Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tieu luan công tác phát triển đảng viên ở tỉnh u đôm xay, nước CHDC ND lào tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.27 KB, 23 trang )

A. MỞ ĐẦU
Đảng Nhân đân Cách mạng Lào là bộ tham mưu chính trị, là đội tiền
phong có tổ chức của giai cấp công nhân, là đại diện cho lợi ích của dân tộc
và quần chúng nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước và tiến bộ, là hạt
nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân.
Phát triển đảng viên có một vai trò rất quan trọng trong toàn bộ công
tác xây dựng Đảng. Phát triển đảng viên là nhằm tăng thêm nguồn sinh lực
mới cho Đảng, trẻ hoá đội ngũ đảng viên và đảm bảo sự kết thừa về lực
lượng cũng như đường lối chính trị trong cuộc đấu tranh cách mạng. Chính
vì vậy hơn 50 năm qua, trong các chủ trương về công tác xây dựng Đảng,
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn chú trọng đến phát triển đảng viên, coi
đây là một việc làm có tính quy luật và có ý nghĩa chiến lược.
Trong thời kỳ mới, công tác phát triển đảng viên có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.
Đảng phải đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong tất cả các ngành,
các cấp, các lĩnh vực, ở tất cả các thành phần kinh tế, các dân tộc, các giới,
các vùng và các miền của đất nước. Có như vậy, Đảng mới có được một đội
ngũ đảng viên đều khắp nơi, để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, đối
với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Là một tỉnh miền núi, tỉnh U Đôm Xay, nước CHDC ND Lào. Với sản
xuất nông lâm nghiệp là chủ yếu, phần lớn đội ngũ đảng viên xuất thân từ
nông dân và gắn bó lâu đời với nông nghiệp nông thôn. Trong những năm
gần đây, mặc dù đã có sự chỉ đạo tích cực của Đảng bộ tỉnh về công tác phát
triển đảng viên ở các tổ chức đảng nông thôn song vẫn chưa có sự chuyển
biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng một số bản trong một số huyện số lượng đảng
viên còn khiêm tốn. Bởi vậy, phải hơn lúc nào hết, tăng cường công tác phát
triển đảng viên để bổ sung đội ngũ và sức chiến đấu cho các tổ chức cơ sở
đảng nông thôn đang là vấn đề hết sức quan trọng.
1



B. NỘI DUNG:
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
1. Khái niệm đảng viên.
Theo Điều lệ Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được Đại hội Đảng lần
thứ VII nêu ra: “đảng viên là những công dân Lào từ 18 tuổi trở lên, trải
qua rèn luyện và thử thách trong phong trào cách mạng của quần chúng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, có sự giác ngộ chính trị theo ý tưởng của Đảng,
được thử thách trong công tác thực tế, nhất trí thực hiện Điều lệ Đảng,
cương lĩnh chính trị của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Sẵn
sàng thừa nhận và làm tròn nhiệm vụ được giao, có lý lịch rõ ràng, có phẩm
chất đạo đức cách mạng, gương mẫu trong công tác, có lối sống lành mạnh,
cần cù không bóc lột, có kiến thức năng lực trong tổ chức thực hiện nhiệm
vụ chính trị của Đảng, tự nguyện tham gia sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng
và đóng đảng phí theo quy định đều có thể kết nạp vào Đảng. Đối với đảng
viên thuộc đảng phái chính trị khác không được kết nạp vào Đảng Nhân dân
Cách mạng Lào”(1).
Trong Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi: “Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời hy sinh phấn đấu cho mục đích, lý
tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động lên trên lợi ích cá nhân, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,có lao
1. Đảng NDCM Lào (1992), Điều lệ Đảng, thông qua tại Đại hội Toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Quân đội, Viêng Chăn.

