Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đề án tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.51 KB, 46 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN TẠI TỈNH LONG AN

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Tp. HCM, tháng 4 năm 2015


2

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC III

ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN TẠI TỈNH LONG AN

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG TRÌNH CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:

Tp. HCM, tháng 4 năm 2015


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề án
2.1. Mục đích
2.2. Nhiệm vụ của đề án
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6. Kết cấu của Đề án
Phần thứ nhất: CƠ SỞ KHOA HỌC, CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ THỰC
TIỄN VỀ ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CƠ SỞ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ NƯỚC TA
HIỆN NAY
1.1.1. Hệ thống chính trị
1.1.1.1. Khái niệm
1.1.1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
1.1.1.3. Các nguyên tắc vận hành
1.1.1.4. Những yêu cầu, nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị nước ta:
1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm
1.1.2.2. Những đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
1.1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ
1.2.1. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng liên quan đến hệ
thống chính trị cơ sở
1.2.2. Các nghị quyết, luật, pháp lệnh của Quốc hội và nghị định, chỉ thị, quyết
định của Thủ tướng Chính phủ

1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Thực tiễn về hệ thống chính trị nước ta hiện nay
1.3.2. Thực trạng chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn của
tỉnh Thừa Thiên Huế
1.3.2.1. Tổng quan về tỉnh Thừa Thiên Huế
1.3.2.2. Tình hình và kết quả thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn của tỉnh Thừa Thiên Huế

Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
3
3
3

4
4
4
4
4
5
5
6
6

7
7
9
9
9
10
10
13
13
13


4

1.3.2.3. Đánh giá chung
1.3.2.4. Những kinh nghiệm rút ra trong đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường của tỉnh Thừa Thiên Huế
Phần thứ hai: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ
TRẤN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. QUAN ĐIỂM
2.2. MỤC TIÊU
2.2.1. Mục tiêu chung
2.2.2.2. Về nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
2.3. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ
TRẤN TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
Phần thứ ba: TỔ CHỨC THỰC HIỆN
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. KẾT LUẬN
2. KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

23
27

29
29
30
30
30
31

32
36
37
37
38


5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCH TW

:

Ban Chấp hành Trung ương


HĐND

:

Hội đồng nhân dân

HTCT

:

Hệ thống chính trị

HTSXNV

:

Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

HTTNV

:

Hoàn thành tốt nhiệm vụ

HTNV

:

Hoàn thành nhiệm vụ


MTTQVN :

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

TCCSĐ

:

Tổ chức cơ sở đảng

TW

:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Qua gần 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và
quan trọng về kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang
đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển ở tầm cao hơn trước.
Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị từ Trung
ương tới cơ sở phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và chỉnh đốn tổ
chức, nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư.
Tại tỉnh Long An, trong thời gian qua, hệ thống chính trị ở phần lớn cơ
sở đã tích cực thực hiện nhiệm vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng với nhân
dân tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và thành thị của tỉnh.
Tuy nhiên, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém,
bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần
chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm
quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở
nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ;
nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi
dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Những yếu kém đó có phần trách nhiệm của bản thân hệ thống chính trị
ở cơ sở, có phần thuộc trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Một
nguyên nhân quan trọng là từ Trung ương đến các cấp, các ngành chưa nhận
thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở; quan liêu, không sát cơ sở, sát nhân dân,

không kịp thời bàn định các chủ trương, chính sách để củng cố, tăng cường


7

các tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở. Vì vậy, việc nghiên cứu đề án “Đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn tại
tỉnh Long An” là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn quan trọng vừa cơ bản
lâu dài, vừa cấp bách hiện nay. Đó là lý do tôi chọn đề tài này làm đề án tốt
nghiệp.
2. Mục đích, nhiệm vụ của đề án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những thành tựu, hạn chế của hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đề án đưa ra phương
hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Long An hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn; đồng thời, làm rõ vai trò hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn trong hệ thống chính trị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn của Long An;
- Xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn của Long An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức cơ sở đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn; Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn và các tổ chức chính trị - xã hội
khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn và các cơ quan liên quan; Cán

bộ, công chức, viên chức làm việc trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn của tinh Long An.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: tỉnh Long An.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng từ năm 2010 – 2014 và đề
xuất giải pháp có tầm nhìn đến năm 2020


8

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề án được xây dựng dựa trên hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về hệ
thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề án nghiên cứu từ góc nhìn chính trị học,
sử dụng phương pháp biện chứng duy vật Macxit làm nền tảng. Trên cơ sở đó,
đề án sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích với tổng hợp,
so sánh, và một số phương pháp đặc thù khác.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Về thực tiễn: Trên cơ sở các luận cứ khoa học và khảo sát thực tiễn để
xác định rõ những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn tỉnh Long An hiện nay. Đồng thời, góp tiếng nói vào
việc hoàn thiện hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn tỉnh Long An
hiện nay.
6. Kết cấu của Đề án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Đề án
gồm các phần nội dung như sau:

Phần thứ nhất: Cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn về đổi
mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Phần thứ hai: Một số giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn tại tỉnh Long An trong thời gian
tới
Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện.


