Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.6 KB, 89 trang )

Lời nói đầu

Đến nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Chúng ta đang khơi dậy
và phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội sinh, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng cố gắng
thu hút các nguồn đầu tư, viện trợ nước ngoài và sử dụng chúng một cách
hợp lý, kịp thời, có hiệu quả.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, trong chủ trương
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, nguồn vốn
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn vốn nước
ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, vốn ODA không thể thay thế được
vốn trong nước, mà chỉ là “chất xúc tác”, tạo điều kiện để khai thác tối đa
và có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá và
hiệu đại hoá đất nước.
Hơn nữa, kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn từ bên ngoài của nhiều
nước trên thế giới cho thấy không phải lúc nào ODA cũng mang lại hiệu
quả tốt. ODA có hai mặt, nếu sử dụng khéo sẽ hỗ trợ thật sự cho công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội. Nếu ngược lại sẽ dẫn đến hậu quả gánh nặng nợ
nần khó trả cho nhiều thế hệ. Trong một số trường hợp, viện trợ đã không
làm giảm được tình trạng nghèo khổ, mà trái lại có khi nó còn làm trầm
trọng thêm tình trạng này do tệ quan liêu, tham nhũng, cũng như việc xử lý
và phân bổ không hợp lý nguồn viện trợ ở các nước nhận viện trợ. Vấn đề
đặt ra là làm sao khai thác được mặt tốt của ODA và đồng thời cũng hạn
chế được tác động và hậu quả không tốt của nó.

Đề tài: "Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt
Nam giai đoạn 2008 - 2013" chính là một sự lựa chọn nhằm góp phần tìm
ra lời giải đáp cho vấn đề trên.
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận
và thực tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đồng thời đánh giá


khái quát thực trạng quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức ở Việt Nam trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức ở Việt Nam trong những năm tới.

1


Nội dung của bài viêt gồm ba chương:
Chương I:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Chương II:
Đánh giá tình hình sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA ở Việt Nam giai
đoạn2000- 2007
Chương III:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và quản lý vốn ODA
Nhằm phục vụ nôi dụng nghiên cứu trên, trong bài viết của mình em
đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống
kê, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp trừu tượng hoá, phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử...
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Th.S Vũ Cương,
cán bộ hướng dẫn Phạm Thị Thanh An nói riêng, của các cô chú trong Vụ
Kinh tế Đối ngoại – Bộ Kế hoạch & Đầu tư nói chung đã tạo điều kiện để
em hoàn thành bài Báo cáo thực tập này.

2


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN VỐN

HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
I.VAI TRÒ CỦA VỐN ODA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
-XÃ HỘI.
1.Khái niệm, đặc điểm của nguồn vốn ODA.
a, ODA là gì?
ODA là tên viết tắt của ba chữ tiếng Anh: Official development
Assistance, có nghĩa là: Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ
phát triển chính thức.
Năm 1972, OECD, tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển 1 đã đưa ra
định nghĩa ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích
chính là thúc đẩy sự phát triển sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước
đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và
thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”.
Với tên gọi nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, ODA về nguyên
tắc chỉ tập trung cho việc khôi phục và thúc đẩy sự phát triển hạ tầng kinh
tế - xã hội của một quốc gia như xây dựng đường xá, giao thông công cộng,
các công trình thuỷ lợi, bệnh viện, trường học, cấp thoát nước và vệ sinh
môi trường. Những dự án được đầu tư từ vốn ODA thường là các dự án
không hoặc ít có khả năng sinh lời cao, ít có khả năng thu hút được nguồn
đầu tư tư nhân. Vì vậy, nguồn lực này rất có ý nghĩa để hỗ trợ thực hiện các
chương trình, dự án phục vụ các lợi ích công cộng.

1

Đây là tổ chức tập hợp hầu hết các nhà tài trợ song phương lớn trên thế giới, hiện nay có 30
thành viên, trong đó có 22 nước và cộng đồng châu Âu (EU) Là các nhà tài trợ vốn ODA.

3



-Các hình thức cung cấp ODA: ODA được thực hiện thông qua các
hình thức sau:
+Hỗ trợ cán cân thanh toán: là viện trợ tài chính trực tiếp dưới
hình thức hiện vật hay hỗ trợ nhập khẩu, có thể là tiền mặt.
+ Hỗ trợ chương trình : là viện trợ cho một mục đích tổng quát
với thời hạn nhất định, không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được
sử dụng như thế nào (gọi là viện trợ phi dự án).
+Tín dụng thương mại với điều kiện ưu đãi, thực tế là một dạng
viện trợ hàng hoá có ràng buộc .
+Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA, bao gồm:
-Hỗ trợ cơ bản: chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng.
-Hỗ trợ kỹ thuật, chủ yếu tập trung vào chuyển giao công nghệ, lập
các chương trình, tư vấn, đào tạo...
Loại hỗ trợ này đòi hỏi phải lập dự án.
Tính đến hết năm 2006 ở nước ta có khoảng 23 quốc gia, 6 tổ chức
quốc tế và liên chính phủ, 18 tổ chức quốc tế và khu vực cung cấp ODA
cho Việt Nam. Ngoài ra cũng phải kể tới hơn 300 các tổ chức phi chính phủ
nước ngoài cũng đang cung cấp viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển cho
nước ta.
Hiện nay ở Việt Nam có hầu hết các loại hình cung cấp ODA nói trên.
Các chương trình, dự án ODA được thực hiện thông qua các khoản vay ưu
đãi và viện trợ không hoàn lại (tỷ lệ bình quân hiện nay giữa vốn ODA và
vốn ODA viện trợ không hoàn lại là 85% và 15%).
b.Đặc điểm vốn ODA .
4


ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ các nước đang
phát triển sang các nước chậm phát triển. Liên hợp quốc, trong một phiên
họp toàn thể của Đại hội Đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát

triển dành 1% GDP 2 của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền vững về
kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển.
b.1. ODA là một nguồn vốn ưu đãi
ODA là nguồn vốn mang tính chất ưu đãi hơn cả bởi vì bao giờ cũng
có phần cho không (viện trợ không hoàn lại) chiếm tối thiểu 25% tổng số
vốn. Còn phần cho vay, chủ yếu là vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn các
khoản tín dụng thông thường rất nhiều (thường dưới 3% năm). Vay thương
mại rất nhỏ.
Thời gian sử dụng vốn dài, thường 20 - 50 năm, và thời gian ân hạn (không
phải trả nợ) 5 - 10 năm. Thời gian chịu lãi suất với lịch trả nợ cũng đa
dạng, gồm nhiều giai đoạn và những tỷ lệ trả nợ khác nhau ở từng giai
đoạn.
b.2. ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc
Quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là một nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự phân công lao động giữa các nước. Bản thân các nước phát triển
nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hợp tác, giúp đỡ các nước chậm phát
triển để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Đi liền
với sự quan tâm và lợi ích kinh tế đó, các nước phát triển còn sử dụng ODA
như là một công cụ chính trị xác định vị trí và ảnh hưởng tại các nước và
khu vực tiếp nhận ODA, nhất là đối với các nước lớn.
Các nước viện trợ nói chung đều muốn làm lợi cho mình. Họ muốn
2

Hiện nay các nước Bắc Âu đã tiến đến xấp xỉ tỷ lệ này. Ví dụ Đan mạch 0,97% ;Na Uy 0,86%…

5


vừa đạt được ảnh hưởng về chính trị, vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá
và dịch vụ của nước họ. Do vậy ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián

tiếp. Đi kèm theo với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về
chính trị, kinh tế hoặc khu vực địa lý. ODA có thể được cung cấp với điều
kiện ràng buộc (phải chi tiêu mua sắm ở nước tài trợ) hoặc không bị ràng
buộc (được phép chi tiêu, chi tiêu ở bất kỳ nơi nào) hoặc có thể ràng buộc
một phần (một phần chi tiêu ở nước tài trợ, phần còn lại chi tiêu ở bất kỳ
nơi nào). Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của
nước họ như là một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị
trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh
toán. Các nước như Bỉ, Đức và Đan mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ
phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình. Canađa cao nhất là 70%.
Thuỵ sỹ chỉ 1,7%, Hà lan 22%, Niu-di-lân 0%. Tính chung trong khối DAC
là 22%. Tuy nhiên theo tính toán của các chuyên gia, thì cho dù không đi
kèm theo các điều kiện rằng buộc thì viện trợ vẫn đem lại lợi ích thương
mại cho quốc gia viện trợ.
Nước nhận viện trợ phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ
như điều chỉnh cơ cấu, chính sách đối ngoại, cải cách thể chế... cho phù
hợp với mục đích của bên tài trợ. Điển hình là WB, IMF chỉ cấp viện trợ
cho các nước đang phát triển khi các nước này cam kết thực hiện điều
chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiêu chuẩn và tiến trình mà các tổ chức này đưa
ra.
Nước nhận viện trợ còn phải chịu rủi ro của đồng tiền viện trợ. Nếu
đồng tiền viện trợ tăng giá so với đồng tiền của nước nhận viện trợ thì nước
nhận viện trợ sẽ phải trả thêm một khoản nợ bổ xung do chênh lệch tỷ giá
tại thời điểm vay và thời điểm trả nợ. Thường nước tiếp nhận không có
quyền lựa chọn đồng tiền để vay ODA. Chẳng hạn Chính phủ Nhật bản quy
định chỉ cho vay bằng Yên Nhật. Trong những năm 1960 tỷ giá hối đoái
6


giữa USD và Yên lúc này khoảng 1 USD = 333 Yên, đến những năm 1990

phải trả theo tỷ giá 1 USD = 100 Yên, như vậy nước vay bằng Yên phải trả
gấp 3 lần do sự lên giá của đồng Yên.
Một thực tế khác, năm 1992, nhóm DAC đưa ra nguyên tắc về các
biện pháp mới đối với cấp viện trợ ràng buộc, cho phép các nước đang phát
triển nhận viện trợ nhiều hơn, được hưởng ưu đãi hơn nhưng cũng bị ràng
buộc hơn nhằm kiểm soát viện trợ có hiệu quả. Cụ thể là không dành viện
trợ ràng buộc cho các nước mà có thu nhập bình quân đầu người không đủ
tiêu chuẩn hưởng khoản vay dài hạn 17 - 20 năm của WB, hạn chế áp dụng
viện trợ ràng buộc cho các dự án giá trị lớn hơn 2 triệu SDR (quyền rút vốn
đặc biệt) hoặc không bảo đảm mức ưu đãi tối thiểu là 80%.
Điều kiện để được nhận ODA thường là các nước đang phát triển,
chậm phát triển và các nước nghèo có thu nhập bình quân đầu người dưới
100 USD/năm. Nhìn nhận về mức thu nhập này có thay đổi tuỳ theo từng
nước, từng khu vực, từng tổ chức đa phương. Chẳng hạn ADB dành tín
dụng từ Quỹ phát triển Châu á (ADF) cho các nước có thu nhập bình quân
đầu người dưới 650 USD năm với thời hạn 10 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất
0,75%/năm.
b.3. ODA là lực lượng xung kích, mở đường cho lực lượng đầu tư tư
nhân nước ngoài
Xác định viện trợ đúng lúc rất quan trọng để giúp các nước cải cách
chính sách và thể chế của mình. Cải cách thể chế và chính sách kinh tế ở
những nước đang phát triển là chìa khoá để tạo bước nhảy vọt cả về lượng
và chất. Khi các nước cải cách chính sách của mình, viện trợ đúng lúc có
thể giúp tăng cường lợi ích của cải cách và duy trì sự ủng hộ của công
chức. Viện trợ nước ngoài có thể đóng góp những nỗ lực cần thiết cho việc
cải cách chính sách và thể chế như hỗ trợ việc thử nghiệm, thực hiện thí