2


động không bóc lột, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, có đạo đức và
lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân phục tùng tổ chức, kỷ luật

của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
“Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên thừa nhận và thực hiện cương
lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động
theo một tổ chức cơ sở đảng, qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được
nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét kết nạp vào Đảng” (1).
2. Một số quan điểm về đảng viên và công tác phát triển đảng viên
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
vị trí, vai trò và công tác phát triển đảng viên.
Mác - Ăngghen đã nêu: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là
bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ
phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận
còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và
kết quả chung của phong trào vô sản” (2).
Theo Lênin: “Tất cả những người nào thừa nhận cương lĩnh của
Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất cũng như bằng
cách tự mình tham gia một trong những tổ chức Đảng, thì được coi là đảng
viên” (3).
Trong quá trình phát triển đảng viên mới, Lênin chỉ rõ cần quan tâm
phát triển những người lao động mới: “Làm sao cho số người lao động mới
xuất thân trong quần chúng gia nhập Đảng được ngày càng nhiều hơn để
chính bản thân họ tham gia xây dựng cuộc sống mới” (4).
Khi phát triển đảng viên mới, Lênin lưu ý phải không ngừng làm tốt
1) Điều lệ ĐCS Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2006.
2) Mác - Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 614-615 - 1995.
3) Lênin: Sđd, 1979, tập 8, tr. 268.
3


4) Lênin toàn tập. Nxb Tiến bộ Matxcơva. Tập 39, tr 258 – 1977.


công tác huấn luyện, giáo dục chính trị tư tưởng, giao nhiệm vụ thử thách và
bồi dưỡng để đáp ứng với công việc được giao: “Điều chúng ta cần phải
quan tâm hiện nay là sử dụng một cách đúng đắn những đảng viên mới, cần
phải đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ đó, vì nó không phải là một nhiệm vụ dễ
dàng, mà là một nhiệm vụ mới, nếu dùng công thức cũ, cứng nhắc thì không
thể giải quyết được” (1).
Việc kết nạp đảng viên mới là việc làm thường xuyên của Đảng nhưng
phải thận trọng, cụ thể và theo Lênin thì không phải lúc nào cũng mở rộng
cửa Đảng mà phải tuỳ tình hình yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng hết sức thận
trọng, Lênin rất ủng hộ “Tuân lễ Đảng” bởi vì: “Chúng ta tin ở những đảng
viên đã gia nhập hàng ngũ chúng ta trong giờ phút khó khăn…những đảng
viên ấy xứng đáng để chúng ta tín nhiệm. Chúng ta coi trọng sử mở rộng
như thế của Đảng” (2).
Kế thừa những di sản quý báu của Lênin, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng và công tác phát triển
Đảng, Người căn dặn: “về vấn đề phát triển Đảng. Phải chọn lọc đảng viên
mới một cách hết sức cẩn thận”, “Đảng phải phát triển tổ chức của mình
một cách thận trọng, vững chắc và rộng rãi trong quần chúng” (3).
Hồ Chí Minh khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh,
Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”.
Theo tư tưởng của Bác, làm tốt công tác phát triển Đảng là một việc
làm cần thiết, quan trọng nhưng phải thường xuyên coi trọng chất lượng và
chất lượng đảng viên được coi trọng từ khi mới kết nạp. Do vậy, trong các
báo cáo và văn kiện Đại hội Đảng đều nhấn mạnh: “Phải ra sức chấn chỉnh
1) Lênin toàn tập. Nxb Tiến bộ Matxcơva. Tập 39, tr 267.
2) Lênin toàn tập. Nxb Tiến bộ Matxcơva. Tập 39, tr 407.
4


3) Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng. Nxb Sự thật. Tr 122 – 137. Hà Nội – 1980.


công tác kết nạp đảng viên theo phương châm coi trọng chất lượng, chống
khuynh hướng chạy theo số lượng đơn thuần, phát triển Đảng phải luôn đi
đôi với củng cố Đảng, công tác phát triển Đảng phải luôn luôn lấy tiêu
chuẩn làm cơ sở và phải được chỉ đạo chặt chẽ”(1). Văn kiện Đại hội cũng
khẳng định: “Điều quan trọng là phải bảo đảm chất lượng đảng viên ngay
từ khi lựa chọn kết nạp. Đối với những cơ sở yếu kém, cấp Uỷ cấp trên phải
chỉ đạo chặt chẽ việc củng cố tổ chức cơ sở này trước khi kết nạp đảng viên
mới”(2).
2.2. Quan điểm của Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản và Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào về vị trí, vai trò và công tác phát triển đảng viên.
Kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cay
Sỏn Phôm Vi Hản đã nhận thức sâu sắc về vai trò của đảng viên và luôn
quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ đảng viên. Người khẳng định:
“đảng viên là đội tiên phong, là nhân tố quyết định tất cả. Đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng dù đúng đến mấy, nếu cán bộ, đảng viên thiếu
kiến thức, năng lực về các mặt để lãnh đạo và tổ chức thực hiện, thì đường
lối chủ trương đó cũng chỉ đúng trên giấy mà thôi” (3). Đảng viên luôn luôn
là chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân và là lực lượng nòng cốt trong
các phong trào cách mạng. Vai trò tiên phong trước hết được thể hiện trong
việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng. Đảng
viên là người dẫn đầu phong trào quần chúng, là người đi tiên phong và lôi
cuốn quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, biến chủ trương, đường lối
đó thành hiện thực cuộc sống. Không có đảng viên mạnh, chất lượng cao thì
đường lối, chính sách của Đảng có đúng đắn mấy cũng không trở thành hiện
thực.
(1), (2) Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng. Đại hội VI của ĐCS Việt Nam.

