Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích truyện ngắn: Đôi mắt (Nam Cao)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.66 KB, 5 trang )

bài 36a
đôi mắt
nam cao
Trớc cách mạng tháng Tám 1945,đất nớc đã có một Nam cao sừng sững trên văn
đàn với những Chí Phèo, Sống mòn, và nhiều truyện ngắn nổi tiếng khác.Sau cách
mạng tháng Tám,Nam cao cha kịp tạo dựng một lâu đài nghệ thuật thứ hai đã bị kẻ
thù cớp mất tính mạng.Năm 1951,Nam Cao hy sinh trên đờng trở về công tác ở vùng
địch hậu.May là Nam cao đã tranh thủ để lại cho đời một Đôi mắt đáng yêu.Đoi
mắt là truyện ngắn của Nam Cao viết năm 1948.
Với Đôi mắt ,ta gặp lại một Nam cao với lối viết sắc sảo,tài hoa ấy.Chuyện
chẳng có gì to tát,chỉ chuyện đời thờng,vậy mà vấn đợc nêu lên lại có ý nghĩa lớn lao
về quan điểm nghệ thuật hơn trớc.Một Nam Cao đã từ chủ nghĩa nhân đạo trở thành
cách mạng.
- Về nội dung: Đôi mắt kể chuyện nhà văn Độ đến thăm nhà văn Hoàng trong
một ngày và một đêm tại vùng tản c cách Hà Nội chừng trăm cây số.Trong chuyện,
ngoài hai nhân vật chính là Hoàng và Độ, còn có vợ con Hoàng, một số ngời cùng tản
c cùng làng với Hoàng nh ông Tuần, ông Đốc, cụ phán già Và thấp thoáng nữa là
bóng dáng ngời dân thờng, đặc biệt là ngời dân quê tại nơi tản c này.
- Về NT: Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các hình thức ngôn ngữ nghệ thuật:
miêu tả, trần thuật, đối thoại, tự bạch (tự bộc lộ) và phần nào là đa thanh để qua đó,
làm nổi lên tính cách của từng nhân vật, chủ yếu là Độ và Hoàng, nhất là Hoàng.
Cuộc trò chuyện giữa Hoàng và Độ xoay quanh cách nhìn nhận về bản chất
của ngời dân quê kháng chiến.Và vấn đề đợc nêu lên ở đây, chính là vấn đề đôi mắt
.
Đôi mắt đối với con ngời, đối với nghệ thuật trong đó có văn chơng là thế đấy.
Nam Cao ở đây cũng dùng biểu tợng Đôi mắt để nói đến cách nhìn nhận cuộc đời,
1
nhìn nhận ngời dân quê. Cùng trớc một hiện tợng là ngời dân quê, Hoàng nhìn vào
chỉ thấy đen ngòm, chỉ thấy đó là những con ngời ngu độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham
lam, bần tiện, vừa ngố, vừa nhặng xị. Ai giết một con gà thì ngày mai cả làng đã
biết. Làm tự vệ, đánh vần một cái giấy, ít nhất phải mất 15 phút, thế mà thấy ai đi qua


cũng hỏi giấy. Đi, hỏi. Về, hỏi. Ra, hỏi.Vào, hỏi. Nhìn ai cũng tởng là địch.Thích nói
chính trị. Nói về ba giai đoạn của cuộc kháng chiến:cầm cự, phòng ngự, phản công
nói giống nh vẹt, không hơn không kém.Với đôi mắt của Hoàng nh thế thì chuyện
một anh bán cháo lòng, sau cách mạng làm chủ tịch xã, chuyện những ngời dân quê
vác tre đi đắp luỹ, cản bớc tiến của quân thù có cơ giới hoá tối tân, sẽ là những trò
quái gở của cuộc đời. VớiĐôi mắt nh thế, làm gì có chuyện gọi là sức mạnh quần
chúng. Giỏi lắm là chỉ có vai trò của cá nhân xuất chúng. Hoàng đã nói một cách
hồn nhiên đến buồn cời: ấy đấy, tôi bi lắm. Cứ quan sát kỹ thì rất nản. Nhng tôi
cha nản có lẽ chỉ vì tôi tin vào ông Cụ. Tôi tin rằng cuộc cách mạng tháng Tám
cũng nh cuộc kháng chiến hiện nay chỉ ăn vì ngời lãnh đạo cừ. Hồ Chí Minh đáng
lẽ phải cứu vãn một nớc nh thế nào kia mới xứng tài . Rõ ràng trong cách nhìn
này, không phải không có điều khả thủ, thậm chí trong chừng mực nào đó là cần thiết
để những ngời nào có đôi mắt nh Hoàng khỏi tuột hẳn ra ngoài cuộc kháng chiến
của dân tộc một cách thảm hại.Nhng dù sao cách nhìn này về cá nhân lãnh tụ cũng là
sản phẩm của một bệnh sùng bái cá nhân mà lịch sử sớm muộn phải chối bỏ. Đôi mắt
của Hoàng không cho phép anh ta thấy: Hồ Chí Minh vĩ đại. Nhng sức mạnh ở Hồ
Chí Minhchính là kết tinh từ sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đó có những
ngời dân quê mà Hoàng đang dè bỉu, miệt thị kia.
Ngợc với đôi mắt của Hoàng là đôi mắtcủa Độ. Độ không phải không thấy ở
những ngời dân quê có sự dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục (dễ có lúc Độ
đã sinh ra nghi ngờ đến sức mạnh quần chúng )nh ng cũng chính Độ đã ngã ngửa
ngời ra vì thấy chính họ có thể làm cách mạng và làm cách mạng hăng hái
lắm . Độ cũng thấy những ngời dân quê đó răng đen,mắt toét,gọi lựu đạn là nựu
đạn,hát tiến quân ca nh ngời buồn ngủ,cầu kinh nhng lúc ra trận thì xung phong
2
can đảm lắm . Độ cũng đã thấy những ngời dân quêchỉ mấy tháng trớc cách mạng
giá có anh lính vệ ghẹo vợ ngay trớc mặt cũng chỉ đành im thin thít mà đi,đi một
quãng thật xa rồi mới lẩm bẩm chửi thầm vài tiếng,còn bao nhiêu ghen tứuc dành
là đem về nhà trút vào má vợ . Nhng nay chính họ lại có mặt tại mặt trận kháng
chiến ở Nam Trung (Nam phần Trung bộ) .Cho nên,với đôi mắtnh thé,Độ thấy ở

