Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Ngôn ngữ thơ nôm nguyễn trãi từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 138 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM THỊ TOÀN

NGÔN NGỮ THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam trung đại
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lã Nhâm Thìn

HÀ NỘI, 2017

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Phạm Thị Toàn

2




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình viết luận văn này, em đã được sự giúp đỡ chân thành của
nhiều thầy cô, bạn bè. Em xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến:
- Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Các thầy cô giáo tổ Văn học Việt Nam trung đại, khoa Ngữ văn Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
Với lòng kính trọng, khâm phục và sự biết ơn sâu sắc, em xin cảm ơn GS.TS
Lã Nhâm Thìn, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận
văn.
Xin một lần nữa được cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên và
tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Hà Nội, tháng 06 năm 2017
Tác giả luận văn

Phạm Thị Toàn

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………….
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu

6
6

7
13

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

13

5. Phương pháp nghiên cứu

14

6. Đóng góp của đề tài

14

7. Cấu trúc của luận văn

15

NỘI DUNG

16

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ 16
TÀI
1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ và văn hóa
16
1.1. Ngôn ngữ thơ

16


1.2. Ngôn ngữ thơ từ góc nhìn văn hóa

18

1.3. Ngôn ngữ thơ Nôm- một yếu tố, một phương tiện của văn hóa

21

1.4. Quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Trãi với thơ Nôm Nguyễn Trãi từ gócóc
23
nhìn văn hóa
Chƣơng 2: HỆ THỐNG NGÔN NGỮ THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI TỪ 52
GÓC NHÌN VĂN HÓA
2.1. Tiếp nhận và ảnh hưởng văn hóa Hán, bác học và văn hóa Việt, bình 52
dân đối với hệ thống ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi
2.2. Hệ thống ngôn ngữ tiếp nhận và ảnh hưởng từ văn hóa Hán, bác học và 61
văn hóa Việt, bình dân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
2.3. Đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn 68
hóa
2.4. Nghệ thuật sử dụng hệ thống ngôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi
81
Chƣơng 3: ĐẶC SẮC VĂN HÓA CỦA HỆ THỐNG NGÔN NGỮ 92
TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
3.1. Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi với sự thể hiện tinh thần hiếu hòa của 92
dân tộc Việt Nam
3.2. Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi với sự thể hiện văn hóa trọng tình của 103

4



người Việt
3.3. Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi với sự thể hiện tính linh hoạt “tùy cơ 115
ứng biến” của người Việt
3.4. Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi với sự thể hiện tinh thần “chú trọng 119
thực tiễn” của người Việt
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

125

PHỤ LỤC

136

131

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Nguyễn Trãi không chỉ là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà
còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông
được nhiều nhà khoa học nhân văn nghiên cứu và cho thấy trên nhiều phương diện
khác nhau, Nguyễn Trãi đã được định vị bậc vĩ nhân bởi những cống hiến to lớn
cho lịch sử văn hóa nước nhà. Xét về lĩnh vực văn học, có thể nói thơ Nôm Đường
luật nói chung và thơ Nôm Nguyễn Trãi nói riêng là một hiện tượng đặc sắc của nền
văn học trung đại Việt Nam. Việc nghiên cứu và tìm hiểu những giá trị đặc sắc của

của thể loại thơ Nôm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định tinh hoa của
nền văn học dân tộc trong sự khu biệt với các nền văn học khác.
Việc nghiên cứu thơ Nôm Nguyễn Trãi đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận qua các công trình nghiên cứu, các chuyên luận, các cuộc hội thảo và trên
các tạp chí khoa học chuyên ngành. Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm duy nhất của
Nguyễn Trãi và là tập thơ được khẳng định là cột mốc lớn đầu tiên trong dòng chảy
của thơ Nôm Đường luật. Tập thơ cũng được đánh giá là đã đặt nền móng cho thơ
ca tiếng Việt và có ảnh hưởng lớn đến các sáng tác thơ Nôm Đường luật sau này.
Quốc âm thi tập đã khẳng định rõ nét sự đóng góp to lớn của Nguyễn Trãi trong
việc mở đường và đẩy mạnh sự phát triển của của thơ ca dân tộc, đặc biệt là thành
tựu về mặt ngôn ngữ.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, giữ gìn, khẳng định bản sắc
văn hóa truyền thống là một việc làm hết sức cần thiết. Xét về phương diện này, thơ
Nôm Đường luật nói chung và thơ Nôm Nguyễn Trãi nói riêng cũng là thành tố của
văn hóa được hình thành trên nền văn hóa truyền thống đặc sắc của người Việt Nam
thời trung đại. Theo Đoàn Thị Thu Vân trong “Thơ Nôm Nguyễn Trãi và truyền
thống văn hóa Việt” thì “thơ văn Nguyễn Trãi, đặc biệt là thơ Nôm góp phần đáng
kể trong việc lưu giữ, phát huy và trao truyền những tinh hoa văn hóa Việt giàu
chất nhân văn của thời đại mình cho những thế hệ đi sau”[53,46].

6


Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học nói chung và ngôn ngữ văn
học trung đại Việt Nam nói riêng từ góc nhìn văn hóa là hướng tiếp cận có tính chất
liên ngành. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, nhà nghiên cứu có thể đi sâu tìm
hiểu nội dung, tư tưởng thẩm mĩ và đặc trưng văn hóa của thời đại và bản thân mỗi
tác giả. Nhận thức được giá trị của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi và để góp phần
tìm hiểu tưởng thẩm mĩ, phong cách văn hóa của danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Trãi cùng đặc trưng văn hóa của thời đại, chúng tôi chọn đề tài Ngôn ngữ

thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa như một sự thể nghiệm, biện giải ngôn
ngữ văn chương cổ điển và văn hóa thông qua các mối quan hệ biện chứng giữa
chúng.
1.2. Về thực tiễn
Từ lâu, tác giả Nguyễn Trãi cùng với những kiệt tác của ông, trong đó có thơ
Nôm được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu từ bậc trung học đến bậc đại học. Song
để hiểu một cách thấu đáo về giá trị của nó không phải là điều dễ dàng. Vì thế, việc
tìm hiểu một số vấn đề có tính chất lí thuyết về các ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ
thơ Nôm Nguyễn Trãi, đặc biệt là những ý nghĩa hàm ẩn, các tầng nghĩa văn hóa
của chúng trong những ngữ cảnh cụ thể sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng
học tập, nghiên cứu, giảng dạy thơ Nôm Nguyễn Trãi trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Những năm đầu thập niên 60 của thế kỉ XX, ở Việt Nam, có một tác phẩm
văn học gây được sự chú ý cho các nhà dịch thuật, nghiên cứu, phê bình văn học
trong và ngoài nước. Đó chính là bản thơ Nôm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
Sự phát hiện ra tập thơ này là một mốc quan trọng trong nghiên cứu văn chương Ức
Trai. Quốc âm thi tập đánh dấu sự trưởng thành của ngôn ngữ văn học và văn hóa
dân tộc. Tập thơ không chỉ là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện
còn mà còn khẳng định vai trò quan trọng của tiếng Việt cũng như văn hóa Việt.
Qua những tư liệu hiện có, theo chúng tôi, lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nôm
Nguyễn Trãi có thể khái quát thành các hướng như sau:
2.1. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi

7


Với 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã huy động một vốn từ
phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành một hệ thống ngữ liệu đặc sắc tạo nên
những thần cú trong văn học cổ điển Việt Nam. Chính vì vậy, nghiên cứu về
phương diện ngôn ngữ của Quốc âm thi tập có khá nhiều những công trình có giá

trị. Có thể kể đến công trình nghiên cứu về Quốc âm thi tập của tác giả Thanh Lãng,
“Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thiên Thụ, “Mấy đặc điểm của vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” của hai tác giả Hoàng Văn Hành và Vương Lộc,
“Âm vang tục ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi” của Bùi Văn
Nguyên; “Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt” của Hoàng Tuệ; “Quốc
âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam” của Xuân Diệu; “Ngôn ngữ
thơ của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập” của Hoàng Hữu Yên; “Một bản lĩnh
thơ dân tộc” của Minh Hiệu; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thu Thủy với đề tài
“Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi”; Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Phương Thái với
đề tài “Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”....
Từ năm 1967, trong bài viết Quốc âm thi tập tác giả Thanh Lãng đã khẳng
định: “Quốc âm thi tập là tài liệu văn học cổ nhất hiện còn lưu giữ được của nền
văn học quốc âm”. Giá trị của tập thơ không chỉ hạn hẹp ở những nét đặc sắc về nội
dung mà còn ở nghệ thuật biểu hiện. Theo tác giả, với những gì mà Quốc âm thi tập
đạt được thì Nguyễn Trãi xứng đáng là ông tổ của nền văn học cổ điển, ông tổ của
nghệ thuật dân tộc đồng thời có vai trò “khai sinh một nghệ thuật dùng ngôn ngữ
của dân gian”[21,805]. Ông khẳng định Nguyễn Trãi mới mẻ hơn so với các nhà
thơ sống sau ông hơn ba bốn thế kỉ ở việc sử dụng ngôn ngữ dân gian “những kiểu
nói của nhân dân (các tục ngữ hay ca dao) hay tác động được tới nhân dân bằng
việc đem tư tưởng, tiếng nói của mình vào tiếng nói của nhân dân”[21,805]. Tuy
nhiên Thanh Lãng mới dừng lại ở việc nêu ra vấn đề mà chưa đi sâu vào tìm hiểu, lí
giải hiện tượng đó.
Cùng quan điểm với Thanh Lãng, ngay mở đầu bài viết “Ảnh hưởng và địa vị
của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam”, tác giả Nguyễn Thiên Thụ đã khẳng

8


định “Nguyễn Thuyên được coi như là ông tổ thơ Nôm. Cùng với Nguyễn Thuyên,

có Nguyễn Sĩ Cố, Chu An, Lê Qúy Ly là những người đầu tiên xây dựng lâu đài thi
ca Việt Nam. Nhưng đó là buổi đầu còn sơ sài. Phải chờ đến Nguyễn Trãi, thi ca
mới nở trọn vẹn những cánh hoa muôn màu sắc rực rỡ” [47, 956]. Những cánh hoa
muôn màu sắc rực rỡ đó được kết tinh từ “kho tàng văn chương bình dân cùng hòa
hợp với tinh hoa của văn chương Trung Hoa” [47,967]. Như vậy, tác giả đã khẳng
định Quốc âm thi tập được viết bằng chữ Nôm trên cơ sở một số thi liệu Trung
Quốc đã được Việt hóa và đặc biệt chủ yếu từ tài nguyên phong phú của nền văn
chương Việt Nam là ca dao, tục ngữ của dân gian. Tác giả còn khẳng định Quốc âm
thi tập thể hiện “tinh thần khai phóng….rộng rãi chào đón những nguồn văn
chương…thâu thái những tinh hoa của người làm của mình”[47,959] và quan trọng
hơn là ý thức gìn giữ vốn ngôn ngữ dân tộc của tác giả, xem đó là những đóng góp
đáng quý của Nguyễn Trãi.
Trong bài viết “Một số nhận xét bước đầu về ngôn ngữ trong thơ Nguyễn
Trãi”, sau khi nhận xét ngôn ngữ trong thơ chữ Hán, hai tác giả Nguyễn Tài Cẩn và
Vũ Đức Nghiệu có đánh giá về ngôn ngữ trong thơ Nôm: “Nói đến ngôn ngữ trong
thơ Nôm Nguyễn Trãi, điểm đầu tiên nổi bật là sự phong phú của tác giả về mặt
dùng từ” [4,181]. Các tác giả đã thống kê trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã sử
dụng hơn một vạn một ngàn lượt từ (11067) trong đó có tất cả 2235 từ khác nhau.
Các tác giả còn thống kê chi tiết số từ xuất hiện một lần (2112) cho đến những từ
xuất hiện từ mười lần trở lên (272). “Thế là trong kho từ của Quốc âm thi tập, gần
46 trường hợp Nguyễn Trãi đã không dùng từ lặp lại một lần nào- một tỉ lệ khá cao
nếu đem so sánh ngay với cả thể loại truyện kí của các nhà văn hiện đại”[4,182].
Điều đó chứng tỏ khả năng vận dụng phong phú, điêu luyện của Nguyễn Trãi. Cuối
cùng các tác giả còn khẳng định vai trò của Nguyễn Trãi đối với nền thơ ca dân tộc:
“Chúng ta quý Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta khá nhiều thơ Nôm. Nhưng còn
đáng quý hơn nữa là Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta không phải lối thơ Nôm
bác học mà là lối thơ Nôm viết bằng ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc”[4,183].