9

Phần thứ nhất:
CƠ SỞ KHOA HỌC, CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ
SỞ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ NƯỚC TA
HIỆN NAY

1.1.1. Hệ thống chính trị
1.1.1.1. Khái niệm
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ
thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá
trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời
phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân
chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công
cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác của nhân
dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân.
1.1.1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:


10

Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận
dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò
lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước
ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống
nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu
rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có
khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của
Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.

Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ
bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành
động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi
tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp
công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với
hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân
lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.3. Các nguyên tắc vận hành
- Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân


11

- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất có phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính
quyền địa phương, cơ sở...
- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
1.1.1.4. Những yêu cầu, nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị nước ta:
* Yêu cầu đặt ra cho việc đổi mới hệ thống chính trị:

- Đổi mới HTCT nhằm đáp ứng yêu cầu của những biến đổi trong đời
sống kinh tế - xã hội;
- Đổi mới HTCT phải đáp ứng sự phát triển Khoa học công nghệ; bám
sát những Xu hướng chính trị đương đại.
* Những nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta:
- Đổi mới hệ thống chính trị tức là đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động; cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị hợp pháp trong hệ
thống chính trị; chứ không được thay đổi mục tiêu và con đường XHCN,
không chấp nhận “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, gây rối lọan xã hội.
- Đổi mới là nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
- Đổi mới theo định hướng xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
- Đổi mới nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Đổi mới nhằm ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm
Hệ thống chính trị cơ sở là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của
nhân dân ở cơ sở.


12

1.1.2.2. Những đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
Là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, do vậy hệ thông chính trị cơ sở cũng mang những đặc điểm chung của
toàn bộ hệ thống đó là:
- Được tổ chức chặt chẽ, có sự phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm

quyền của mỗi tổ chức và cơ chế hoạt động của từng tổ chức cũng như của cả
hệ thống.
- Các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị có cùng chung mục tiêu cao
nhất là bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.
- Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất thực hiện chức năng lãnh đạo đối
với toàn bộ hệ thống.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, hệ thống chính trị cơ sở còn có
những đặc điểm riêng xét trên hai khía cạnh: khía cạnh địa vị pháp lý và thực
tế. Đó là những đặc điểm sau:
- Là cấp gần với cộng đồng dân cư - là nơi tuyệt bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống - do vậy tổ chức và hoạt động mang tính tự quản cao.
- Thẩm quyền pháp lý xét trong toàn bộ hệ thống là cấp tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với dân: Có vai
trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của công đồng dân cư.
- Cấp có bộ máy đơn giản nhất, có đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít tính
chuyên nghiệp, trực tiếp chịu sự chi phối của nhân dân.
- Là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hoá làng xã có thể tác động mạnh
nhất.
- Là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng,
những mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống.
1.1.2.3. Vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị cơ sở với các thành tố tạo nên chính mình là tổ chức
cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là nền tảng chính trị
vững chắc ở cơ sở. Điều này được lý giải bởi chính tác dụng và chức năng


