Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiếng hát con tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.59 KB, 11 trang )

Tiếng hát con tàu
Chế Lan Viên
I. Về tác giả CLV
1. Giới thiệu chung
a) Tr ớc CM
Khi CLV xuất hiện trên thi đàn với tập Điêu tàn ngời ta coi xự xuất hiện
này nh một niềm kinh dị (cách nói của Hoài Thanh)
Sở dĩ nh thế bởi vì CLV đã dựng lên trong thơ ông một thế giới của cõi âm
với đầy những sọ dừa, xơng máu, yêu ma. Chúng ta bắt gặp rất nhiều những câu
nh:
Những cảnh ngàn sâu cây là ngọn
Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi.
CLV coi việc trở về cõi âm nh là sự phản kháng lại cõi dơng. Ông còn có
một thái độ phủ nhận thực tại:
"Hãy cho tôi một tinh cầu lạnh giá
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những u phiền đau khổ với buồn lo".
Hoặc:
"Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian'
Có lẽ bởi vì thế mà cùng với HMT, CLV đã trở thành chủ soái của trờng
phái thơ điên.
Tuy nói vậy song thơ CLV trớc CM vẫn có yếu tố tích cực. Bằng sự phủ
nhận thực tại CLV muốn bày tỏ một cách kín đáo lòng yêu nớc của mình. Ông tự
nhận mình là nhà thơ của giống dân hời mất nớc. Và có lẽ cũng vì thế mà ông
chọn bút danh họ Chế.
1
b) Sau CM
CLV bế tắc im lặng suốt mời mấy năm trời không viết đợc một câu thơ nào.
Tuy nhiên chính thời gian đó ông đã làm một cuộc tự đổi thay. Và cho đến năm


1958 ông mới sáng tác trở lại với tập ánh sáng và phù sa. Từ đó trở đi CLV viết
rất đều. Các sáng tác tiêu biểu nhất là các tập Hoa ngày thờng chim báo bão, Hoa
trớc lăng ngời.
CLV là một nhà thơ thiên về trí tuệ. Đọc thơ ông chúng ta luôn luôn gặp
những câu có tính chất châm ngôn, triết lý - một thứ châm ngôn độc đáo xác thực,
không xa lạ với mọi ngời. Có những điều rất thờng cũng đợc CLV viết một cách
sắc sảo và mang tính phát hiện:
"Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất"
Hay là:
"Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con"
Cái hay trong thơ CLV là có rất nhiều câu nếu đứng tách riêng, nó vẫn có ý
nghĩa độc lập thâm thúy của nó.
II. Về tác phẩm
1. Đi tìm ý nghĩa tiêu đề
Lúc CLV viết bài thơ này, cả nớc đang dấy lên phong trào khai hoang ở
miền núi. Vì thế sẽ có rất nhiều ngời nghĩ rằng CLV viết bài thơ này theo đơn đặt
hàng nhằm cổ vũ cho phong trào đó. Nhng vốn là tác giả thiên về trí tuệ CLV
không bao giờ bằng lòng với mục đích ấy. Ông muốn qua bài thơ này để nói lên
những ý tởng, những suy ngẫm hết sức sâu sắc của ông ấy về cuộc sống và NT.
Tên bài thơ là Tiếng hát con tàu và hình tợng chủ đạo là con tàu lên Tây bắc.
Nhng đến tận lúc CLV viết bài thơ này, thậm chí đến tận bây giờ làm gì có con tàu
nào lên Tây bắc. Nh thế đã quá rõ ràng là hình tợng con tàu chỉ là hình tợng h cấu
để CLV gửi gấm vào đó cái khát vọng đợc lên đờng. Đối với một ngời đã từng bế
tắc, đã từng luẩn quẩn trong những triết lí siêu hình thì lên đờng chính là 1 biện
2
pháp nhằm giúp cho tác phẩm thoát khỏi cái tôi nhỏ hẹp để hòa nhập với cái ta
chung của đất nớc .
Hình tợng con tầu ngoài ý nghĩa về nhân sinh còn nói trên còn nói rõ những