9



Hoàng Văn Hành và Vương Lộc trong công trình “Mấy đặc điểm của vốn từ
tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” đã đi sâu tìm
hiểu một số đặc điểm của vốn từ tiếng Việt của văn học thế kỉ XV qua Quốc âm thi
tập. Với việc khảo sát một số cặp đối lập về cách sử dụng, về mặt cấu tạo từ, nguồn
gốc của các từ đơn tiết, song tiết và một vài hiện tượng sử dụng hư từ, từ láy trong
Quốc âm thi tập, các tác giả đã có những kết luận ban đầu về tiếng Việt văn học thế
kỉ XV: “Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi đã phát triển đến một trình độ tương đối cao.
Điều đó biểu hiện rõ ở sự hình thành các lớp từ đối lập nhau trong cách sử dụng và
ở sự hình thành các lớp từ ngữ đối lập nhau trong cách sử dụng và ở tính hoàn
chỉnh của hệ thống các phương thức cấu tạo” [11,22]. Đó là ý kiến có sức thuyết
phục bởi vốn từ của tác phẩm nghệ thuật có giá trị đối với nền văn học dân tộc như
Quốc âm thi tập sẽ là cứ liệu đáng tin cậy để “tìm hiểu trạng thái ngôn ngữ của dân
tộc trong một giai đoạn lịch sử nhất định” [11,22].
Qua phần nghiên cứu về hành văn trong thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu trong
bài viết “Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam” đã đề cao
những đóng góp về mặt ngôn ngữ của tập thơ. Tác giả cho rằng, ngôn ngữ trong
Quốc âm thi tập “là một kho chất liệu cho ta nghiên cứu lời nói, câu viết của tổ tiên
làm ngót sáu trăm năm trước”[9,618]. Theo ông, Nguyễn Trãi đã tạo ra những câu
thơ vào loại hay nhất, “có nhiều nội tâm” [9,595] nhờ tài năng vận dụng vốn ngôn
ngữ dân gian, cách dùng từ ngữ, linh hoạt, sáng tạo, mới mẻ.
Trong bài viết “Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập”, tác
giả Hoàng Hữu Yên đã chỉ ra: “Khả năng biểu đạt ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trãi
đạt đến vẻ đẹp tinh vi, tế nhị, kho từ thuần Việt phong phú, đa dạng. Nguyễn Trãi đã
khẳng định vai trò của mình trong lịch sử ngữ âm, lịch sử từ vựng, lịch sử ngữ pháp
tiếng Việt”[60,3]. Còn trong bài viết “Một bản lĩnh thơ dân tộc. Mấy suy nghĩ nhân
đọc thơ quốc âm của Nguyễn Trãi”, tác giả Minh Hiệu lại thấy Nguyễn Trãi rất mới
trong cách viết, “mới đến mức làm ta ngạc nhiên”: “chữ Nôm được trau chuốt, rèn
giũa và đạt đến vẻ đẹp uyển chuyển”[13,6]


10


Bằng việc tìm hiểu vốn từ, những nét đặc trưng về cách sử dụng từ ngữ trong
Quốc âm thi tập trong luận án tiến sĩ Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi, tác giả Phạm Thị Phương Thái đã đưa ra những nhận định về việc
xây dựng ngôn ngữ tiếng Việt văn hóa từ ngôn ngữ thông tục của Nguyễn Trãi: “là
một nhà văn hóa, tư tưởng có tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Trãi ý thức sự cần thiết
xây dựng ngôn ngữ văn hóa” và “hạt nhân cơ bản của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn
Trãi là tiếng Việt” [37,101]. Tác giả đã lí giải nguyên nhân dẫn đến ý thức đó là do
đòi hỏi của xã hội cũng như ảnh hưởng và tiềm năng diễn đạt của ngôn ngữ bình
dân nên đã thôi thúc Nguyễn Trãi đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Như
vậy, việc vận dụng lời ăn tiếng nói, lối diễn đạt trong đời sống hàng ngày vào thơ
Nôm đã cho thấy Nguyễn Trãi là người có ý thức đưa khẩu ngữ vào trong văn học
viết. Đồng thời nhà thơ đã đưa tiếng Việt giao tiếp thành tiếng Việt văn hóa. Qua
đó, tác giả cũng khẳng định “với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã có công rất lớn
trong việc xây dựng ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ văn hóa từ ngôn ngữ giao tiếp
thông thường” [37, 104].
2.2. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa
Điểm lại các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, chúng tôi nhận thấy, các nhà nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu đặc điểm
của ngôn ngữ mà chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ
thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa. Tuy vậy, một số bài viết về Quốc âm thi
tập cũng đã ít nhiều đề cập đến yếu tố văn hóa trên phương diện ngôn ngữ. Ở hướng
nghiên cứu này, các bài viết đã phát hiện được những nội dung mới trong thơ quốc
âm của Nguyễn Trãi, chủ yếu khai thác những vấn đề thuộc về bản sắc dân tộc gắn
với văn hóa, văn học Việt Nam.
Đầu tiên phải kể đến công trình “Âm vang tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi” của Bùi Văn Nguyên. Tác giả khẳng định ý thức “trân trọng
tiếng nói của tổ tiên”, giá trị lao động nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Trãi “dần dần

nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt lên, làm cho tiếng Việt ngày càng phong
phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngang với tiếng nói của nhiều nước tiên

11


tiến trên thế giới”[28,815]. Đây là ý kiến được đánh giá là xác đáng đối với thơ
Nôm Nguyễn Trãi. Đi sâu tìm hiểu yếu tố tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập, tác
giả nhận xét: “Có thể nói yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu, nhiều
bài thơ quốc âm của Ức Trai tiên sinh. Tiếng nói của tổ tiên ta được truyền lại gần
như nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ” [28,807]. Và ông kết luận:
“Chính nhờ Nguyễn Trãi ghi lại một số câu tục ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của
mình, mà chúng ta có được cái mốc lịch sử chắc chắn để tìm hiểu một số dạng về
tục ngữ, ca dao với ý nghĩa lịch đại của nó” [28,807]. Tác giả đã có những đối
chiếu thống kê khá cụ thể và nhận thấy “cách khai thác vốn cổ trong tục ngữ, ca
dao của Nguyễn Trãi cũng linh hoạt, sáng tạo có chỗ như “lẩy”, có chỗ như “tập”,
có chỗ như “phỏng”, có chỗ lấy toàn cả ý, cả từ, có chỗ lấy ý mà từ có bổ sung, hay
có chỗ lấy từ mà ý bổ sung”[28,812]. Hai nhận xét này theo đánh giá của hai nhà
nghiên cứu Phạm Thị Phương Thái[37,6] và La Kim Liên[20,24] là cần phải bàn
thêm và làm sáng rõ bằng các cơ sở khoa học minh triết hơn.
Nhà nghiên cứu Hoàng Tuệ khi bàn về ngôn ngữ thơ trong Quốc âm thi tập
đã tập trung bàn về “Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt”. Theo ông, sự
cống hiến của Nguyễn Trãi được thể hiện ở “bản lĩnh ngôn ngữ”[48,818]. Bản lĩnh
ấy được thể hiện đầu tiên ở “thái độ quý trọng và đề cao chất liệu của tiếng Nôm,
tức tiếng Việt, văn học dân gian truyền miệng”[48,818]. Nhà thơ đã sử dụng triệt để
lớp từ tiếng Việt, cú pháp Việt và bộc lộ thái độ trân trọng đặc biệt đối với tục ngữ.
Mặt khác, Nguyễn Trãi còn thể hiện ý thức làm giàu cho kho từ vựng tiếng Việt
bằng cách “dùng chất liệu hình thức Việt để tiếp nhận chất liệu nội dung Hán”. Về
phương diện này, Hoàng Tuệ đã phân tích kĩ để thấy tại sao Nguyễn Trãi, một
người đang có ý định thử nghiệm làm giàu cho tiếng Việt lại dùng nhiều và nhiều