7



điểm, đào tạo và phổ biến các bài học kinh nghiệm. Các nhà tài trợ và các
tổ chức tài trợ đã tiến hành nhiều dự án khác nhau ở nhiều nước khác nhau
với thể chế và cấu trúc khác nhau và họ đã đưa ra những dẫn chứng và bài
học so sách mà những nước đơn lẻ không thể có được. Việc phân tích chính
sách và chia xẻ kinh nghiệm của chuyên gia là những công việc hữu ích để
hoạch định ra các chính sách kinh tế mới thích hợp hơn.
Thông qua các hoạt động viện trợ, các nước tài trợ có điều kiện để
mở rộng thị trường của mình để tiêu thụ sản phẩm và đầu tư. Việc các nước
tài trợ cung cấp ODA thực chất là sự hỗ trợ của Chính phủ cho bản thân các
công ty trong nước xuất khẩu trang thiết bị, hàng hoá, tránh thuế chuyển
giao công nghệ, chuyên gia.
Nguồn vốn ODA thường được đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội như xây dựng đường giao thông, phát triển năng lượng, hệ thống cấp
thoát nước... là sự chuẩn bị trước cho vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và tạo điều
kiện sử dụng vốn FDI đầu tư vào một cách hiệu quả. Viện trợ có thể ảnh
hưởng đến con người theo nhiều cách khác nhau. Mục tiêu chính của viện
trợ là giảm đói nghèo. Quá trình giảm đói nghèo ở các nước đang phát triển
có quan hệ chặt chẽ với tăng thu nhập đầu người. Một nghiên cứu về tăng
thu nhập và giảm đói nghèo ở 67 nước cho thấy thu nhập đầu người theo hộ
gia đình tăng thì đói nghèo giảm xuống và các nước có thu nhập giảm thì
đói nghèo lại tồi tệ hơn. Vì vậy, viện trợ tác động đến nâng cao mức sống.
Điều đó có nghĩa là thu nhâp bình quân đầu người tăng lên và nhu cầu tiêu
dùng cũng tăng theo. Hai yếu tố này đã tạo ra nhiều cơ hội đầu tư.
c.Phân biệt giữa Viện trợ phát triển chính thức (ODA) với một số
dạng nguồn vốn khác.
c.1. Phân biệt với Tài chính phát triển chính thức (ODF):

8



ODA là một phần của ODF, trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại
cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ. Tài
chính phát triển chính thức là tất cả các nguồn tài chính mà chính phủ các
nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát
triển. Một số khoản tài trợ này có mức lãi xuất gần với lãi xuất thương mại.
Viện trợ nước ngoài thường liên quan tới Viện trợ phát triển chính thức và
thường dành cho các nước nghèo nhất, nhưng nhiều phát hiện lại có áp
dụng với hình thức rộng hơn là tài chính phát triển chính thức.
Cả hai loại hình này đều có thể chia thành song phương và đa phương.
Viện trợ song phương do các cơ quan của chính phủ tài trợ quản lý (chẳng
hạn Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ hoặc Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại
của Nhật Bản). Viện trợ đa phương do các nước giàu có đóng góp và do các
tổ chức như Chương trình phát triển Liên hợp quốc và Ngân hàng Thế giới
quản lý. Trong số tất cả viện trợ phát triển chính thức thì khoảng 1/3 là viện
trợ đa phương.
Một phần viện trợ song phương mang tính điều kiện, nghĩa là nó phải
được sử dụng để mua sắm hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ. Các nghiên
cứu cho thấy viện trợ theo hình thức này đã giảm giá trị của viện trợ
khoảng 25% và có sự nhất trí rộng rãi rằng viện trợ song phương không
điều kiện có hiệu quả hơn.

Một số nước thuộc OECD có một xu hướng rõ rệt là tránh hình thức
viện trợ có điều kiện này. Năm 2002, viện trợ dưới hình thức này chỉ chiếm
1/5 tổng số viện trợ.
c.2.Phân biệt vốn ODA với nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI)

9


Giữa hai loại hình này có sự khác nhau về nguồn vốn, về phương thức

thực hiện, khác nhau về tính chất và do đó khác nhau về ưu, nhược điểm.
Đầu tư trực tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng
vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực
tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh và thu được lợi nhuận kinh doanh.
Nguồn vốn của đầu tư trực tiếp chủ yếu là của doanh nghiệp và cá nhân.
Nó diễn ra theo cơ chế thị trường và ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị. Nó
thường đưa lại hiệu quả cao nhưng cũng dễ đưa đến sự thua thiệt của phía
chủ nhà nếu như trình độ quản lý của phía chủ nhà non yêú. Đầu tư trực
tiếp có thể rất lớn nếu môi trường đầu tư thuận lợi nhưng lại phụ thuộc vào
ý đồ của nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử
dụng số vốn đầu tư đó, người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ
chức, điều hành dự án đầu tư, thu lợi chủ yếu dưới hình thức lợi tức cho
vay hoặc lợi tức cổ phần (hoặc có thể không thu lợi trực tiếp). Nguồn vốn
đầu tư gián tiếp rất đa dạng, có thể là của các chính phủ, các tổ chức quốc
tế, các tổ chức phi chính phủ. Các nguồn vốn này có thể thực hiện dưới
hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại, cho vay ưu đãi và không ưu
đãi. Doanh nghiệp và tư nhân cũng có thể đầu tư gián tiếp dưới hình thức
mua cổ phiếu và chứng khoán ở mức không quá lớn, chưa đạt đến tỷ lệ cổ
phần khống chế để buộc phải đứng ra điều hành dự án đầu tư. Các khoản
đầu tư gián tiếp mang tính ưu đãi thường phụ thuộc vào quan hệ chính trị
giữa các chính phủ hoặc quan hệ với các tổ chức quốc tế. Nó tạo khả năng
chủ động cho phía chủ nhà trong việc bố trí cơ cấu đầu tư nhưng có nguy
cơ đưa đến hiệu quả đầu tư không cao và gây ra gánh nặng nợ nần của ngân
sách nhà nước. Nói chung quy mô đầu tư gián tiếp không lớn, chịu giới hạn
khách quan về nguồn vốn.
10



Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp thì một bộ phận quan trọng là
viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Chính phủ một số nước công
nghiệp phát triển .
2.Sự cần thiết phải thu hút vốn ODA.
a,Vai trò tích cực của vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển.
Hầu hết tất cả các nước trong quá trình phát triển đều phải có hai
nguồn vốn đó là nguồn tích luỹ trong nước và ngoại tệ cho đầu tư. Một
phần lý luận ban đầu của viện trợ nước ngoài là giúp đỡ các nước khắc
phục “thiếu hụt tích luỹ”, nhằm tạo nguồn đầu tư cần thiết và khắc phục
“thiếu hụt ngoại tệ” để có các máy móc, thiết bị nhập khẩu làm nền tảng
cho sự đầu tư cần thiết. Các cơ quan phát triển đã lập ra mô hình “hai thiếu
hụt”, mô hình này xem nhập khẩu và đầu tư cơ bản là các động lực cho
tăng trưởng. Vai trò của viện trợ nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng
trưởng là cần thiết, vì viện trợ nước ngoài có thể góp phần giải quyết hai
“thiếu hụt “ trên.
Viện trợ không chỉ đơn thuần là tăng thêm nguồn tài chính. Trên
thực tế, đó là sự kết hợp giữa tiền bạc với ý tưởng hay tri thức. ở những
nước chưa có các chính sách và thể chế để có thể sử dụng tốt các nguồn
vốn tài trợ lớn, đôi khi các tổ chức viện trợ có thể tham gia xây dựng một
môi trường thuận lợi để tiến hành cải cách thành công mà không cần phải
tài trợ nhiều kinh phí. Ví dụ như cung cấp ý kiến tư vấn chính sách ở cấp vĩ
mô và tài trợ cho việc tổ chức các diễn đàn để các quan chức Chính phủ có
thể học hỏi các nước khác .Báo cáo nghiên cứu gần đây của Ngân hàng thế
giới về hiệu quả viện trợ, coi Việt Nam là một trường hợp điển hình. Năm
1986, Việt Nam đã xúc tiến các biện pháp cải cách trên tin thần tự thân vận
động nhằm mở cửa nền kinh tế với thương mại và các hoạt động sản xuất
11



kinh doanh của tư nhân, song do sự cách biệt về mặt chính trị với phương
Tây nên Việt Nam không nhận được khoản viện trợ lớn nào. Tuy nhiên,
trên thực tế Việt Nam đã nhận được khá nhiều ý kiến tư vấn về chính sách,
đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật từ UNDP và các nước Bắc Âu, đôi khi với sự
tham gia của các cơ quan tài chính quốc tế. Một ví dụ cụ thể là sáng kiến
thiết kế cuộc điều tra hộ gia đình mang tính chất đại diện đầu tiên tại Việt
Nam, và gần đây đã được tiến hành lần thứ hai. Chỉ sau khi có những đổi
mới rõ rệt về chính sách trong giai đoạn 1988 -1992 Việt Nam mới bắt đầu
liên tục nhận được những khoản tài trợ đáng kể. Tỷ trọng ODA từ 1% vào
đầu những năm 1990 tăng lên tới khoảng 3% vào năm 2002. Nhưng cho
đến thời điểm đó, Việt Nam đã đạt được bước cải thiện rõ rệt về kinh tế - xã
hội với kết quả là mức thu nhập tăng lên, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ nghèo đói
giảm xuống.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân: Tác dụng của viện trợ đối với
tăng trưởng ở các nước có cơ chế quản lý tốt rất cao. Điều này có thể xảy ra
vì một khi cơ chế quản lý tốt sẽ có những đề án đầu tư công cộng có hiệu
quả dành cho viện trợ. Nếu một nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, lợi
nhuận đầu tư vào khôi phục đường giao thông, chẳng hạn, sẽ cao. Nếu nền
kinh tế trì trệ, lợi nhuận rất thấp và thậm chí không có. Tương tự, kinh tế
tăng trưởng làm tăng tỷ lệ nhập học và hiệu quả đầu tư vào phát triển con
người sẽ cao. Ngược lại, một nền kinh tế trì trệ sẽ làm yếu động lực cho trẻ
em tới trường. Do vậy khi có cơ chế quản lý kinh tế tốt, viện trợ giúp các
chính phủ có nhiều nguồn để đầu tư vào lĩnh vực đem lại hiệu quả cao này.
Những bằng chứng kinh tế ở cấp vi mô cũng thống nhất với những phát
hiện này.
Viện trợ hiệu quả bổ sung cho đầu tư tư nhân. ở những nước có cơ chế
quản lý kinh tế tốt thì viện trợ nước ngoài không thay thế cho sáng kiến tư
nhân. Đúng vậy, viện trợ đóng vai trò như nam châm “hút” đầu tư tư nhân
12



theo tỷ lệ xấp xỉ 2 đôla trên 1 đôla viện trợ. Đối với những nước đã cam kết
cải cách thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin tưởng cho khu vực tư nhân
và hỗ trợ các dịch vụ công cộng quan trọng. Tại những môi trường bị bóp
méo nghiêm trọng thì viện trợ lại “loại trừ” đầu tư tư nhân, điều này giải
thích tại sao trong những trường hợp như vậy tác động của viện trợ lại rất
nhỏ.
Mục tiêu chính của viện trợ là giảm nghèo. Qúa trình giảm nghèo ở
các nước đang phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với tăng thu nhập đầu
người. Các nhà kinh tế học phát triển trước kia đã từng lo ngại rằng các lợi
ích của tăng trưởng sẽ bị sự mất công bằng trong thu nhập làm vô hiệu hoá
khi các nước nghèo phát triển. Tuy nhiên, các chứng cứ gần đây đã chỉ ra
rằng điều lo lắng này là không thể có.
Hiện nay nguồn vốn ODA ở Việt Nam dường như giữ vai trò quan
trọng hơn trước đây. Trước hết vì mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
giảm xuống. Sau khi đạt tới đỉnh cao trong giai đoạn 2002 - 2004, FDI đã
giảm hẳn trong những năm gần đây. Do nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ
nguyên nhân chủ yếu và quan trọng hơn cả đó là do hậu quả của cuộc
khủng hoảng Châu á, tỷ trọng FDI của khu vực này so với toàn cầu đã giảm
xuống và Việt Nam phải đương đầu với cuộc cạnh tranh ác liệt hơn từ các
nước châu á.
b, Vai trò tiêu cực
Các nước phát triển thường dùng ODA như là một công cụ để gây ảnh
hưởng về mặt chính trị hoặc đem lại những lợi ích kinh tế. Các chương
trình tài trợ song phương không được xem xét và thực hiện trong môi
trường chính trị. Thực vậy, chúng phải chịu áp lực đáng kể từ phía các
nhóm có quyền lợi chính trị và thương mại khác nhau tại các nước tài trợ.
ODA tuy không phải là nhân tố quan trọng nhất tác động đến phát triển knh
13



