTT quần chúng,
TDTT trường học và thể thao thành tích cao, chú trọng đối tượng thanh, thiếu
niên.
4. Đẩy mạnh xã hội hóa¸ TDTT, làm cho sự nghiệp TDTT trở thành sự
nghiệp của toàn dân và toàn xã hội.
5. Mở rộng hợp tác quốc tế về TDTT.


13
Tóm lại: Những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác
TDTT trong thời kỳ đổi mới là nhất quán. Dù ở thời kỳ nào Đảng ta cũng khẳng
định rõ vị trí quan trọng của TDTT nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người, tạo ra sức mạnh và động lực phát triển đất nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng TDTT ngày càng trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong đời
sống xã hội nước ta.
1.2. Vị trí, vai trò của TDTT trong phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã
hội
TDTT là bộ phận không thể tách rời của nền văn hoá của mỗi dân tộc,
cũng như nền văn minh của nhân loại. Trình độ TDTT là một trong những dấu
hiệu thể hiện trình độ văn hoá và năng lực sáng tạo của dân tộc, là phương tiện

giao lưu văn hoá, mở rộng quan hệ của nước ta với các nước. Các hoạt TDTT
quần chúng cũng như các hoạt động thi đấu, biểu diễn thể thao trình độ cao đang
ngày càng trở thành nhu cầu của quần chúng. Các hoạt động đó không những là
hình thức nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao sức khoẻ, mà còn có thể đem lại niềm tự
hào, nhu cầu hưởng thụ và sự cổ vũ to lớn cho nhân dân.
Trong mối quan hệ với đời sống kinh tế - xã hội, phát triển TDTT là một
yêu cầu khách quan, một mặt quan trọng của chính sách xã hội nhằm chăm lo
cho con người, phục vụ đắc lực cho những nhiệm vụ phát triển đất nước về mọi
mặt: kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng. TDTT là phương tiện có hiệu quả và
có khả năng thực thi để ngăn chặn tình trạng sa sút về sức khoẻ của nhân dân,
đặc biệt là của thế hệ trẻ, từng bước nâng cao thể lực của con người Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu lao động trong những điều kiện mới và sẵn sàng bảo vệ tổ
quốc. Với ý nghĩa đó, phát triển TDTT được coi là nội dung quan trọng của
chính sách xã hội. Cương lĩnh của Đảng đã khẳng định: “Chính sách xã hội
đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, đồng thời
nêu rõ một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội là “bảo đảm
và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về
ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”.


14
TDTT có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức khoẻ, xây dựng con
người mới, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp phần
mở rộng giao lưu quốc tế, phục vụ tích cực những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng của đất nước [27].
Cần khắc phục những quan niệm cho rằng TDTT chỉ là việc vui chơi giải
trí đơn thuần, có hay không cũng được, hoặc cho rằng phải chờ khi nào kinh tế
khá lên thì mới cần đến TDTT, còn trong điều kiện kinh tế khó khăn, thì cần
phải tập trung lo cho đời sống vật chất, chưa cần đến các hoạt động TDTT. Tất

nhiên sự phát triển TDTT không thoát ly các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội,
nhưng nếu quan niệm TDTT chỉ là kết quả của kinh tế, thì như vậy đã phủ định
vai trò chủ động, tích cực của nó và tự tước bỏ đi những giá trị văn hoá và hiệu
quả vô giá về sức khoẻ mà TDTT đem lại cho xã hội.
1.3. Những giải pháp phát triển Thể dục thể thao
1.3.1. Khái niệm về các giải pháp
Nghiên cứu các tài liệu chính thống về quản lý TDTT ở nước ta, đề tài
nhận thấy các giải pháp chưa được nghiên cứu sâu và hệ thống hoá một cách đầy
đủ. Do đó cần phải tiến hành việc phân loại trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm
quản lý thu nhận từ quá trình áp dụng các giải pháp vàp thực tiễn.
Trên cơ sở phân tích tài liệu, đề tài có thể dễ dàng đi đến nhận định là
giữa phương pháp và thực tiễn quản lý còn có khoảng cách. Việc ứng dụng các
phương pháp quản lý vào quá trình quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên cơ
sở phù hợp của chúng với điều kiện thực tiễn [16]:
- Yếu tố hình thức là yếu tố hiện trạng của quá trình quản lý khác, đây là
tình trạng nội lực, ngoại lực (khách quan hay chủ quan) trong quản lý.
- Yếu tố, mục tiêu trong quản lý cần đạt ở mức độ, phạm vi nào.
- Sự thông minh sáng tạo của người quản lý.
Về bản chất của giải pháp là những phương pháp, phương tiện, hành vi
công cụ được tác động sử dụng thông qua quản lý theo một lộ trình nhất định.
Các phương tiện, hành vi, công cụ này thể hiện ở hình thức là các chương trình
và dự án được thực hiện trong phạm vi lộ trình để đạt được mục tiêu quản lý.