13


trong hoạt động của cả hệ thống cũng như của từng tổ chức trong hệ thống đối
với các giai đoạn phát triển, trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh
tế - xã hội đất nước.
- Trước thời kỳ đổi mới, vai trò, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở
cũng như của toàn bộ hệ thống là tiếp tục duy trì, phát huy khối đại đoàn kết
dân tộc trong công cuộc hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng,
phát triển kinh tế trong điều kiện quản lý tập trung, kế hoạch hoá cao độ. Hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở trong thời kỳ này chịu ảnh hưởng nặng nề
của cơ chế chung đó nên kém hiệu quả, có nhiều bất cập trong tổ chức và hoạt
động, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đúng như Đảng ta đã thừa
nhận tại Đại hội lần thứ VI của Đảng.
- Từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng cho đến nay
cùng với những thành tựu to lớn mà chúng ta đã giành được, tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở nhìn chung đã có những thay đổi theo
hướng tích cực. Lý luận và thực tế ở cơ sở xã, thị trấn, phường cho thấy nơi
nào các thành tố cấu thành hệ thống chính trị cơ sở mạnh, cán bộ tốt, ở đó
phong trào phát triển toàn diện, kinh tế xã hội ngày một tăng trưởng, đời sống
của nhân dân từng bước được nâng cao. Ngược lại ở đâu hệ thống chính trị cơ
sở suy yếu, cán bộ yếu kém về trình độ năng lực, sa sút về phẩm chất đạo đức,
quần chúng nhân dân không có quyền làm chủ, bị khống chế thì ở đấy có tai
họa hoặc ít nhất cũng ẩn chứa mầm mống của tai họa. Nói về nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế hiện nay trong hệ thống chính trị cơ sở, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã chỉ rõ “Có
phần trách nhiệm của bản thân hệ thống chính trị ở cơ sở, có phần thuộc trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Một nguyên nhân quan trọng là từ
Trung ương đến các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ
sở; quan liêu không sát cơ sở, sát nhân dân, không kịp thời bàn định các chủ
trương, chính sách để củng cố, tăng cường các tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ
sở”.

Qua phân tích cho thấy lúc nào và chừng nào hệ thống chính trị cơ sở
vững mạnh thì không những nó là nền tảng chính trị vững chắc ở cơ sở mà
còn là nền móng căn bản của cả hệ thống chính trị Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ


14

1.2.1. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng liên quan
đến hệ thống chính trị cơ sở
- Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ Chính trị về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;
- Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18 tháng 3 năm 2002, của BCHTW
(khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn;
- Nghị quyết số 15-NQ/TW (khóa X) ngày 30 tháng 7 năm 2007 của
BCHTW (khóa X) tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của hệ thống chính trị;
- Kết luận số 64-KL/TW, ngày 28 tháng 05 năm 2013, của Ban Chấp
hành Trung ương Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống
chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
1.2.2. Các nghị quyết, luật, pháp lệnh của Quốc hội và nghị định, chỉ
thị, quyết định của Thủ tướng Chính phủ
- Luật số 11/2003/QH11, ngày 26 tháng 11 năm 2003, của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Quốc hội) về tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân;
- Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, ngày 20 tháng 04 năm 2007 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn
- Nghị quyết số 26/2008/NQ-QH12, ngày 15 tháng 11 tháng 2008 của

Quốc hội về thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện,
quận, phường;
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông
qua ngày 28 tháng 11 năm 2013);
- Nghị quyết số 26/2008/NQ-QH12, ngày 15 tháng 11 tháng 2008 của
Quốc hội về việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường;
- Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12, ngày 16 tháng 01 năm 2009 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XII) về danh sách huyện, quận, phường


15

của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ
chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường;
- Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12, ngày 16 tháng 01 năm 2009 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XII) về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy của UBND huyện, quận, phường nơi không tổ chức
HĐND huyện, quận, phường.
- Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 của Chính phủ về việc
ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
- Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg, ngày 15/5/1998, của Thủ tướng Chính phủ
về việc triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
- Chỉ thị số số 24/1998/CT-TTg, ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, bản, thôn,
ấp, cụm dân cư;
- Quyết định số 85/2002/QĐ-TTg, ngày 28 tháng 6 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18
tháng 3 năm 2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khoá IX) về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn".
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.3.1. Thực tiễn hệ thống chính trị nước ta hiện nay
Trong thời gian qua, hệ thống chính trị ở phần lớn cơ sở đã tích cực thực
hiện nhiệm vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng với nhân dân tạo nên những
thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, làm thay đổi rõ rệt bộ
mặt nông thôn và thành thị [2]. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị
được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất
nước [3].


16

Tuy nhiên, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém,
bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần
chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm
quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở
nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận
trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ;
nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi
dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Những yếu kém đó có phần trách nhiệm của bản thân hệ thống chính trị
ở cơ sở, có phần thuộc trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Một

nguyên nhân quan trọng là từ Trung ương đến các cấp, các ngành chưa nhận
thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở; quan liêu, không sát cơ sở, sát nhân dân,
không kịp thời bàn định các chủ trương, chính sách để củng cố, tăng cường
các tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở [2]. Số lượng cán bộ, công chức, nhất là
viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập và cán bộ công chức xã, phường,
thị trấn tăng nhanh. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ [3].
Để đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở cần tập
trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc sau đây:
- Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ
thống chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các
tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy.
- Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ
thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền
dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ
chức và cán bộ ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân
chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
- Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm,
thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, lãng phí;