lần dùng một từ Hán để thay thế cho một từ tương đương gốc Việt. Hoàng Tuệ cho
rằng, do nước ta bị phương Bắc đô hộ, chế độ phong kiến kéo dài, “sự tiếp xúc giữa
tiếng Việt với tiếng Hán đã diễn ra rất lâu dài. Việc tiếp nhận của tiếng Hán những
ảnh hưởng về từ vựng, về cả những mặt khác, là hiện tượng không thể nào không
xảy ra” [48,825]. Dù Nguyễn Trãi có sử dụng từ vựng Hán, song Hoàng Tuệ vẫn

12


đánh giá rất cao cống hiến của Nguyễn Trãi: “Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với
tiếng Việt, đó là cống hiến thật lớn lao! Nếu như về tiếng Việt, đến thế kỉ XIX,
Nguyễn Du sẽ tạo nên được niềm tự hào, thì ở thế kỉ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã
xây dựng nên được, là niềm tin. Nguyễn Trãi- người mở đầu gian khổ và xuất sắc
sự nghiệp lớn lao của tiếng Việt văn học” [48,826].
Nhìn nhận lịch sử nghiên cứu, các bài viết liên quan đến thơ Nôm Nguyễn
Trãi, chúng tôi thấy có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, khai thác trên nhiều khía
cạnh. Tuy ở mỗi mức độ và tính chất khác nhau nhưng nhìn chung các bài viết đều
có xu hướng qua thơ Nôm của ông để khẳng định, ca ngợi những đóng góp của tác
giả Quốc âm thi tập về phương diện ngôn ngữ đối với nền văn học viết bằng tiếng
Việt. Có lẽ trong khuôn khổ và giới hạn của bài viết, các tác giả chưa có điều kiện
đi sâu phân tích cụ thể và làm sáng tỏ tất cả những giá trị ngôn ngữ thơ Nôm
Nguyễn Trãi. Nghiên cứu “Ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa”,
chúng tôi mong muốn góp thêm một cái nhìn mới về phương diện ngôn ngữ của
Quốc âm thi tập - tác phẩm mở đầu của nền thơ ca tiếng Việt nước ta.
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi lấy 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi làm đối tượng khảo sát và nghiên cứu để đi đến những nhận định khoa học về
các yếu tố văn hóa biểu hiện trên phương diện ngôn ngữ của tập thơ.
Đối tượng văn bản khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi sử dụng công trình

Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (Mai Quốc Liên chủ biên), Tập 3, Nxb Văn học Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2001.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa,
những ảnh hưởng của văn hóa Hán và văn hóa Việt, văn hóa bác học và văn hóa
bình dân đối với ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

13


Tìm hiểu mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi với văn
hóa đương thời, văn hóa truyền thống, văn hóa tiếp thu từ nước ngoài để giải mã
những nét văn hóa của người Việt qua ngôn ngữ thơ Nôm ở Quốc âm thi tập.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp một số phương
pháp chính:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, hệ thống hóa: Phương pháp này có tác dụng cung
cấp những dữ liệu, số liệu chính xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luận
văn.
- Phương pháp liên ngành: sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp và thành tựu của
các ngành khoa học xã hội- nhân văn, chủ yếu là liên ngành văn hóa- văn học, văn
hóa - ngôn ngữ: đặt văn học trong bối cảnh chung của văn hóa để cắt nghĩa các hiện
tượng văn học, phân tích những đặc sắc văn hóa trong Quốc âm thi tập cụ thể ở
phương diện ngôn ngữ.
- Phương pháp lịch sử- xã hội: kết hợp nghiên cứu lịch sử xã hội, tiểu sử, con người
của Nguyễn Trãi để lí giải các yếu tố văn hóa trong ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn
Trãi.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân tích những biểu hiện văn hóa về phương
diện ngôn ngữ của các bài thơ, từ đó khái quát, tổng hợp và đưa ra những kết luận
khoa học về giá trị của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa.

6. Đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ có những đóng góp:
- Phân tích, lí giải những đặc trưng, hiệu quả ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi về
phương diện văn hóa, góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị văn chương của Nguyễn
Trãi trong lịch sử văn học dân tộc.
- Việc giải mã những nét đặc sắc văn hóa của người Việt thông qua ngôn ngữ là một
hướng đi khá mới mẻ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy văn chương Nguyễn
Trãi trong nhà trường và giảng dạy các bộ môn khoa học có liên quan như Cơ sở
văn hóa Việt Nam.

14


7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung có liên quan tới đề tài
Chương 2: Hệ thống ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc nhìn văn hóa
Chương 3: Đặc sắc văn hóa của hệ thống ngôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.

15


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ thơ và văn hóa
1.1. Ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn chương hay nói cách khác
văn chương là nghệ thuật ngôn ngữ. Ngôn ngữ là yếu tố bao trùm, là chất liệu tạo