15
Nói tóm lại giải pháp là những chương trình, dự án được sử dụng như một
phương pháp quản lý để đạt được mục tiêu đã đề ra. Giải pháp là những phương
pháp cụ thể, là cách thức thực hiện các phương pháp. Giải pháp là cụ thể hoá các
phương pháp hay ứng dụng các phương pháp vài thực tiễn quản lý. Trong một
phương pháp có nhiều giải pháp, mặt khác một giải pháp cụ thể có thể tập hợp

nhiều phương pháp khác nhau. Như vậy giữa phương pháp và giải pháp có sự
tương đồng nhưng không đồng nghĩa với nhau. Một nhóm giải pháp cụ thể tổng
hợp thành phương pháp quản lý.
1.3.2. Phân loại các giải pháp phát triển TDTT
Theo cách tiếp cận phân loại các giải pháp quản lý xã hội của các tác giả
Nguyễn Tuấn Dũng, Đỗ Minh Hợp và K.A. Vôrônôva, việc phân loại các nhóm
giải pháp quản lý xã hội như sau:
- Trong phương pháp quản lý hành chính có nhóm giải pháp hành chính.
Đó là nhóm giải pháp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, mệnh lệnh dựa trên cơ sở
pháp lý được luật pháp thừa nhận. Đây là nguyên lý cấp dưới phục tùng cấp
trên, người dân sống và làm việc theo pháp luật. Nhóm giải pháp này bao gồm
các giải pháp cụ thể sau:
+ Giải pháp tổ chức (hình thức các loại hình thức tổ chức trong xã hội).
+ Các văn bản pháp luật, dưới luật, chỉ thị, nghị quyết, nghị định, thông
tư, kế hoạch.
+ Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát.
- Trong phương pháp quản lý kinh tế có nhóm giải pháp kinh tế (vận dụng
phương pháp quản lý kinh tế). Đây là nhóm giải pháp vận dụng các quy luật
kinh tế để áp dụng vào quản lý xã hội.
Quy luật kinh tế cơ bản nhất gồm có:
+ Lợi nhuận và lợi ích kinh tế, các hoạt động xã hội đều lấy lợi ích, lợi
nhuận kinh tế làm thước đo, đánh giá hiệu quả và mục đích hoạt động.
+ Quy luật về phân phối lợi ích sản phẩm xã hội.
+ Quy luật cung cầu, quy luật giá trị.
+ Quy luật kinh tế thị trường....


16
Trên cơ sở đố nhóm giải pháp kinh tế bao gồm:
+ Hệ thống chế độ, chính sách và khen thưởng vật chất.

+ Hệ thống lương và phụ cấp ngoài lương.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến sự
đa dạng hoá các loại hình sở hữu, trong quản lý điều hành phát triển xã hội. Sở
hữu nhà nước (công lập) và sở hữu ngoài nhà nước (ngoài công lập) gồm có bán
công, dân lập, tư nhân.
Giải pháp xã hội hoá để thu hút và khai thác các nguồn lực của xã hội. Các
quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác xã hội hoá TDTT là:
+ TDTT là một bộ phận quan trọng của xã hội phát triển TDTT là một
phương tiện hữu hiệu để phát triển con người toàn diện – đây vừa là mục tiêu vừa
là động lực phát triển xã hội. TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, phát
triển nhân cách con người, tạo ra lối sống lành mạnh, văn minh trong xã hội.
+ TDTT Việt Nam là một nền Thể thao phát triển và tiến bộ, có tính độc
lập, khoa học và nhân dân.
+ TDTT là sự nghiệp của quần chúng, là trách nhiệm của toàn xã hội. Mọi
tổ chức Đảng chính quyền, tổ chức xã hội ở các cấp phải coi trọng, có trách
nhiệm phát triển TDTT.
Những quan điểm trên là căn cứ, cơ sở giúp cho việc hoạch định có hiệu
quả trong mọi phạm vi hoạt động của TDTT trong đó bao gồm cả hoạt động tổ
chức, xây dựng quản lý các tổ chức xã hội về TDTT.
- Nhóm giải pháp đạo đức (vận dụng phương pháp quản lý đạo đức). Đây là
nhóm giải pháp về con người, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng con người có nhân
cách phát triển để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ quản lý. Đạo đức ở đây là xây
dựng và hình thành nhân cách con người trong hệ thống quản lý. Con người vừa là
chủ thể vừa là khách thể quản lý. Đạo đức của con trong hệ thống quản lý là nhân
tố quan trọng quyết định tới sự thành công hay thất bại của quá trình quản lý.
Nội dung giải pháp quản lý đạo đức gồm có:
+ Hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo con người trong xã hội.