tế của các nước phát triển nhưng nó cũng đem lại lợi ích không nhỏ cho các
quốc gia tài trợ. Các điều kiện ràng buộc đi kèm với ODA trước hết là lợi
ích về chính trị, biến các nước nhận viện trợ trở thành các nước bị phụ
thuộc khác nhau. Điều này thể hiện rõ trong thời kỳ chiến tranh lạnh,nhờ
viện trợ mà các nước Tây Âu đều tham gia vào khối NATO do Mỹ lãnh đạo
trong trường hợp Nhật Bản và một số quốc gia Châu á khác cho Mỹ triển
khai quân đội tại các nước này để thực hiện các mưu đồ của Mỹ.
Viện trợ thông qua các hoạt động khác nhau nhằm cung cấp tiền của
và những ý tưởng. Hỗ trợ tài chính sẽ giúp tăng trưởng nhanh hơn, giảm
tình trạng nghèo khổ và đạt được các chỉ tiêu xã hội ở các nước đang phát
triểncó cơ chế quản lý tốt. Còn trong cơ chế quản lý tồi sẽ dẫn đến hậu quả
gánh nặng nợ nần khó trả cho nhiều thế hệ. Trong một số trường hợp, viện
trợ đã không làm giảm được tình trạng nghèo khổ, mà trái lại có khi nó còn
làm trầm trọng thêm tình trạng này do tệ quan liêu, tham nhũng cũng như
việc xử lý và phân bổ không hợp lý nguồn viện trợ ở các nước nhận viện
trợ.
3. Những yêu cầu, điều kiện để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn
ODA.
-Điều kiện đầu tiên để thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ODA đó
là nước tiếp nhận phải có một môi trường chính sách thể chế phù hợp với
thông lệ quốc tế và với nước đầu tư vốn ODA. Theo các kết quả nghiên
cứu chính sách của WB về ODA, viện trợ chỉ có hiệu quả trong một môi
trường cơ chế quản lý tốt
-Khác với loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức ODA đòi hỏi chính phủ nước tiếp nhận phải có vốn
đối ứng đây là một điều kiện cực kỳ quan trọng của loại hình đầu tư này.
“Vốn đối ứng” là giá trị các nguồn lực (tiền mật, hiện vật…) huy động
14



trong nước để chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA theo yêu
cầu của chương trình, dự án.
-Nước tiếp nhận ODA phải xây dựng các chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội làm cơ sở cho các nhà tài trợ xác định chiến lược phát triển của
mình.
-Thoả mãn các điều kiện của bên viện trợ ODA .
Bên cạnh những những yêu cầu đó năng lực cán bộ làm công tác dự án
và năng lực quản lý giám sát dự án cũng là một nhấn tố quan trọng để nhà
đầu tư xem xét, cân nhắc
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ
DỤNG VỐN ODA.
1.ODA là một nguồn vốn của ngân sách Nhà nước.
Luật ngân sách của Việt Nam có quy định ba nguồn vốn cơ bản để
phát triển nền kinh tế đó là: nguồn vốn tích lũy trong nước, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong
các tinh thần đại hội VIII, VIIII, X đều nhấn mạnh tầm quan trọng cũng
như việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong điều kiện
nguồn vốn tích luỹ trong nước hạn hẹp, nguồn vốn nước ngoài góp phần
không nhỏ bổ sung cho nguồn vốn trong nước.
2.Do tính cạnh tranh của nguồn vốn ODA giữa các nước đang phát
triển.
Các nước đang phát triển là những nước đang rát cần vốn cho đầu tư
phát triển kinh tế. Cũng như Việt Nam, vốn đầu tư của các nước phát triển
được huy động từ ba nguồn: ODA, FDI và tích luỹ nội bộ. Như ta đã biết
hầu hết các nước đang phát triển đều có nhu cầu đầu tư lớn trong khi nguồn
15


vốn đầu tư và các nhà tài trợ có hạn vì vậy mỗi nước đều phải tranh thủ tối

đa nguồn tài trợ nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng kéo vốn
đầu tư nước ngoài về nước mình.
3.Khác với đầu tư trực tiếp nước ngoài - nhà đầu tư trực tiếp quản lý
vốn của mình, tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng nguồn vốn đó. Nguồn
vốn ODA nhà đầu tư không trực tiếp quản lý và sử dụng nên việc sử dụng
thường không hiệu quả. Mặt khác việc sử dụng nguồn vốn ODA lại gắn với
nghĩa vụ trả nợ nên yêu cầu đặt ra đối với nước tiếp nhận là phải sử dụng
thật hiệu quả, tránh tình trạng nợ nần, mất tư cách thành viên như Việt Nam
trong những năm trước 2000.
4.ODA là nguồn bổ sung vốn đầu tư quan trọng cho sự nghiệp phát
triển đất nước, xoá đói giảm nghèo.
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu với thu nhập quốc dân đầu
người thấp, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn hạn chế, để dạt được các mục
tiêu đề ra về phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn của nước ta rất lớn, đặc
biệt là các nguồn vốn từ bên ngoài trong đó có nguồn vốn ODA. Từ văn
kiện Đại hội đảng 8 đã chỉ rõ “Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển
chính thức đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, năng cao trình độ khoa học công
nghệ và quản lý, đồng thời giành mọi nguồn vốn tín dụng đầu tư cho các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng. Ưu tiên dành viện
trợ không hoàn lại cho các vùng chậm phát triển, các dự án vốn vay phải có
phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được
gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA
có hiệu quả và có kiểm tra, quản lý chặt chẽ chống lãng phí tiêu cực…”
Với một lượng vốn nhất định phải vừa đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra,