nên tác phẩm văn chương. Không có ngôn ngữ thì tác phẩm văn học không thể tồn
tại và mọi dự đồ nghệ thuật chỉ nằm trong đầu óc của người nghệ sĩ.
Mỗi một thể loại văn chương đều mang theo những quy định riêng về đặc
trưng ngôn ngữ. Thơ ca là một thể loại của văn chương nên ngôn ngữ của thể loại
này cũng có những đặc trưng thẩm mĩ riêng do thể loại quy định.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ đời sống được sử dụng dưới hình thức thơ ca để
phản ánh thực tại, phản ánh đời sống bên ngoài chủ thể sáng tạo và cả đời sống bên
trong của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ đời sống qua sự gọt giũa, trau chuốt của người
nghệ sĩ có khả khăng phản ánh được hiện thực cuộc sống và tâm hồn người nghệ sĩ
cũng được bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong nhiều trường hợp, khi chữ được đặt
đúng chỗ sẽ “tự nhiên động gió, tự nhiên tỏa hương, nó tự thay đổi về chất lượng,
trở nên đa nghĩa, lung linh, huyền ảo khác thường, người ta gọi nó là thần tự” [24,
55]
Ngôn ngữ thơ là biểu hiện trực tiếp của tư duy, “là ý thức thực tại, thực
tiễn”. Đối với ngôn ngữ tiếng Việt, từ là đơn vị hoàn chỉnh nhỏ nhất có ý nghĩa của
ngôn ngữ biểu hiện một khái niệm, một tên gọi nhất định. Cái đơn vị nhỏ nhất này
hầu hết đều mang ý nghĩa định danh. Sự vật, hiện tượng có tên gọi thế này hay thế
khác là một biểu hiện có tính ngẫu nhiên nhưng cái ngẫu nhiên đó từ lâu đã bộc lộ
một sự nhận thức, tức là tư duy. Nói chính xác hơn là một thao tác của tư duy. Có
một điều kì diệu là trong nó đã mang tính khái quát và như Lê nin chỉ rõ “tư tưởng
và từ biểu thị cái chung”. Tính chất khái quát ấy của ngôn ngữ khi bước vào thơ ca
phải mang dấu ấn sáng tạo, có màu sắc cá thể hóa của người nghệ sĩ.

16


Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm nghệ thuật
không chỉ phản ánh thực tại mà còn nói một cái gì đó về thực tại được phản ánh, là
tiếng nói mang màu sắc riêng của người nghệ sĩ để nói với người khác và đôi khi
như chỉ để nói riêng với chính mình. Vì có chức năng giao tiếp nên ngôn ngữ thơ

mang ý nghĩa một thông báo nghệ thuật. Ngoài yêu cầu các tín hiệu ngôn ngữ trong
thông báo phải đúng, chính xác trên các mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, phong
cách dùng từ, thông báo nghệ thuật còn có một yêu cầu quan trọng nữa là phải có
lượng thông tin nghệ thuật. Nghĩa là phải có một nội dung thông báo mới và một
cách nói mới có ý nghĩa thẩm mĩ. Tính khái quát, mục đích nghệ thuật và giá trị của
tác phẩm thơ mà nói chung là ngôn ngữ thơ nói riêng bộc lộ ở đây.
Ngôn ngữ thơ phải mang trong nó cái thẩm mĩ, cái đẹp gợi cảm về nghệ
thuật. Phẩm chất ấy vừa có ý nghĩa cái thẩm mĩ chung tức là khêu gợi đánh thức ở
người cảm thụ một khoái cảm nghệ thuật lại vừa có ý nghĩa riêng mang chất thơ
trong bản thân nó. Chất thơ có khắp nơi trong cuộc sống bởi vì bản chất của sự
sống- sự phát triển của thế giới, các hiện tượng trong dân gian phù hợp với quy luật
chung của nó trong lịch sử.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ đẹp- cái đẹp của sự đúng, chính xác, hài hòa, gợi
cảm. Nó là ngôn ngữ hình tượng giàu màu sắc, âm thanh làm cho người ta dễ cảm,
gợi nhưng liên tưởng sâu sắc, tinh tế, thú vị. Đó là thứ ngôn ngữ nói ít, gợi nhiều tạo
được một chiều sâu suy nghĩ về nhiều phương diện và một sự linh hoạt nhiều tầng
bậc trong hình ảnh ngữ nghĩa.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ có tính nhạc tác động vào người đọc, người nghe
bằng những dao động của âm thanh tạo nên những cảm hứng có tính chất đặc thù.
Bài thơ không phải là nhạc phẩm nhưng có nhiều yếu tố âm nhạc như vần, điệu
thường tạo ra một mạch âm hưởng gây cho ta một xúc động riêng, những suy cảm
âm nhạc riêng theo nhiều cung bậc khác nhau khi sâu lắng, dịu dàng, sôi nổi, nhiệt
tình, khi ngọt ngào, khi cay đắng….bởi những vần, nhịp lúc êm ái, thâm trầm, lúc
âm vang, dồn dập.

17


Ngôn ngữ trong thơ rất quan trọng, biến động và đa dạng tạo nên sức sống
cho tác phẩm thơ. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ là “nhà

thơ ở thời đại nào cũng bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ của thời đại ấy. Chính
nguyên tắc có tính chất tiên quyết này giúp ta dễ dàng phân biệt được tính thời đại
trong thơ”[33, 56].
1.2. Ngôn ngữ thơ từ góc nhìn văn hóa
1.2.1. Ngôn ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa
Trong Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ, nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu cho
rằng ngôn ngữ là công cụ của văn hóa bởi vì không có ngôn ngữ, không có một hoạt
động văn hóa nào có thể diễn ra được [6,850]. Với tư cách là một chất liệu đặc biệt,
là công cụ diễn giải nội dung, ngôn ngữ được xem là yếu tố thứ nhất của văn
chương, nó có vai trò tối quan trọng như màu sắc, đường nét đối với hội họa, giai
điệu, tiết tấu đối với âm nhạc và hình khối đối với kiến trúc. Một tác phẩm văn
chương tinh túy bao giờ cũng tắm mình trong bản sắc văn hóa của dân tộc và được
thể hiện qua lớp ngôn từ đặc sắc của nó. Hơn thế, bản sắc văn hóa của thời đại, của
người nghệ sĩ cũng được thể hiện qua lớp ngôn từ trong tác phẩm văn chương. Vì
vậy, việc tiếp cận ngôn ngữ từ góc nhìn văn hóa, tác giả sẽ đạt được một trình độ
thẩm mĩ sáng tạo và đem đến cho người đọc nhưng khoái cảm thẩm mĩ thúc đẩy quá
trình đồng sáng tạo ở độc giả. Không chỉ là phương tiện để thể hiện văn hóa, ngôn
ngữ còn được xem là một trong những yếu tố cấu thành nên bản sắc văn hóa của
dân tộc.
1.2.2. Sự tác động của ngôn ngữ thơ đến văn hóa
Theo cách hiểu thông thường nhất, ngôn ngữ được hàm chứa trong văn hóa,
là một yếu tố cấu thành văn hóa nhưng thực tế, trong hoạt động hành chức của nó,
ngôn ngữ đã có những chi phối, tác động đến văn hóa trên nhiều phương diện, nhiều
cấp độ, tầng bậc khác nhau, rất phong phú, linh hoạt và đa dạng.
Nói đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, điều đầu tiên phải khẳng
định rằng, ngôn ngữ chính là phương tiện giúp mỗi cá nhân, cộng đồng mở rộng
những hiểu biết về văn hóa. Trong Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học