những ngời dân quê nàycó nhiều cái kỳ lạ lắm còn là một cái bí mật đối với
chúng ta.Trong chuyện,sự khác nhau trong cách nhìn của hai đôi mắtđã kéo theo
sự khác nhau giữa hai giọng điệu,hai thái độ khi nói về ngời dân quê.Nếu với Độ là
thông cảm,là muốn thực sự cầu thị thì với Hoàng (và cả vợ Hoàng) làtức tối,làbất
bình,làcời gằn.
Nam cao đã không chỉ nói đến sự đối địch trong cách nhìn của hai đôi mắt,giữa
Hoàng và Độ ,mà còn chỉ ra nguồn gốc dẫn đến sự trái nghịch đó.Nó là từ nhân cách
và điệu sống mà ra cả.Hoàng có đôi mắtnhìn đồi,nhìn ngời dân lao động,đặc biệt là
ngời dân quê nh thế,trớc hết bởi Hoàng Là ngời có nhân cách kém cỏi,bị bạn bè
khinh ghét bởi tính đố kỵ .Anh ta vẫn có tính đá bạn một cách đột ngột,vì những cớ
mà chỉ mình anh ta biết.Có khi chỉ vì một tác phẩm cua ngời bạn ấy đợc cảm tình
của một nhà phê bình đã chê một vài tác phẩm của anh.Có khi cũng chẳng cần đến
thế.Anh có thể là một ngời bạn rất thâncủa Hoàng khi anh chỉ là một nhà văn ở
tỉnh xa chỉ góp mặt với Hà Nội bằng những bài gửi về đăng báo.Nhng nếu anhn lại
về sống hẳn ở Thủ Đô,giao thiệp với ít nhiều nhà văn khác,anh sẽ không phải là
bạn Hoàng Nữa . Hoàng sống không chỉ bằng nghề vầnm còn bằng nhề buôn; ở đây
cái tâm lý con buôncũ đã trở thành một phơng diện tính cách của Hoàng.Với
Hoàng,chữ lợi là trên hết.cuộc sống của Hoàng là cuộc sống trởng giả.chẳng những
khi còn sống ở Hà Nội,Hoàng nuôi chó Tây,đi tản c cách Hà Nội hàng trăm cây
số,giữa cái thế giới dân quê nghèo đói,Hoàng vẫn nuôi chó Tây,hàng ngày vẫn có thịt
cho chó ăn,vẫn có thuốc lá thơm để hút ,vẫn có chăn hoa,màn tuyn sắc nớc hoa sực
nức .Không phải ai sống nh thế cũng là h đốn cả.Nhng ở Hoàng thì quả thật giữa lối
sống,điệu sống đó với tính cách,nhân cách là một.Nó và đôi mắtcủa Hoàng hoàn
3
toàn có liên quan với nhau.Với Hoàng,sống nh thế,chẳng trách không hoà nhập với
ngời dân quê,với kháng chiến.Dân quê dốt nát,nhng có tấm lòng.Họ đã lao vào cuộc
kháng chiến một cách say xa.Còn Hoàng thì tuy sống trong vùng kháng chiến nhng
tâm hồn lạc lõng.Cả cái thú vui đọc và bình phẩmTam Quốc chí với ai đó không
sao,Nhng với vợ chồng Hoàng trong hoàn cảnh cụ thể ấy cũng là lạc lõng.Nam Cao
cũng còn cho ngời đọc thấy,hiện tợng Hoàng không hẳn là hoàn toàn đơn độc.Bởi tại