17

trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
- Bốn là, Về giải pháp đổi mới chính quyền địa phương; Kết luận Hội
nghị lần thứ 7 BCH TW (khóa XI) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn

thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở" cũng đã chỉ rõ: “Sớm hoàn
thành quy hoạch để bảo đảm cơ bản giữ ổn định số lượng đơn vị hành chính
cấp tỉnh, huyện, xã. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cấp
huyện theo hướng quy định khung các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy
định khung của Chính phủ, địa phương có thể lập (hoặc không lập) cơ quan,
tổ chức đặc thù sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền. Rà soát, điều
chỉnh, khắc phục những chồng chéo, không rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, giữa Ủy
ban nhân dân cấp huyện với các sở, ngành cấp tỉnh. Nghiên cứu về tổ chức
chínhquyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính
quyền nông thôn), giao Bộ Chính trị chỉ đạo thực hiện thí điểm mô hình chính
quyền đô thị. Hướng dẫn tổ chức đảng và chính quyền phù hợp với các địa
phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo...Sớm tổng kết việc thực
hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường để có
chủ trương thực hiện trong thời gian tới. Thực hiện mô hình bí thư cấp ủy
đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; bí thư cấp ủy đồng thời
là Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối với những nơi có đủ
điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt
không phải là người địa phương. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phù hợp với tình hình thực
tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Quy định dưới xã, phường, thị trấn là thôn, tổ
dân phố và tương đương (có quy mô phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn,
miền núi), chủ yếu hoạt động theo hình thức tự quản của cộng đồng dân cư,
hạn chế tối đa việc sử dụng kinh phí từ ngân sách. Thực hiện khoán kinh phí
hoạt động cho các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã, thôn, tổ dân phố và
tương đương bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương” [3].
1.3.2. Thực trạng chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn của tỉnh Long An



18

1.3.2.1. Tổng quan về tỉnh Long An
Long An là một trong 5 tỉnh thuộc vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung,
có toạ độ địa lý 16 - 16,80 vĩ độ bắc và 107,8 - 108,20 kinh độ đông. Địa hình
của tỉnh Long An đa dạng bao gồm rừng núi, gò đồi đồng bằng duyên hải và
đầm phá. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp thành phố Đà Nẵng
tỉnh Quảng Nam, phía Tây giáp nước CHDCND Lào, phía Đông được giới
hạn bởi Biển Đông. Diện tích tự nhiên 5.033,2 km2, dân số năm 2013 là
1.123.800 người, chiếm 1,52% về diện tích và 1,25% về dân số so với cả
nước. Về tổ chức hành chính, tỉnh Long An có 6 huyện, 02 thị xã và thành phố
Huế, trong đó có 2 huyện miền núi Nam Đông và A Lưới; gồm 152 xã, phường,
thị trấn.
Đảng bộ Long An có 17 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy (9 đảng bộ huyện,
thị xã, thành phố; 7 đảng bộ cấp trên cơ sở và 01 đảng bộ cơ sở trực thuộc).
Toàn tỉnh có 687 tổ chức cơ sở đảng (339 đảng bộ, 348 chi bộ); 16 đảng bộ bộ
phận và 3.499 chi bộ trực thuộc với 45.302 đảng viên. Trong đó, có 152 tổ
chức cơ sở đảng cấp xã với 26.350 đảng viên.
Về kinh tế xã hội: kinh tế xã hội tỉnh Long An trong những năm qua đã
có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về chất và lượng trên tất cả các lĩnh vực. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế liên tục đạt mức khá (bình quân 9,1%/năm), cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng (cơ cấu kinh tế năm 2014: dịch vụ: 55,7%;
công nghiệp – xây dựng: 34,7; nông, lâm, ngư nghiệp: 9,6%). Tốc độ tăng
trưởng kinh tế của tỉnh năm 2014 đạt 8,3%, GDP bình quân đầu người 1.750
USD, kim ngạch xuất khẩu năm 2014 đạt 660 triệu USD. Lĩnh vực văn hóa –
xã hội có nhiều tiến bộ; về y tế, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
cấy tim nhân tạo lần đầu tiên ở Việt Nam, ứng dụng tế bào gốc tạo máu để
điều trị ung thư vú, ung thư buồng trứng, mở ra triển vọng mới trong việc áp
dụng cho nhiều bệnh nhân ung thư vú và ung thư buồng trứng giai đoạn cuối.