18



(1998), nhà nghiên cứu Nguyễn Lai khi bàn về mối quan hệ giữa văn học và ngôn
ngữ với văn hóa cho rằng “ở đây có một vấn đề gì đó nằm trong chiều sâu hơn cần
đặt ra. Đó là sự hình thành ngôn ngữ là tiền đề nhiều mặt của sự hình thành văn
hóa, mặc dù xếp theo hình thức thì ngôn ngữ nằm trong phạm trù văn hóa”[19,5].
Còn nhà nghiên cứu F. Engels cho rằng ngôn ngữ phát triển cùng với sự phát triển
của “con người xã hội”. Như vậy, theo cách đánh giá này thì ngôn ngữ không chỉ là
phương tiện, là tiền đề tạo ra văn hóa mà nó có còn có tác động lớn đến sự hình
thành và phát triển của văn hóa đặc biệt là trong việc phát triển “con người xã hội”.
Trong quá trình phát triển của ngôn ngữ trong văn học cổ điển nói chung và
trong thơ ca cổ điển nói riêng gắn với sự hình thành và phát triển văn hóa của cộng
đồng trong thời kì tương ứng. Thế kỉ XV, ngôn ngữ thơ xuất hiện rất nhiều nhưng
thuật ngữ của Nho giáo như nhân nghĩa, trung hiếu, thiên mệnh…. Qua ngôn ngữ
thơ này cho thấy sự du nhập và ảnh hưởng, hình thành nên nét văn hóa của người
Việt từ những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Ngôn ngữ được coi là phương tiện duy nhất có khả năng giải mã cho tất cả các
loại hình gắn liền với các phạm trù văn hóa. Ngôn ngữ có thể tạo nên những bước
trưởng thành về mặt văn hóa của cộng đồng. Ngôn ngữ thơ cũng là ngôn ngữ biểu
hiện trực tiếp của tư duy, “là ý thức thực tại, thực tiễn”, vì thế ngôn ngữ thơ cũng có
khả năng giải mã các phạm trù văn hóa gắn với từng thời đại cụ thể. Theo nhà
nghiên cứu Lã Nhâm Thìn, hệ thống ngôn ngữ từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
đến thơ Hồ Xuân Hương có cả thành phần ngôn ngữ dân tộc và thành phần ngôn
ngữ ngoại nhập, điển cố, thi liệu Hán học. Tuy nhiên tỉ lệ từ Hán Việt thấp hơn
nhiều so với từ Thuần Việt và cùng với điển cố, thi liệu Hán học đã giảm dần từ
Nguyễn Trãi đến Hồ Xuân Hương[40,121]. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của các
nhà thơ theo từng thời kì đã được nâng lên và phản ánh xu hướng văn hóa của các
nhà thơ hướng tới sự dân dã, bình dị, hài hòa với thiên nhiên, với con người, với
cộng đồng. Bên cạnh đó, trong sáng tác của Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn đã
được vận dụng uyển chuyển hệ thống ngôn ngữ biểu trưng, ước lệ, cổ kính. Đó
không chỉ thể hiện đặc trưng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ mà


19


còn góp phần tạo nên sắc thái trang trọng quý phái của văn chương cổ điển. Như
vậy, khi đi vào trong tác phẩm văn học nói chung, vào thơ ca nói riêng, ngôn ngữ đã
vượt qua những ý nghĩa thông thường mà vươn lên mang những giá trị văn hóa của
thời đại.
1.2.3. Ngôn ngữ thơ với việc bảo tồn, xây dựng và phát triển văn hóa
Văn hóa của một cộng đồng, dân tộc luôn được bảo lưu và truyền lại qua các
thời đại bằng nhiều cách thức và phương tiện vật chất và tinh thần. Tuy vậy, việc
bảo tồn văn hóa qua phương tiện ngôn ngữ là cách hữu hiệu và có tính chất lâu dài.
Theo giáo sư Trần Ngọc Thêm “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội[38,10].
Ngôn ngữ là giá trị tinh thần được sinh ra cùng với hoạt động giao tiếp của con
người. Vì thế, ngôn ngữ được coi là một thành tố của văn hóa được con người sáng
tạo trong lịch sử xã hội. Sự ra đời của ngôn ngữ đã đánh dấu một bước phát triển
mới trong tiến trình văn minh của xã hội loài người.
Từ góc nhìn văn hóa, nghiên cứu ngôn ngữ chúng ta có thể tìm hiểu được
những đặc trưng văn hóa của dân tộc. Những tâm tư, tình cảm, những kinh nghiệm
sống của dân tộc được thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ. Trước khi có văn tự,
những đặc trưng văn hóa đó được thể hiện qua hình thức âm thanh, lời nói. Tuy
nhiên hình thức tồn tại này có hạn chế ở hiện tượng “tam sao thất bản”, thất thoát
qua thời gian và hạn chế về không gian địa lí và mức độ phổ biến…. Chính vì vậy
khi ngôn ngữ tìm được hình thức tồn tại bằng văn tự thì những nét văn hóa của dân
tộc được thể hiện và bảo tồn một cách quy củ, bài bản hơn, loại bỏ được những hạn
chế của phương thức truyền miệng.
Ngôn ngữ và văn hóa có một mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết, không thể tách
rời. Ngôn ngữ là phương tiện để thể hiện văn hóa và văn hóa được chứa đựng trong

ngôn ngữ. Hơn thế, nhờ ngôn ngữ mà văn hóa có thể bảo tồn và phát huy triển qua
tiến trình lịch sử của dân tộc. Nhà nghiên cứu Trần Trí Dõi trong Ngôn ngữ và sự
phát triển văn hóa xã hội [8] cho rằng khảo sát mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn

20


ngữ sẽ góp phần đi sâu lí giải về bản chất xã hội và chức năng văn hóa đích thực
của ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ có chức năng lưu giữ, bảo tồn mà còn đóng vai
trò quan trọng trong quá trình sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của văn hóa.
Đã từ lâu, ngôn ngữ được xem là yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn chương
hay nói ngược lại văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Không có ngôn từ thì không
thể có văn chương. Ngôn ngữ có vai trò to lớn, quyết định đến văn chương như màu
sắc đối với hội họa, tiết tấu đối với âm nhạc. Ngay từ khi chưa có chữ viết, văn học
dân gian đã ra đời và phản ánh những tâm tư, tình cảm, ước muốn, những đặc trưng
văn hóa của dân tộc được thể hiện dưới hình thức văn học truyền miệng. Sau này
khi chữ viết được xác lập, văn học viết ra đời đã tạo điều kiện để văn hóa dân tộc
được bảo tồn và phát triển một cách tốt hơn. Xét về mặt thể loại văn chương, thơ ca
là thể loại có lợi thế ở bản chất trữ tình, ở tiết tấu, nhịp điệu nên thơ ca vẫn là thể
loại chủ đạo được người sáng tác lựa chọn nhiều hơn cả. Ngôn ngữ thơ có khả năng
diễn đạt những rung cảm của tâm hồn nghệ sĩ và tìm được sự đồng cảm đồng điệu
với tâm hồn độc giả. Vì thế mà những đặc trưng văn hóa của dân tộc có điều kiện
lan tỏa trong cộng đồng đến với thế hệ sau. Ta có thể nhận thấy trong kho tàng văn
hóa dân gian của mỗi dân tộc đã lưu giữ hàng vạn những câu ca dao từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Đến khi văn học viết được hình thành, thơ ca vẫn là thể loại chủ
đạo thực hiện những chức năng văn học. Thậm chí có những sáng tác thể hiện
những câu chuyện về cuộc đời con người nhưng vẫn tìm đến hình thức thơ ca như
thể loại truyện thơ dân gian như Tiễn dặn người yêu hoặc truyện thơ Nôm như
Truyện Kiều, Hoa Tiên, Sơ kính tân trang….
Như vậy, có thể nói ngôn ngữ văn chương nói chung và ngôn ngữ thơ nói riêng

chính là phương tiện để bảo lưu, gìn giữ và phát triển văn hóa dân tộc. Vì thế khi
nghiên cứu ngôn ngữ thơ cần chú ý đến chức năng văn hóa mà nó đảm nhận.
1.3. Ngôn ngữ thơ Nôm- một yếu tố, một phƣơng tiện của văn hóa
Vào khoảng thế kỉ X, bộ phận văn học viết Việt Nam được hình thành. Ngôn
ngữ dùng cho văn học là ngôn ngữ Hán (chữ viết của người Trung Quốc). Chữ Nôm
khẳng định vị thế của mình trong dòng chảy của văn học dân tộc muộn hơn. Theo

21


nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn “chỉ từ cuối thế kỉ X trở đi thì chữ Nôm –
với tư cách là một hệ thống văn tự thực thụ- mới dần dần hình thành. Thế kỉ XI, XII,
nó tiếp tục phát triển, tự hoàn chỉnh thêm và ngày càng trưởng thành. Cuối cùng
đến giữa thế kỉ thứ XIII thì về cơ bản nó đã được khẳng định thực sự”[5,35]. Tuy
chữ Nôm lấy kí tự Hán để ghép từ và ghi âm tiếng Việt song đó là sáng tạo của ông
cha ta. Người Việt đã có một nhà nước phong kiến dân tộc ngày càng vững mạnh và
trên thế đi lên, đã có ý thức về quốc gia với một tinh thần tự cường dân tộc, vì thế
mà cha ông ta đã ý thức được cần có một ngôn ngữ riêng, đặc biệt là chữ viết để
không phải lệ thuộc vào Hán tự của người Trung Hoa. Chữ Nôm được khẳng định
là “một thành tựu văn hóa”[5,11] của những trí thức Việt Nam thời trung đại.
Chữ Nôm xuất hiện là một tiền đề vật chất quan trọng cho sự sáng tạo văn
hóa dân tộc nói chung và văn học nói riêng. Từ thời Trần (cuối thế kỉ XIII) đã khởi
phát một phong trào dùng chữ Nôm để sáng tác văn học với tác giả cụ thể là Hàn
Thuyên. Ông là người giỏi thơ Nôm và được xem là người phổ biến chữ Nôm của
Việt Nam. Tuy nhiên, hầu hết các tác phẩm đã bị thất truyền, còn lại một số tác
phẩm rất ít ỏi. Thời nhà Trần có một số bài phú quốc âm còn lưu giữ trong cuốn
Thiền tông bản hạnh và một số bài dịch kinh Phật như Phật thuyết đại báo phụ mẫu
ân trọng kinh giả âm vào khoảng thời Lê Sơ. Đến thời nhà Lê, Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi ra đời đã đặt một dấu mốc quan trọng cho nền văn học Đại Việt. Từ
đây văn học nước ta tồn tại hai thành phần văn học, đó là văn học chữ Hán và văn

học chữ Nôm. Trong quá trình phát triển, văn học chữ Nôm được khẳng định bằng
rất nhiều những tên tuổi lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyễn….Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du là những kiệt tác trong dòng chảy của văn học
chữ Nôm.
Chữ Nôm xuất hiện và trở thành ngôn ngữ của thơ đã tạo điều kiện thuận lợi
cho văn học dân tộc phát huy những tinh hoa văn học dân tộc đồng thời là chiếc cầu
nối giữa văn học bác học và văn học bình dân. Với ngôn ngữ thơ Nôm, các nhà thơ
thời trung đại đã có thể đưa vào trong tác phẩm của mình những ngôn từ mộc mạc,

22


những hình ảnh dân dã gắn với thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam mà
không hề gò ép, gượng gạo. Ngôn ngữ thơ Nôm trở thành một phương tiện đắc lực
để các nhà thơ thể hiện được đầy đủ những nét văn hóa của người Việt- điều mà
ngôn ngữ thơ chữ Hán không thể chuyển tải hết.
Xét theo định nghĩa văn hóa của Trần Ngọc Thêm thì chữ Nôm là một sản
phẩm của văn hóa trên cả phương diện vật chất và tinh thần do ông cha ta sáng tạo
ra trong quá trình hoạt động sáng tác văn học. Phương diện vật chất của chữ Nôm là
hệ thống kí tự của chữ viết, phương diện tinh thần là chữ Nôm đem lại cho con
người những giá trị thẩm mĩ mới trong văn chương.
1.4. Quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Trãi với thơ Nôm Nguyễn Trãi từ góc
nhìn văn hóa
1.4.1. Cơ sở hình thành quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Trãi
1.4.1.1. Truyền thống văn hóa của gia đình- dòng họ
Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Trãi đã được sống trong một môi trường giáo
dục thuận lợi. Cha là Nguyễn Ứng Long từng đỗ Đệ nhất giáp, Đệ nhị danh, tứ bản
nhãn (1374). Mẹ là Trần Thị Thái - vốn là người có học hành đến nơi đến chốn. Đặc
biệt từ lúc sinh ra cho đến khi lên mười, Nguyễn Trãi được ông ngoại Trần Nguyên