16


vừa trả được nợ đòi hỏi chúng ta phải sử dụng một cách có hiệu quả, tránh

lãng phí
5.Tăng cường vị thế của nước sử dụng có hiệu quả ODA trên
trường quốc tế.
Việc sử dụng có hiệu quả vốn ODA ở mỗi một quốc giacó ảnh hưởng
rất lớn đến vị thế của nước đó trên thế giới. Bất cứ một quốc gia, một nhà
tài trợ nào trước khi viện trợ cho một quốc gia khác khác họ đều phải xem
xét đến khả năng trả nợ của nước nhận viện trợ cũng như việc sử dụng có
hiệu quả vốn ODA. Các nhà đầu tư sẽ sẵn sàng và đầu tư nhiều vào những
nước sử dụng có hiệu quả vốn ODA (về cả khía cạnh kinh tế và chính trị).
Hay nói cách khác những nước sử dụng có hiệu quả sẽ có uy tín lớn trên
thế giới, có thể nói đó là nơi mà các nhà đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp)
sẵn sàng làm bạn.
III. KINH NGHIỆM VỀ SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ VỐN ODA
CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1.Lịch sử hình thành và phát triển ODA trên thế giới.
Trên thế giới, ODA đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ trước đây, bắt đầu
bằng kế hoạch Mác San của Mỹ cung cấp viện trợ cho các nước Tây Âu
sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tiếp đó Hội nghị Cô-lôm-bô (năm
1955) hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát
triển. Sau khi thành lập Tổ chức OECD vào năm 1961 và DAC, các nhà tài
trợ đã tập hợp lại thành cộng đồng nhằm phối hợp các hoạt động chung về
hỗ trợ hợp tác phát triển. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây, trên thế giới tồn tại 3 nguồn ODA chủ yếu:
- Liên Xô cũ và các nước Đông Âu.

17


- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi chính phủ.
2. Kinh nghiệm của một số nước sử dụng ODA trên thế giới.

Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới đã chứng minh rất rõ
rằng: Vốn đầu tư và hiệu quả vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan
trọng nhất tác động đến sự phát triển nói chung và tăng trưởng kinh tế nói
riêng của mỗi quốc gia... Vốn đầu tư bao gồm: vốn trong nước, vốn thu hút
từ nước ngoài (ODA và FDI), các khoản tín dụng nhập khẩu. Đối với
những nước nghèo, thu nhập thấp, khả năng tích luỹ nguồn vốn từ trong
nước rất hạn chế thì nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
Nguồn vốn ODA là một nguồn vốn mang tính ưu đãi cao, mang tính
chất trợ giúp giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển do vậy
nó là một nhân tố quan trọng tạo nên các cơ hội cho sự phát triển của các
quốc gia nghèo có thu nhập thấp.
Mặc dù mỗi nước nhận viện trợ có những đặc thù riêng việc sử dụng
viện trợ có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào định hướng phát triển
kinh tế - xã hội, thể chế chính trị của nước nhận viện trợ. Tuy nhiên, mục
tiêu chung nhất của ODA vẫn là thúc đẩy phát triển và giảm nghèo đói, nếu
vốn ODA là yếu tố khách quan bên ngoài thì những điều kiện bên trong
như cơ chế chính sách, thể chế chính trị, đội ngũ cán bộ... mang tính quyết
định tới sự thành công hay thất bại tiến trình phát triển của nước nhận việt
trợ.
Việc sử dụng nguồn vốn ODA của các nước nghèo trên thế giới
không phải lúc nào và ở đâu cũng thành công. Có những trường hợp cùng
một lượng tài trợ ở hai nước khác nhau lại đem lại kết quả hoàn toàn trái
ngược nhau. Theo các chuyên gia nghiên cứu về ODA, hiệu quả sử dụng

18


ODA liên quan chặt chẽ đến cơ chế quản lý tốt. Cơ chế quản lý tốt bao gồm
các thể chế và chính sách dẫn đến sự phát triển nhanh và giảm được nghèo
đói ở một nước nào đó. Các nước đang phát triển rút ra được một chính

sách tốt và không tốt từ chính kinh nghiệm của bản thân họ và do học hỏi
lẫn nhau.
Việt Nam là một nước đang phát triển nhận được nhiều nguồn vốn
ODA thế giới trong những năm gần đây. Việc quản lý ODA có hiệu qủa là
một yêu cầu tất yếu. Chúng ta có thể rút ra được kinh nghiệm từ bản thân
và một phần kinh nghiệm quản lý ODA của các nước khác.
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụng ODA của một số nước,
ta thấy nổi lên các vấn đề sau:
a. Xác định chiến lược sử dụng ODA
Xác định chiến lược sử dụng ODA là yêu cầu đầu tiên của công tác
quản lý ODA. Việc xác định chiến lược sử dụng ODA sẽ làm cho sử dụng
ODA đúng mục đích và không dẫn đến gánh nặng nợ nần cho các nước
nhận tài trợ. Nhưng có một số nước lại không quan tâm đến vấn đề này, khi
nguồn viện trợ ngày càng tăng thì việc sử dụng lãng phí, đầu tư tràn lan
cũng có xu hướng ngày càng cao, nhất là giai đoạn đầu của vốn vay, khi
nghĩa vụ trả nợ gốc còn ẩn giấu sau thời gian ân hạn. Họ đã không cân nhắc
đến nhu cầu thực tế, đến khả năng hấp thụ ODA, khả năng trả nợ của đất
nước, xây dựng những dự án thiếu căn cứ khoa học và luận chứng kỹ thuật
chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng phiêu lưu trong sử dụng vốn. ở Châu Mỹ
la tinh, điển hình là Braxin, bằng vốn vay nước ngoài, nước này đồng thời
tiến hành một chương trình xây dựng kinh tế cực kỳ to lớn bao gồm một
loạt dự án: Xây dựng tuyến đường sắt từ Miras Gnerais tới Sao Paolo kéo
19