An sinh xã hội, đời sống của nhân dân ổn định. An ninh, trật tự, an toàn xã hội
được giữ vững.
1.3.2.2. Tình hình và kết quả thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng

hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn của tỉnh Long An
Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần
thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về việc đổi mới và nâng


19

cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Tỉnh ủy Long
An đã ban hành chương trình hành động số 18-NQ/TU, ngày 23/5/2003. Các
cấp ủy từ tỉnh đến cơ sở đã xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể
ở cấp mình nhằm triển khai, hướng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện Chương trình
hành động có hiệu quả. Sau hơn 10 năm thực hiện Chương trình hành động số
18-NQ/TU thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về “Đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, chất
lượng hoạt động hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã có nhiều
chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn.
a. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở
Các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) xã, phường, thị trấn đã thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo Quy định 94 và 95-QĐ/TW, ngày 03/3/2004 của
Ban Bí thư; giữ vững vai trò hạt nhân chính trị và sự lãnh đạo toàn diện ở cơ
sở; nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Các
cấp ủy đảng đã tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu giống
cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn, phát triển nhanh giao thông nông thôn và chương trình kiên cố hoá

kênh mương; dồn điền đổi thửa..., đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được nâng lên, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội được giữ vững, hệ thống chính trị được củng cố và kiện toàn, chất lượng
hoạt động của bộ máy chính quyền được nâng cao, chất lượng đội ngũ cán bộ
ngày một nâng lên; công tác xây dựng các chi bộ trực thuộc, đảng bộ xã đạt
trong sạch vững mạnh đạt kết quả đáng kể; uy tín của đồng chí bí thư đảng ủy
đồng thời là chủ tịch UBND xã ngày càng được khẳng định. Sự phối hợp
công tác giữa đảng ủy, HĐND, UBND và UBMTTQVN, các đoàn thể nhịp
nhàng, đồng bộ, hiệu quả hơn, nhất là trong phối hợp chỉ đạo các nhiệm vụ
trọng tâm, chương trình trọng điểm, các vụ việc nảy sinh phức tạp xảy ra trên
địa bàn cơ sở được triển khai giải quyết kịp thời và có hiệu quả.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở đã có nhiều tiến
bộ. Hầu hết các cấp ủy đều xây dựng, bổ sung quy chế làm việc, xây dựng
chương trình công tác toàn khoá, chương trình công tác tháng, quý, năm. Xác


20

định rõ được trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các tổ chức và người
đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, khắc phục tình trạng chồng
chéo, trách nhiệm không rõ ràng, cụ thể. Nhờ vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo
luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý điều hành, nhân dân làm chủ thông qua các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy ngày càng
sâu sát, toàn diện hơn, giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức
xúc trên địa bàn.
Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên được quan tâm thường xuyên, các
cấp ủy cơ sở tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức triển
khai sâu rộng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”; nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm thông qua việc quản lý

và phân công nhiệm vụ và kiểm tra thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên
khá chặt chẽ. Đặc biệt, các TCCSĐ đã nghiêm túc tổ chức kiểm điểm tự phê
bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Qua kiểm điểm, đa số các cấp
ủy, cán bộ đảng viên, nhất là người đứng đầu đã thực sự thấm nhuần tinh thần
tự phê bình và phê bình, tự giác, chân thành và tự khép mình vào kỷ luật, kỷ
cương của Đảng; không những củng cố, tăng cường nhận thức, mà còn tạo ra
nhận thức mới cho công tác lãnh đạo, quản lý, nâng cao trình độ lãnh đạo
công tác xây dựng Đảng; nâng cao được tinh thần đoàn kết và giúp nhau cùng
tiến bộ; đồng thời, đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những tồn tại, yếu
kém, nhất là xác định rõ những vấn đề bức xúc nổi lên để chỉ đạo giải quyết
trước và có kế hoạch, lộ trình, thời gian khắc phục những vấn đề vướng mắc
còn tồn tại.
Nhìn chung, đa số đảng viên tiên phong gương mẫu, hoàn thành và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối
sống trong sáng, lành mạnh, phát huy được tinh thần trách nhiệm, hoàn thành
chức trách nhiệm vụ được giao. Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước được củng cố, tạo được sự đoàn kết
thống nhất trong nội bộ Đảng và sự đồng thuận trong toàn xã hội. Qua đánh
giá chất lượng đảng viên năm 2014, số đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ là 5.140, đạt tỷ lệ 12,29% (giảm 0.07% so với năm 2013); số đảng viên