cái làng Hoàng sơ tán,ngoài vợ chồng Hoàng còn có một tuần phủ về hu,một vị đốc
học bị thải hồivì tội hiếp học trò, một cụ phán già từng lo sống bằng nghề lo kiện,một
mụ Yên Kỳ,dĩ nhiên chẳng phải là bạn văn chơng của Hoàng,nhng vẫn là đồng
minhcủa Hoàng.Đối với cách mạng ,họ là những cái bóng đen đang tan dần.
Trong khi đó,Độ là một nhà văn có lối sống khác,theo hớng ngày một hoà mình
vào nhân dân,vào kháng chiến,vào cách mạng.Cách mạng tháng Tám chuẩn bị bùng
nổ.Độ dã tìm đến với cách mạng.kháng chiến xảy đến ,độ khoác ba lô đi kháng
chiến,làm ngời cán bộ tuyên truền,ngày đêm lăn lộn với quần chúng,với những ngời
thợ in,có chấy rận trong ngời do điều kiện kháng chiến gian khổ đa đến, vẫn thấy
hạnh phúc.Nam cao đã chỉ cho ngời đọc thấy, lối sống và đôi mắtnhìn đời đã ảnh
hởng mật thiết tới cảm hứng nghệ thuật. Hoàng vốn là nhà văn đàn anh của Độ nhng
với lối sống đó,với đôi mắt đó,Hoàng đã tự mình đánh mất t cách nhà văn thực
thụ,không còn cảm hứng gì để viết nă.trong khi đó,với Độ,cuộc đời mới của dân
tộc,của nhân dân lại thành nguồn cảm hngsangs tạo nghệ thuật mới,lôi cuốn,hấp dẫn
anh.với sự thật này,truyện ngắn đôi mắtcủa Nam Cao có ý nghĩa nh một tuyên
ngôn nghệ thuật. O đây có thể nói thêm,đôi mắtlà một bớc tiến mới của t tởng nghệ
thuật đã rất tiến bộ của Nam Cao trong Trăng sáng và Đời thừa viết trớc cách mạng
Tháng Tám.Bớc tiến mới đó chính là từ chỗ coi nghệ thuật là tiếng đau khổ là sự
đón lấy tất cả những vang động của đời(trăng sáng) ,đến chỗ coi nghệ thuật là vũ
khí đấu tranh cho hạnh phúc của đất nớc,của nhân dân,trớc mắt là cho kháng chiến
thắng lợi.
4
Nam Cao đã viết truyện ngắn đôi mắt ba năm sau ngày cách mạng tháng Tám
thành công,cha đợc bao lâu đã phải đơng đầu với cuộc xâm lợc lần thứ hai của thực
dân Pháp.Lúc này,hầu hết các hà văntiền chiếntrong đó có Nam Cao đã đi theo
kháng chiến.Nhng hiện tợng xa rời ,ít ra là cha quen hoà nhập với quần chúng,nhất là
với ngời dân quê,hiện tợng nhận thức về kháng chiến,về nhân dân một cách lệch
lạc,thiếu tin tởng ,hiện tợng đi với kháng chiến mà cha gắn đợc cảm hứng nghệ thuật
với kháng chiến không hiếm.Do đó,lúc này,vấn đề nhận đ ờng, vấn đề đôi
mắt,vấn đề lập trờng đang phải đặt ra với ngời nghệ sỹ một cách bức thiết.Đại hội

văn hoá toàn quốc năm 1948 đợc mở ra chính là nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết
này.Trong hoàn cảnh đó,truyện ngắn đôi mắtcủa Nam Cao ra đời là một đóng
đangs kể cho phong trào chung,là một bớc tiến của một t tởng nghệ thuật của Nam
Cao sau mấy năm nhập thân vào cách mạng,vào kháng chiến của dân tộc.Vấn đề đôi
mắt Nam Cao nêu lên thc ra không chỉ có ý nghĩa với ngời cầm bút mà còn với mọi
ngời,thậm chí không chỉ có ý nghĩa ở Việt Nam mà còn với thế giới.Bởi ai ở đâu,lúc
nào,sống giữa trái đất này,dù viết văn hay không viết văn lại không cần có chân lý ,
trong đó có vấn đề cách nhìn về nhân dân sao? Nói vậy rồi chúng ta lại có thể nói
thêm. Trong đôi mắt của NC, cụ thể là lời nói của Độ về cái gọi là còn bí mật ở
ngời dân quê phải chăng ít nhiều có bóng dáng của một cách nhìn đơn giản mà ở thời
ấy NC khó tránh khỏi.
Nguyễn Đình Chú

5

×