dài hơn 3 năm; Xây dựng nhiều nhà máy thủy điện mà chỉ riêng một nhà
máy đã ngốn số vốn gấp 10 lần số vốn đầu tư vào chương trình thủy lợi ở
toàn vùng Đông Bắc; Xây dựng chín nhà máy điện hạt nhân; Xây dựng tổ
hợp nông - công nghiệp gang thép vùng Đông Bắc với số vốn khổng lồ là
620 triệu USD. Kết quả là Braxin đã trở thành con nợ lớn nhất thế giới: 108

tỷ USD năm 1986 và là một trong hai nước đầu tiên tuyên bố vỡ nợ vào
tháng 8 năm 1992.
ở Châu Phi, nguồn viện trợ đã tập trung quá lớn vào xây dựng nhiều
công xưởng, biệt thự lớn, đầu tư chủ yếu vào phát triển đô thị, không quan
tâm đến phát triển nông nghiệp, đầu tư không cân đối chú trọng nhiều đến
khu vực làm ăn thu lỗ, cần sự bao cấp của nhà nước, đã dẫn đến sử dụng
vốn kém hiệu quả, gây tổn thất lớn cho nền kinh tế quốc dân. Kết quả là
mặc dù nguồn vốn ODA đổ vào những nước Châu Phi những năm 80 lên
tới 35 - 40% tổng ODA thế giới với mức ưu đãi cao, tỷ lệ cho không 60 80% những tổ độ tăng trưởng trong những năm này liên tục giảm.
Bên cạnh những nước thất bại, có những nước sử dụng ODA lại rất
thành công như Boswana, Chi Lê, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan... ở
những nước này có sự nhất trí trong Chính phủ về mục tiêu quốc gia, chính
sách và danh mục ưu tiên chi tiêu được xác định rõ ràng. Các nước này
thường cân nhắc kỹ lưỡng chiến lược viện trợ tập trung vào các vấn đề tầm
cỡ, mức độ viện trợ; yêu cầu loại nguồn viện trợ nước ngoài nào; những chỉ
số và điều kiện được cho là có thể chấp nhận được; mục tiêu của nước cấp
viện trợ; các thủ tục và các bộ phận đảm nhiệm quá trình viện trợ.
Những bài học trên cho thấy điều quan trọng trước hết đối với một
nước tiếp nhận ODA là cần xác định rõ chiến lược sử dụng ODA vừa phù
hợp với tôn chỉ mục tiêu của nước cấp viện trợ, vừa phù hợp với kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội nhằm phát huy thế mạnh, tiềm năng vốn có của đất
20


nước ở từng giai đoạn phát triển. Một chiến lược ODA đúng đắn phải bao
gồm các yêu tố sau:
(i) Nắm được nguyên tắc, bản chất và điều kiện cấp viện trợ của các
tổ chức cung cấp viện trợ.
Mục tiêu chung nhất của ODA là hỗ trợ cho mục tiêu phát triển và
xoá đói giảm nghèo, nhưng ở mỗi nước, mỗi tổ chức tài trợ đều có quy

định, thể chế, điều kiện và các lĩnh vực quan tâm riêng. Hiểu rõ từng tổ
chức cung cấp viện trợ, chính sách viện trợ của họ sẽ giúp các nước nhận
viện trợ có khả năng đưa ra các đề nghị cung cấp viện trợ thích hợp. Hơn
nữa việc hiểu rõ luật lệ của từng nước sẽ tránh được các sai lầm có thể xảy
ra. Chẳng hạn có nước nhận viện trợ do không nắm được quy định của bên
cung cấp viện trợ đã bỏ qua nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh và đã mua thiết
bị với giá cao hơn rất nhiều, thậm chí cao hơn tới 50%, biến khoản vay ưu
đã thành khoản vay có lãi suất cao hơn lãi suất vay thương mại.
(ii). Xác định lĩnh vực ưu tiên
Thông thường căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn
và ngắn hạn mà mỗi nước xác định lĩnh vực đầu tư cụ thể. Xét về tính chất
nguồn vốn, ODA được chia làm hai loại: không hoàn lại và có hoàn lại.
Cho nên việc xác định các lĩnh vực ưu tiên đầu tư ưu bằng nguồn vốn ODA
là rất quan trọng.
Tại Đài Loan, từ việc xác định nông nghiệp là lĩnh vực ưu tiên hàng
đầu nên thời kỳ 1951 - 1953, trong tổng số vốn 267 triệu USD viện trợ
nước này đã chi hơn 50% cho lĩnh vực phát triển nông nghiệp, tiếp theo là
các lĩnh vực khác như kỹ thuật, công nghiệp, hạ tầng thủy lợi, giao thông...
(iii). Quy định mức vay và trả nợ hàng năm
Phần vốn ODA hoàn lại thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ODA,
thông thường khi tổng mức ODA càng cao thì tỷ trọng vốn này càng ngày
càng cao. Một trong những biện pháp giúp Thái lan không bị sa lầy vào
vòng nợ nần là xác định "trần vay", trả hàng năm. Một khoản vay không
21


được tính là nguồn thu ngân sách nhưng các khoản trả nợ được nhà nước
cân đối trong ngân sách quốc gia hàng năm. Chính phủ Thái Lan, quy định
mức vay nợ không được vượt quá 10% kế hoạch thu ngân sách, mức trả nợ
bằng 9% kim ngạch xuất nhập khẩu hoặc 20% chi ngân sách hàng năm. Sự