5



3) Cay Sỏn Phôm Vi Hản. Phát biểu tại Đại hội Ban tổ chức toàn quốc lần thứ VII (17-61991). Nxb Ban tổ chức Trung ương – 2001.

3. Tính cấp thiết của công tác phát triển đảng viên.
Công tác phát triển đảng viên là một nội dung rất quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng. Nó càng quan trọng hơn khi đặt trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể vì bất cứ đảng chính trị nào đều giống như một cơ thể sống.
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cũng vậy. Số lượng đảng viên của Đảng
theo thời gian sẽ bị hao hụt. Hiển nhiên là như vậy. Đây là xét về một phía.
Số lượng hao hụt này là những nhóm sau đây:
+ Nhóm già và qua đời. Đây là sự hào hụt tự nhiên do quy luật của
sinh học.
+ Nhóm người tự ý loại mình ra khỏi danh sách đảng viên. Đây là
hiện tượng mới kể từ khi đất nước chúng ta bước vào cơ chế thị trường.
+ Nhóm bị khai trừ ra khỏi Đảng. Hằng năm, con số này ở Việt Nam
phải lên đến hàng vạn. Đây cũng là quá trình rất tự nhiên của một cơ thể
sống.
Trên đây là ba nhóm hao hụt diễn ra thường xuyên mà nếu để bảo đảm
số lượng ở mức cân bằng bình thường cho từng năm, từng thời kỳ thì phải
kết nạp thêm đảng viên mới bù đắp, ít ra cho đủ số đã hao hụt. Nhưng vấn đề
cấp thiết của công tác phát triển đảng viên trước hết không phải là bù đắp
cho sự thiếu hụt hàng năm, không phải là trước hết tăng số lượng. Vấn đề cơ
bản nhất, thuộc về bản chất nhất là yêu cầu về chất lượng. Ở đây có cả vấn
đề lý luận lẫn thực tiễn, kể cả những kinh nghiệm lịch sử ở trong nước và thế
giới.
4. Những yêu cầu và tiêu chuẩn của người được kết nạp vào Đảng.
Người phấn đấu vào Đảng trong thời kỳ mới cần phải bảo đảm một số
yêu cầu và tiêu chuẩn sau:
6



Một là, Bất luận hoàn cảnh như thế nào thì công tác phát triển đảng viên
phải nhất quán giữ vững và tăng cường không ngừng bản chất giai cấp công
nhân của Đảng Cộng sản.
Hai là, Phải xác định đúng đắn tiêu chuẩn đảng viên cũng như xây dựng
được quy trình kết nạp đảng viên một cách khoa học, chặt chẽ.
Ba là, Về phẩm chất chính trị tư tưởng. Phẩm chất chính trị tư tưởng của
người đảng viên luôn luôn là yêu cầu, tiêu chuẩn hàng đầu, cơ bản nhất.
Trước hết, người phấn đấu vào Đảng phải tuyệt đối trung thành với lý
tưởng của Đảng, tự nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng, cho lợi ích của nhân dân.
Bốn là, Để phấn đấu trở thành người đảng viên – người lãnh đạo, yêu cầu
tiêu chuẩn chung về trình độ, kiến thức, năng lực của người phấn đấu vào
Đảng trong thời kỳ mới đòi hỏi phải cao hơn, phải giỏi hơn và toàn diện hơn
quần chúng, am hiểu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và
đường lối quan điểm của Đảng.
Năm là, Người phấn đấu vào Đảng, phải có kiến thức văn hoá toàn diện,
am hiểu pháp luật, có trình độ học vấn nhất định để nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân, giải đáp những thắc mắc của nhân dân, có thể bày vẽ
cho nhân dân cách làm ăn.
Sáu là, Về nguyên tắc, yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ học vấn của người
phấn đấu vào Đảng đòi hỏi phải cao hơn mặt bằng trình độ học vấn của quần
chúng nơi họ công tác và sinh hoạt.
Bảy là, Về phẩm chất đạo đức:
Trong điều kiện kinh tế thị trường là phải có lối sống trong sạch, lành
mạnh, không tham nhũng và có thái độ kiên quyết đấu tranh với các hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng, lối sống thực dụng trong xã hội.