21

hoàn thành tốt nhiệm vụ là 32.103, đạt tỷ lệ 76,75% (giảm 0,21% so với năm
2013); số đảng viên hoàn thành nhiệm vụ là 4.415, đạt tỷ lệ 10,55% (tăng
0,45% so với năm 2013); số đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ là 172,
chiếm tỷ lệ 0,41% (giảm 0,17% so với năm 2013).
Công tác kết nạp đảng viên mới có những chuyển biến tích cực, cùng với

việc quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, các cấp ủy đảng, tăng
cường chỉ đạo công tác kết nạp đảng viên, chủ động xây dựng kế hoạch tạo
nguồn, phân công đảng viên theo dõi, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào
Đảng, chú trọng các thôn, bản, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng, đảng viên.
Từ đầu năm 2003 đến cuối năm 2014, toàn tỉnh đã kết nạp được hơn 22 nghìn
đảng viên; trong đó xã, phường, thị trấn kết nạp hơn 12,4 nghìn đảng viên,
nâng tổng số đảng viên khối phường, xã, thị trấn toàn tỉnh lên 26.350 đồng
chí. Cơ cấu và chất lượng đảng viên có sự thay đổi tiến bộ, tỷ lệ kết nạp đảng
của từng đối tượng tăng lên theo từng năm, nhất là đảng viên trẻ, nữ, đồng
bào dân tộc thiểu số; trình độ học vấn và trình độ chuyên môn tăng đáng kể.
Nhờ vậy, đã tăng cường sức trẻ cho Đảng và góp phần cơ bản hoàn thành mục
tiêu xoá địa bàn, cơ sở “trắng” đảng viên và địa bàn, cơ sở “trắng” tổ chức
đảng.
Các cuộc kiểm tra, giám sát được tổ chức chủ động theo chương trình, kế
hoạch; số lượng, chất lượng các cuộc kiểm tra, giám sát do cơ sở thực hiện
tăng lên. Do vậy, đã phát hiện và xử lý được nhiều sai phạm từ cơ sở, hạn chế
đơn, thư và người khiếu kiện vượt cấp.
Công tác xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện Nghị quyết của nhiều
cơ sở đã có những đổi mới, thể hiện được tính khoa học, chủ động phù hợp
với chủ trương chung về đòi hỏi thực tiễn địa phương, cơ sở từng bước khắc
phục tình trạng lãnh đạo chung chung, bị động, chạy theo sự vụ. Nhiều nghị
quyết, chương trình, kế hoạch được các cấp ủy cơ sở đề ra thực hiện có hiệu
quả như Nghị quyết về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng giao
thông nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, Nghị quyết về xây dựng tổ chức
Đảng ở những nơi chưa chi bộ đảng, chưa có hoặc có ít đảng viên... tạo bước
chuyển biến rõ nét trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây
dựng Đảng.


22


Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở được quan tâm, chú ý hơn. Đội
ngũ cấp ủy và cán bộ ở cơ sở được tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình
độ kiến thức các mặt được nâng lên. Thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng dài hạn, ngắn hạn về chính trị, quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, công
tác đảng, công tác đoàn thể, ngoại ngữ, tin học cho hàng nghìn lượt cán bộ cơ
sở xã phường, thị trấn tham gia. Từ năm 2003 đến cuối năm 2014, tỉnh Long
An đã mở các lớp để đào tạo cán bộ cho cơ sở: trung cấp chính trị - hành
chính: 2.645 đ/c; các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Đảng, đoàn thể: 2.938 đ/c; bồi
dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở: 539 đ/c; bồi dưỡng chức danh bí thư chi,
đảng bộ xã, phường, thị trấn: 301 và bồi dưỡng khác: 957 đ/c; phối hợp với
Học viện Chính trị, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã mở các lớp
Đại học chính trị với hơn 312 người để tạo nguồn cán bộ cho xã, phường, thị
trấn; phối hợp các trường thành viên thuộc Đại học Huế đào tạo cử nhân Kinh
tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, cử nhân Luật tại 6 huyện và 2 thị xã
của tỉnh cho hơn 1.135 cán bộ cơ sở tham gia...
Công tác quy hoạch cán bộ ở cơ sở đã đi vào ổn định, đảm đúng quy
trình và chất lượng theo hướng “vừa động, vừa mở”. Cấp ủy các cấp đã rà
soát, điều chỉnh bổ sung, quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý trong hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, xây dựng kế hoạch luân chuyển cán bộ.
Đã luân chuyển hơn 50 đồng chí cán bộ, quản lý cấp phòng, ban của thành
phố, thị xã và huyện được cử về giữ các chức vụ chủ chốt của các xã, phường,
thị trấn, được rèn luyện và có bước trưởng thành vượt bậc; làm tăng thêm
năng lực lãnh đạo quản lý của cấp ủy và chính quyền cơ sở. Nhờ làm tốt công
tác quy hoạch cán bộ cho nên đã tạo được sự chủ động trong công tác chuẩn
bị nhân sự phục vụ đại hội đảng, nhất là nhiệm kỳ 2010 - 2015. Cấp ủy cấp xã
có 2.110 đ/c, trong đó: cán bộ nữ 368 đ/c (17,44%), cán bộ dân tộc thiểu số
408 đ/c (19,34%); trình độ học vấn THCS: 257 đ/c (12,18%); THPT: 1.841
đ/c (87,25%); trình độ chuyên môn trung cấp 637 đ/c (30,19%); trình độ cao
đẳng, đại học, thạc sỹ 763 đ/c (34,52%); trình độ lý luận chính trị sơ cấp 645