suy ngẫm sâu sắc của CLV về NT. Việc lên đờng để thoát khỏi cái tôi cá nhân hòa
nhập với cái ta chung còn là con đờng tất yếu để CLV tìm lại cảm hứng NT đã mất.
Ông biết rất rõ ngời nghệ sĩ chỉ có đợc sáng tạo NT khi rộng mở tâm hồn mình để
đón nhận những âm vang của cuộc sống ngoài kia. Điều này đối với CLV hết sức
thấm thía bởi ông đã từng nghĩ về nó tới mời mấy năm trời.
Nh vậy có thể thấy rõ hình tợng con tàu trong thơ CLV vừa mang ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc, vừa mang ý nghĩa nghệ thuật. Và nh vậy thì Tiếng hát con tàu
cũng có nghĩa là khúc hát nghệ thuật.
2. Bố cục bài thơ:
Bài thơ gồm 15 khổ:
- Hai khổ đầu nhà thơ dùng lối đối thoại (đối thoại với một ngời nào đó,
một ngời mà nhà thơ gọi là anh. Ngời này cứ ở lì HN chẳng chịu đi đâu). Nhng
nếu để ý 1 chút ta sẽ thấy ngay đối thoại chỉ là hình thức bên ngoài còn thực chất
là độc thoại. CLV đang say sa nói với chính con ng ời cũ của ông để đợc lên đờng
thanh thản.
- Chín khổ thơ tiếp theo CLV nói rõ những nhận thức sâu kín của ông về
mảnh đất Tây Bắc nơi ông sẽ đến, về giá trị tinh thần của cuộc kháng chiến đã
qua. Tiếp đó CLV ôn lại những kỉ niệm về những ngời Tây Bắc tình nghĩa - những
ngời đã từng cu mang đùm bọc ông. Cuối cùng, nhận thức ấy, tình cảm ấy, kỉ niệm
ấy đã giúp CLV chuyển hóa thành triết lí.
- 4 khổ thơ cuối có thể đợc coi là khúc hát lên đờng.
3. Tìm hiểu bài thơ:
Bài thơ THCT khi đầu có tên là Con tàu Tây Bắc đợc in trong tập ánh sáng
và phù sa. Tên của tập thơ có ý nghĩa: ánh sáng của lý tởng của Đảng soi rọi và
và phù sa của cuộc đời bồi đắp.
a) Phân tích khổ thơ đề từ.
Tây Bắc ? Có riêng gì Tây Bắc
3
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
Khác với tất cả các bài thơ khác chỉ có 1 lời đề tặng, hoặc 1 lời đề từ. (Đề
tặng thì chẳng có gì đáng nói, còn những lời đề từ thờng là sự tóm tắt ý tởng nhà
thơ muốn gửi gắm vào bài thơ) ở bài THCT, CLV không phải chỉ viết 1 lời đề từ
mà ông viết hẳn 1 khổ thơ đề từ. Khổ thơ này không đợc CLV viết theo logic của
cảm xúc mà đợc ông viết theo logic của lập luận theo kiểu giả định, khẳng định:
+ Câu thơ mở đầu chính là một câu giả định. Tây Bắc ? Có riêng gì TB.
Nếu câu thơ dừng lại ở Tây Bắc ? thì đó có thể là một đang đợc xác định. Nhng
khi thêm vế sau Có riêng gì TB thì r õ ràng địa danh TB đã trở thành một địa
danh giả định. Cho nên điều mà CLV muốn muốn khẳng định chính là ở câu Khi
lòng ta đã hoá những con tàu.
Trong câu thơ này chúng ta thấy có sự gặp gỡ giữa ý muốn chủ quan của
ta cái tôi nhà thơ với đòi hỏi khách quan của đất nớc. Ta thì khao khát cống
hiến tài năng và sức lực của mình (điều kiện chủ quan) còn Tổ Quốc thì đang lên
tiếng gọi mọi ngời lên đờng (điều kiện khách quan). Chính lô gíc này đã tạo nên
con tàu trong tâm tởng trong lòng ta.
Hai câu cuối là lôgíc tình cảm. Thứ lô gic đợc tạo nên bởi một quan niệm
hết sức mới mẻ về quê hơng. Quê hơng theo ông không phải chỉ là nơi sinh ra và
lớn lên, mà quan trọng hơn đó còn là nơi cần ta đến, và chính ta cũng tự nguyện
đến đó để cống hiến. Và với qua niệm nh vậy thì bất kì một mảnh đất nào trên Tổ
Quốc VN này sẽ trở nên quê hơng thứ 2, nơi hóa tâm hồn chúng ta.
Chính vì lô gíc này cái kết luận "tâm hồn ta là TB chứ còn đâu" nghe nh đợc
rút ra từ một chân lý nào đó. Nó giản dị nhng vô cùng bất ngờ. Thậm chí bất ngờ
ngay cả với chính tác giả.
b) Phân tích 2 khổ thơ đầu.
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
4
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nớc mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
(Trong thủ thuật sáng tác, nhiều khi để cho việc thể hiện t tởng tình cảm của
mình đợc thoải mái tự nhiên, các tác giả thờng chủ động tạo nên một cuộc đối thoại
trong tởng tợng mà về thực chất nó chỉ là một cuộc độc thoại trong tâm tởng mà thôi.
Nhà thơ HC cũng mở đầu bài thơ BKSĐ của mình theo cách ấy: Em ơi buồn .....
sông Đuống)
Khổ thơ bắt đầu bằng hàng loạt các câu hỏi. Câu đầu tiên giống nh sự dò
xét thái độ: Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Với câu hỏi nh thế ngời đọc có quyền nghĩ bài thơ bắt đầu bằng một cuộc
đối thoại. (Ngời hỏi là ai? Theo suy đoán thì chắc chắn phải là ngời quan tâm tới
tác giả hoặc quan tâm tới cuộc vận động khai hoang ở miền núi. ..Và cứ theo suy
đoán nh vậy thì gần suốt hai khổ thơ ngời bạn ấy liên tiếp đa ra những câu hỏi
khác nhau để dò xét, để trách móc, thậm chí phê phán).
Tuy nhiên nếu chúng ta hiểu đợc hoàn cảnh của CLV qua lời bộc bạch của
ông lúc đó: Bài con tàu TB đợc viết ra từ một tâm trạng riêng. Hồi ấy tôi yếu,
không đi đâu đợc và tự đặt câu hỏi nếu mình không đi đợc thì sao? chúng ta sẽ
thấy đó chỉ là một cuộc độc thoại.
4 câu thơ đầu đợc viết rất tự nhiên nên chân thành và tha thiết. ở đây tác giả
đã làm một phép so sánh. Sự lên đờng của mọi ngời và sự cha lên đờng của nhân
vật anh tác giả. Sự so sánh này vừa để trình bày vừa để cởi mở bộc bạch một
thực tế một thực tế làm ông nhức nhối tâm can: Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà
Nội. Trong thực tế nếu không có lý do chính đáng để ở lại thì sự không lên đờng
đồng nghĩa với sự chạy chốn, sự tránh né gian khổ để hởng thụ. Cho nên nếu
không phải chính nhà thơ nhìn ra thì câu thơ sẽ là lời phê phán, chỉ trích nặng nề.
Đằng này có cảm giác nh tác giả đang say sa với chính mình. Câu thơ vì thế vừa là
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×