Đán, một quan Tư đồ tài ba, một nhà nho uyên bác, một nhà thơ nổi tiếng dạy dỗ và
thổi vào tâm hồn Nguyễn Trãi những hoài bão và ước mơ sau này.
Trần Nguyên Đán là quan lớn của triều đại nhà Trần. Ông sống vào giai đoạn
suy vi của thời đại nên không tránh khỏi những băn khoăn, ưu tư với thế sự. Ông
suy nghĩ và cảm thấy thẹn vì không hoàn thành được hoài bão an dân từ thuở bình
sinh của mình:
Tam vạn quyển thư vô dụng xử,
Bạc đầu không phụ ái dân tâm.
(Nhâm Dần niên lục nguyệt tác)
(Đọc ba vạn quyển sách mà thành vô dụng
Bạc đầu luống phụ lòng thương dân.)
(Thơ làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần)

23


Chứng kiến mọi diễn biến của thời cuộc, ông đau xót trước tình cảnh dân
lành và luôn trách mình bất lực. Ông luôn sống trong sự giằng xé tâm tư. Về hay ở.
Ở lại chốn quan trường thì ông cũng chẳng làm được gì cho nhân dân bớt khổ đau.
Về ở ẩn hi vọng sẽ tìm thấy sự thanh thản của tâm hồn ở chốn điền viên. Cuối cùng
ông quyết định về ở ẩn. Về Côn Sơn non nước hữu tình, ông được hòa mình cùng
thiên nhiên, mây núi.
Mười năm thơ ấu sống cùng ông ngoại, có thể nói Nguyễn Trãi có ảnh hưởng
lớn từ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Từ cách dạy dỗ, ứng xử đến nhân cách cao
đẹp của một ông quan tài ba, một nhà nho uyên bác, một nhà thơ nổi tiếng đều để
lại những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của Nguyễn Trãi.
Sau khi mẹ và ông ngoại mất, Nguyễn Trãi được cha đưa về Nhị Khê. Ở đây
Nguyễn Ứng Long đã ra công dạy dỗ, kèm cặp các con. Có lẽ người có ảnh hưởng
sâu sắc nhất đến cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi chính là cha của ông.
Nguyễn Ứng Long là một nhà nho, ông không chỉ đem kinh thánh, truyện hiền ra

làm bài giảng mà ông còn “chuyên chú chép truyện trồng cây để dạy bảo trẻ nhỏ”.
Có lẽ chính những bài giảng đầu tiên của Nguyễn Ứng Long đã bồi đắp, nuôi dưỡng
cho Nguyễn Trãi tình yêu đối với cỏ cây nói riêng và đối với thiên nhiên nói chung.
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1940), Hồ Qúy Ly lật đổ nhà Trần, dựng ra
nước Đại Ngu. Nguyễn Ứng Long được bổ làm quan. Ông đổi tên thành Nguyễn
Phi Khanh và dũng cảm ra làm quan cho nhà Hồ khi nhà Trần sụp đổ (trái với quan
niệm chính thống “tôi trung không thờ hai chủ”). Một con người hiểu nhân tình thế
thái, kiên trì chí hướng ra làm quan để cứu nước, giúp đời trong suốt 26 năm ròng
đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Trãi. Vì thế cũng trong năm này, nhà
Hồ mở khoa thi đầu tiên. Nguyễn Trãi đã ra thi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), sau đó
ra làm quan cho nhà Hồ cùng cha thực hiện lí tưởng giúp dân, giúp nước.
Năm 1406, giặc Minh do Trương Phụ chỉ huy mở cuộc xâm lược nước Đại
Ngu. Nhà Hồ mang quân ra chống cự nhưng bị quân Minh đánh bại. Cha con Hồ
Qúy Ly và các triều thần bị bắt đưa về Trung Quốc trong đó có Nguyễn Phi Khanh.
Nguyễn Trãi và em là Nguyễn Phi Hùng đã đi tìm cha và theo đoàn xe tù lên ải

24


Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.
Nhận thức được chuyến đi này sẽ không bao giờ được trở về Tổ quốc và nhận thấy
được năng lực của Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Khanh đã dặn con rằng: “Con là người
có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại
hiếu” rồi bảo Nguyễn Trãi quay trở về. Thấy lời dạy của cha là chí lí, Nguyễn Trãi
gạt nước mắt quay trở lại. Qua bao nhiêu gian khổ, nhọc nhằn, ông cùng Lê Lợi và
nghĩa quân Lam Sơn đánh bại quân Minh xâm lược đưa đất nước bước vào một thời
kì phát triển hưng thịnh.
Nguyễn Trãi không chỉ có ảnh hưởng từ gia đình mà còn có sự ảnh hưởng
không nhỏ từ dòng họ. Trở về với gốc tích cội nguồn họ Nguyễn ở thôn Chi Ngại,
truyền thuyết của dòng họ kể rằng: Tổ tiên dòng họ là Thái Tể triều Đinh- Định

Quốc Công Nguyễn Bặc (924- 979) có công giúp Đinh Bộ Lĩnh thống nhất 12 sứ
quân để lập ra triều Đinh. Cụ tổ Nguyễn Công Luật và ông nội Nguyễn Minh Du
của Nguyễn Trãi đã cùng với các thành viên trong dòng họ là tướng thời Trần Phế
đế chống lại Hồ Qúy Ly. Đến Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư là anh ruột của Nguyễn
Ứng Long cũng là quan võ thời hậu Trần chống giặc Minh cứu nước. Có thể nói đây
là một dòng họ có truyền thống thượng võ, xả thân vì nghĩa lớn. Chính tinh thần ấy
của những bậc tiền bối đã thôi thúc tinh thần vì nước, giúp đời của các thế hệ cháu
con như Nguyễn Trãi.
Như vậy có thể nói, gia đình và dòng họ có ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn
Trãi. Gia đình và dòng họ là mảnh đất tốt giúp cho nhân cách, tài năng, tư tưởng,
tình cảm của Nguyễn Trãi hình thành và phát triển. Trong số những ảnh hưởng đó
cần nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng, tác động trực tiếp và lâu dài trong suốt cuộc đời
của Nguyễn Trãi là người ông ngoại Trần Nguyên Đán và người cha Nguyễn Phi
Khanh. Hai nho sĩ, hai ông quan, hai nhà thơ với nhân cách cao thượng, với tư
tưởng thân dân chính là nguồn nuôi dưỡng cho sự phát triển tài năng và nhân cách
của anh hùng giải phóng dân tộc, của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi.
1.4.1.2. Từ cuộc đời của Nguyễn Trãi

25


×