đ/c (30,57%), trung cấp 1373 đ/c (65,07%), cao cấp, cử nhân 92 đ/c (4,36%).
So với nhiệm kỳ trước, cấp ủy xã tăng 464 đ/c, trong đó cán bộ nữ tăng 113
đ/c, cán bộ từ 35 tuổi trở xuống tăng 378 đ/c, cán bộ dân tộc thiểu số tăng 75


23

đ/c; trình độ học vấn THPT tăng 676 đ/c; trình độ chuyên môn trung cấp trở
lên tăng 337 đ/c; trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên tăng 520 đ/c.
b. Về đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền cơ sở
Hoạt động của chính quyền cơ sở có nhiều tiến bộ cả về hiệu quả công tác
và chất lượng bộ máy. HĐND, UBND các xã, phường, thị trấn đã xác định rõ
hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, chức trách của từng
thành viên trong bộ máy. Nhiều xã, phường, thị trấn đã xây dựng, bổ sung được
quy chế hoạt động, quy chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị;
cải tiến lề lối làm việc, tăng cường trách nhiệm cá nhân, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực hoạt động của chính quyền cơ sở.
HĐND cơ sở xã, phường, thị trấn không ngừng được củng cố, kiện toàn,
cơ cấu đại biểu mỗi nhiệm kỳ được mở rộng, chất lượng đại biểu nhiệm kỳ
sau cao hơn nhiệm kỳ trước. Toàn tỉnh có 3.835 đại biểu hội đồng nhân dân
cấp xã, trong đó: cán bộ nữ 735 đại biểu (19,17%), cán bộ trẻ 1.005 đại biểu
(26,20%), cán bộ dân tộc thiểu số 519 đại biểu (13,53%); trình độ văn hoá
trung học phổ thông có 2.761 đại biểu (71,99%), trình độ chuyên môn: trung
cấp 1.157 đại biểu (30,17%), cao đẳng, đại học 820 đại biểu (21,38%), sau đại
học 03 đại biểu (0,08%); trình độ lý luận chính trị trung cấp 1.440 đại biểu
(37,55%), cao cấp và cử nhân 99 đại biểu (2,58%). Tăng 720 đại biểu, trong
đó cán bộ dân tộc thiểu số tăng 32 đại biểu, cán bộ trẻ tăng 189 đại biểu so
với nhiệm kỳ trước.
Hoạt động của HĐND cấp xã từng bước được đổi mới, thực hiện tốt hơn
về chức năng, nhiệm vụ theo luật định; đã phát huy vai trò là người đại diện

cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Tại các kỳ họp, nội dung, phương
thức được đổi mới, phát huy dân chủ, thẳng thắn thảo luận, thực hiện chất vấn
và trả lời chất vấn, trở thành hình thức giám sát quan trọng, có hiệu quả của
HĐND ở cơ sở. Do đó, các nghị quyết được ban hành có tính khả thi, định
hướng đúng xu thế phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh cũng như
nhu cầu phúc lợi xã hội của nhân dân địa phương. Chức năng giám sát theo
luật của từng đại biểu và thường trực HĐND xã, phường, thị trấn được chú
trọng; qua giám sát, đã kịp thời nhắc nhở các ngành chức năng giải quyết kịp
thời các vấn đề nảy sinh, được cử tri và đông đảo nhân dân quan tâm.