khống chế này nhằm cân đối khả năng vay, trả nợ, mức xuất khẩu của đất
nước, tránh vay mượn tràn lan. Nhiều dự án phù hợp với yêu cầu phát triển
của đất nước, có nguồn vay nhưng vượt quá giới hạn cho phép đều bị gác
lại. Là một nước có mức vay nợ nước ngoài cao (từ năm 1980 - 1986 mức
vay nợ mỗi năm bình quân khoảng 1,75% tỷ USD) nhưng Thái Lan luôn
trả nợ đúng hạn (trung bình mỗi năm trên 1 tỷ USD).
(iv). Chuẩn bị tốt các dự án xin viện trợ
Việc chuẩn bị tốt các dự án góp phần không nhỏ vào hiệu qủa sử
dụng vốn viện trợ. Malaysia, Inđônêsia xuất bản "Quyển sách xanh" trong
đó ghi rõ các dự án ưu tiên đề nghị vốn đầu tư từ ODA và các nguồn vốn
khác cho tài khoá năm sau. Quyển sách xanh được gửi đến các tổ chức
quốc tế, các nước cung cấp viện trợ. Đồng thời các cơ quan của Chính phủ
có liên quan phải chuẩn bị tốt các tài liệu và sự bình luận cần thiết để kịp
thời cung cấp cho các tổ chức cung cấp viện trợ về từng dự án cụ thể
b. Vai trò quản lý của nhà nước
Cho dù là các mục tiêu trung gian là gì thì mục tiêu cuối cùng của
viện trợ vẫn là thúc đẩy tăng cường và giảm đói nghèo. Trong một thế giới
lý tưởng, viện trợ 1 triệu đô la cho một nước sẽ có tác dụng đối với quá
trình tăng trưởng và giảm đói nghèo giống như kết quả viện trợ cùng một
số tiền cho một quốc gia khác. Thực tế điều này không xảy ra. Một số nước
thu được kết quả cao hơn so với một số nước khác. Tại sao lại như vậy? Đó
là do hiệu quả của viện trợ phụ thuộc vào chính sách và thể thế của các
nước nhận viện trợ. Với những nước quản lý kinh tế tốt, viện trợ sẽ làm
tăng đầu tư tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng, đẩy nhanh quá trình giảm đói
nghèo. Như vây là có một mối quan hệ rất chặt chẽ giữa trình độ quản lý
22


của nhà nước với tác động của viện trợ. Nhận thức được vấn đề này, một số
nước nhận viện trợ đã trước hết quan tâm đến nâng cao và hoàn thiện công

tác quản lý nhà nước đối với viện trợ nhằm sử dụng viện trợ có hiệu qủa.
Những vấn đề đã được đa số các nước quan tâm là tổ chức bộ máy, quy
định các nguyên tắc trong việc sử dụng ODA và kiểm tra chặt chẽ việc chi
tiêu.
Những vấn đề sau cũng được coi là những biện pháp cần thiết đảm
bảo hiệu quả thực tế của ODA.
- Sự đánh giá tổng hợp về các nguồn vốn và triển vọng sử dụng
nhằm đạt được càng nhiều tỷ trọng không hoàn lại trong tổng mức ODA,
đồng thời cân đối tất cả các khoản vay để có khoản vay với các điều kiện
ưu đãi, ít bị ràng buộc nhất.
- Tính toán, chuyển đổi linh hoạt cơ cấu ngoại tệ vay nợ, cơ cấu
ngoại tệ dự trữ để có thể giảm tối đa các tác động xấu của biến động tỷ giá
tiền tệ.
Nghiên cứu tác động của mỗi món nợ đến cơ cấu thanh toán nợ của
đất nước trong mức cân bằng ngân sách để tính khả năng tiếp tục vay mới.
Những vấn đề nêu trên chỉ là một vài khía cạnh chưa đầy đủ là sự
tổng hợp giản đơn những kinh nghiệm từ thực tế của các nước đã và đang
sử dụng ODA.
Việc xem xét, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài không phải là sao
chép nguyên xi nhưng cũng cần được coi là một vấn đề mang tính cấp bách
trong giai đoạn hiện nay đối với Việt Nam, khi nguồn vốn ODA đang có xu
hướng ngày càng tăng. Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi
nên việc sử dụng vốn nước ngoài có hiệu quả trong một nền kinh tế thị
trường là một vấn đề hoàn toàn mới mẻ. Học tập những kinh nghiệm của
các nước sẽ giúp Việt Nam sớm đi đến thành công.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

23



Kinh nghiệm trên thế giơí cũng như thực tể quản lý nguồn tài chính
nước ngoài của nước ta trong những năm qua đã cho Việt Nam nhiều bài
học kinh nghiệm.
Một là, ODA gắn liền với các điều kiện chính trị, ngoại trừ một số
khoản có tính chất cứu trợ khẩn cấp, viện trợ của nước ngoài nhìn chung có
thể được coi là “đầu ra" của một chính sách đối ngoại và việc thực hiện
những mục tiêu của chính sách đối ngoại.
Tuy nhiên bằng nhiều chính sách đối ngoại khôn khéo các nước tiếp
nhận viện trợ vẫn có thể đa phương hoá quan hệ hỗ trợ phát triển của mình,
sử dụng có hiệu quả các nguồn ODA phục vụ các mục tiêu phát triển trong
khi vẫn giữa được độc lập tự chủ của đất nước.
Hai là, phải coi trọng hiệu quả sử dụng ODA hơn là số lượng ODA
được sử dụng. Tổng lợi ích kinh tế - xã hội do vốn ODA mang lại là tích số
của lợi ích do mỗi đơn vị vốn ODA và tổng số ODA. Với lượng ODA
không đổi, tổng lợi ích sẽ cao hơn nếu dự án được thực hiện có hiệu quả
hơn. Coi trọng hiệu quả hơn số lượng còn tránh cho nền kinh tế nguy cơ
chịu đựng gánh nặng nợ nần nước ngoài.
Ba là, vốn ODA là quan trọng nhưng vốn trong nước là quyết định.
Đối với các nước đang phát triển vốn ODA là cực kỳ quan trọng nhưng vốn
ODA chỉ là chất xúc tác cho các nước đang phát triển khai thác tiềm năng
bên trong để phát triển. Vốn ODA không thể thay thế cho nguồn vốn trong
nước vì:
- Vốn ODA chỉ được sử dụng trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội, tức là chỉ gián tiếp tác động đến phát triển sức mạnh của một quốc gia.
Điều này là tôn chỉ, là mục đích của các nhà tài trợ.
- Vốn ODA dù có sẵn cũng chỉ được thực hiện theo khả năng hấp thụ
của nền kinh tế trong nước, có nghĩa là nó phụ thuộc vào tích luỹ nội bộ
của nền kinh tế.

24



- Vốn ODA gắn với các khoản nợ nước ngoài của nền kinh tế, do vậy
khi tính toán nhu cầu vay ODA cần phải tính đến khả năng trả nợ của nền
kinh tế.

25


×