17

+ Hệ thống chế độ sử dụng nguồn lực con người trong xã hội, chế độ
tuyển dụng, chế độ lao động, công tác....
+ Tuyên truyền, vận động, giáo dục truyền thông cho mọi người về chính
trị, tư tưởng, tư cách đạo đức.
Ngoài cách phân loại các giải pháp theo phương pháp quản lý nói trên, khi
vận dụng các nhóm phương pháp vào thực tiễn quản lý còn phải sử dụng các
loại giải pháp hỗ trợ khác.
1.4. Khái quát chung về môn Bơi lội
1.4.1. Tìm hiểu sơ lược về môn Bơi lội
Bơi lội là một môn thể thao dưới nước, do tác động của sự vận động toàn
thân, đặc biệt là đạp chân, quạt tay trong nước mà con người có thể chuyển động
vượt được quãng đường dưới nước với tốc độ khác nhau. Bơi lội được ra đời
trong quá trình lao động sản xuất và chống lại thiên tai, địch hoạ của loài người.
Nó luôn có mối quan hệ chặt chẽ với sự sinh tồn, sản xuất và sinh hoạt của loài
người, phát triển và đổi mới cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài
người. Môn Bơi lội có nội dung rất rộng. Hiện nay Bơi lội trong các cuộc thi đấu
ở Đại hội Olympic và giải vô địch Bơi lội thế giới bao gồm bốn phần: Bơi thể
thao, nhảy cầu, bóng nước và bơi nghệ thuật. Bốn phần này trên thực tế đã sớm
trở thành bốn môn thi đấu độc lập. Hình thức bơi trong môn Bơi lội rất đa dạng,
phong phú. Các hình thức Bơi lội lưu truyền trong dân gian có: bơi tô tô, bơi
chải, bơi đứng, bơi nghiêng và một số cách bơi không có luật lệ khác. Do kĩ
thuật của các kiểu bơi trên không hợp lí, tạo ra tốc độ chậm lại tốn sức nên trong
thi đấu bơi dần dần đã bị thải loại [28], [29].
Hiện nay các loại hình hoạt động Bơi lội đang được phát triển rộng rãi,
gồm các loại sau:
1.4.1.1. Bơi thể thao
Bơi thể thao chính là các kiểu bơi hiện đại được sử dụng trong thi đấu bơi
ở các Đại hội TDTT trong nước và quốc tế. Trong số các kiểu bơi thể thao có
kiểu do bắt chước cách bơi của một động vật nào đó mà được đặt theo tên của
động vật đó. Ví dụ như bơi ếch, bơi bướm, bơi đen - phin. Có kiểu bơi lại được



18
đặt tên dựa vào tư thế khi bơi như bơi ngửa, bơi trườn sấp. Cùng với sự phát
triển của bơi thể thao, nội dung thi đấu bơi thể thao hiện nay cũng rất phong
phú, bao gồm: Bơi trườn sấp, trườn ngửa, bơi ếch và bơi bướm. Đồng thời tổ
hợp cả bốn kiểu bơi (bơi hỗn hợp cá nhân và tiếp sức hỗn hợp) cũng đã trở thành
các môn thi đấu chính thức.
Hiện nay, luật thi đấu bơi chỉ công nhận kỉ lục thi đấu ở bể bơi 50m tiêu
chuẩn. Để thích ứng với yêu cầu thi đấu và huấn luyện, mỗi năm về mùa đông
còn thi đấu bơi Quốc tế ở bể 25m. Do thi đấu ở bể bơi ngắn có lợi cho việc kiểm
tra hiệu quả huấn luyện mùa đông, nâng cao kĩ thuật quay vòng nên năng lực thi
đấu này ngày càng được nhiều nước trong khu vực và thế giới coi trọng [28],
[29].
Bảng 1.1. Hệ thống các nội dung và cự ly thi đấu Bơi
Kiểu bơi

Bơi tự do (trườn sấp)

Bơi trườn ngửa

Bơi ếch
Bơi bướm
Bơi hỗn hợp cá nhân
Tiếp sức bơi tự do

Cự li thi đấu
Nam
Nữ
50m, 100m 50m, 100m

200m,
200m,
400m
400m
800m,
800m,
500m
500m
100m,
200m

100m,
200m

100m,
200m
100m,
200m
200m,
400m

100m,
200m
100m,
200m
200m,
400m

4 x 100m,
4 x 200m,


4 x 100m,
4 x 200m,

Tiếp sức hỗn hợp (4
4 x 100m
kiểu bơi)
1.4.1.2. Bơi thực dụng

4 x 100m

Ghi chú
Đại hội Olympic
không thi đấu 800m tự
do nam và 1500m tự
nữ.
Các nhóm tuổi (thanh
thiếu niên, nhi đồng có
thi đấu cự li 50m).
Nội dung thi đấu như
trên.
Nội dung thi đấu như
trên.
Bướm, ngửa, ếch,
trườn.
Đại hội Olympic
không thi đấu tiếp sức
4 x 200m nữ.
Bướm, ngửa, ếch,
trườn.



×