24

Ủy ban nhân dân cấp xã đã xác định được vai trò, vị trí trong hệ thống
quản lý nhà nước. Cơ cấu tổ chức của UBND xã, thị trấn đã có những chuyển
biến theo hướng thu gọn, nhiệm vụ của các thành viên trong bộ máy chính
quyền được phân công rõ ràng, quy chế làm việc chặt chẽ, có sự kết hợp, phối
hợp giữa các tổ chức trong toàn hệ thống chính trị. Việc thực hiện trách nhiệm
và thẩm quyền của cơ quan hành chính ở cơ sở đã có nhiều chuyển biến tiến
bộ trong việc thực hiện chức năng quản lý hành chính trên địa bàn, tổ chức
triển khai, thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết của HĐND cùng cấp về phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Nhiều xã, phường, thị trấn đã xây dựng được kế hoạch, giải
pháp cụ thể để phát huy mọi tiềm năng của địa phương, huy động mọi nguồn
lực nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo, nâng cao
đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, xây
dựng nông thôn mới.
Hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở có nhiều tiến bộ, phát huy tác
dụng thực sự. Việc xây dựng các thiết chế văn hoá ở địa bàn dân cư đạt được
kết quả khá tốt. Cuộc vận động xây dựng làng, thôn, bản, tổ dân phố, khu vực

văn hóa phát triển mạnh mẽ, trở thành phong trào sôi nổi và rộng khắp. Đến
nay, các xã, phường, thị trấn đều có điểm bưu điện - văn hoá, 100% xã,
phường, thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng; 100% trạm y tế có bác sĩ; có
100% xã, phường, thị trấn đạt phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ
cập giáo dục trung học sơ sở.
Công tác cải cách hành chính được triển khai đồng bộ, đã có một số mặt
chuyển biến tiến bộ nhất là cải cách thủ tục hành chính. Các xã, phường, thị
trấn đã triển khai thực hiện đề án cải cách hành chính theo mô hình “một
cửa”, chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng,
công chứng, chứng thực và các công việc khác có liên quan đến văn phòng
UBND xã, phường, thị trấn. Đã công khai hoá các quy định về thủ tục hành
chính, giảm phiền hà của công dân, bước đầu tạo được niềm tin của người dân
và tổ chức về tinh thần trách nhiệm của cơ quan công quyền. Cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc ở các xã, thị trấn được tập trung đầu tư, nâng cấp, xây
dựng mới. Đến nay, có 100% trụ sở làm việc cơ bản khang trang, được trang
bị đầy đủ trang thiết bị làm việc như điện thoại, máy vi tính, máy in...


25

Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được các cấp ủy từ
huyện đến cơ sở triển khai tích cực, xem đây là cơ sở quan trọng vào việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý điều hành của chính quyền cơ
sở. Kết quả việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu đã phát huy được
vai trò và quyền làm chủ của nhân dân. Qua đó, tạo thêm động lực mới để thúc
đẩy quần chúng nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị ở địa phương như
phong trào xóa đói giảm nghèo, đấu tranh phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã
hội... Chủ trương nhân dân và nhà nước cùng làm những công trình điện,
trường học, bê tông hóa giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh mương... đã
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần xây dựng chính quyền cơ sở trong

sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn, thực hiện tốt nghị quyết
của Đảng các cấp đề ra.
Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được chú
trọng. Hiện nay, hầu hết các xã, phường, thị trấn đều bố trí địa điểm tiếp dân
tại trụ sở UBND, có nội quy và lịch tiếp dân. Các đơn, thư khiếu nại, tố cáo
của công dân cơ bản được xem xét, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Do
vậy, số lượng công dân đến khiếu kiện tại các cơ quan Nhà nước và đơn, thư,
vụ việc khiếu nại, tố cáo giảm dần qua các năm. Chất lượng tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cấp cơ sở được nâng lên, nên đã hạn chế, góp phần
ổn định an ninh chính trị, đặc biệt là an ninh nông thôn, vùng có đạo, biên
giới.
c. Đổi mới công tác mặt trận và các đoàn thể
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đã từng bước đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động hướng mạnh về cơ sở, đóng vai trò nòng cốt
xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở. Tập hợp được đông đảo đoàn viên, hội viên, tổ chức vận
động các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội; thực hiện các phong trào nhân đạo xã hội, các chương
trình, dự án có hiệu quả, đồng thời đã phát huy vai trò đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân; thực hiện tốt quyền giám sát và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị. Kịp thời phát giác các hành vi tiêu cực,


×