7



Yêu cầu, tiêu chuẩn người phấn đấu vào Đảng trong thời kỳ mới là
toàn diện cả đức và tài, cả trình độ, năng lực, đạo đức và tác phong công tác.

II. THỰC TRẠNG TRONG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
MỚI TỪ NĂM 2001 – 2005 Ở ĐẢNG BỘ TỈNH U ĐÔM XAY – NƯỚC
CHDC ND LÀO.
1. Ưu điểm:
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào có nhiều chủ trương quan trọng đảm bảo cho việc phát triển kinh tế,
chính trị, văn hoá của đất nước trong thời kỳ mới. Cùng với các chủ trương
trên là việc tập trung nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó có chú ý thích đáng đến
công tác phát triển Đảng. Cùng với các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, tỉnh
Uỷ U Đôm Xay đã lãnh đạo các cấp Uỷ Đảng từ tỉnh đến các huyện và cơ sở
tổ chức triển khai nghị quyết của Trung ương và nghị quyết đại hội Đảng bộ
tỉnh.
Về xây dựng Đảng, tỉnh Uỷ U Đôm Xay xác định công tác phát triển
Đảng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác đổi mới nhằm
tăng thêm sinh lực cho Đảng, bảo đảm tính liên tục, kế thừa, phát triển, từng
bước trẻ hoá đội ngũ đảng viên đáp ứng với yêu cầu trước mắt và lâu dài.
Qua khảo sát cụ thể trong khu vực nông thôn tỉnh U Đôm Xay hiện
nay (2005) có 592 chi bộ, số đảng viên là 6.234 người, trong đó có 874 đảng
viên nữ.
Số đảng viên của tỉnh U Đôm Xay nhìn chung không đông làm và
phân bố chưa đồng đều, đến nay còn 31 cơ sở (bản) trắng đảng viên. Phần
lớn đảng viên hoạt động trong cơ quan Nhà nước, lĩnh vực nông nghiệp,
8



sống bằng nghề nông và thợ thủ công là chính. Tổng số đảng viên năm 2001
là 4.461 người, trong đó có 569 đảng viên nữ; năm 2002 tổng số đảng viên
là 5.176 người, 622 nữ; năm 2003 tổng số là 5.702 người, 762 nữ; năm 2004
tổng số là 6.166 người, 854 nữ và 2005 tổng số là 6.234 người và 874 nữ.
Về độ tuổi: tuổi 60 trở lên có 97 người, tuổi 50 – 59 có 857 người,
tuổi 40 – 49 có 2.952 người, tuổi 18 – 39 có 2.328 người.
Phân bố theo dân tộc: Dân tộc Lào Lùm là 5.224 người, trong đó có
809 đảng viên nữ; dân tộc Lào Thơng là 833 người, trong đó có 41 đảng
viên nữ; dân tộc Lào Sủng là 177 người, trong đó có 18 đảng viên nữ.
Với sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác phát triển
đảng viên trên cơ sở nắm vững phương châm xây dựng chi bộ theo chỉ thị
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng trong công tác xây dựng củng cố cơ sở đảng
vững mạnh, toàn diện. Mặt khác, các cấp uỷ đảng nhận thức đúng vị trí, tầm
quan trọng của công tác phát triển đảng viên đã biết phát huy trách nhiệm
của đảng viên tích cực của quần chúng trong việc giới thiểu người ưu tú cho
Đảng. Số đảng viên được kết nạp năm 2002 là 715 người; 2003 là 526
người; 2004 là 464 người và 2005 là 68 người.
Công tác phát triển Đảng đã góp phần tích cực trong công tác tạo
nguồn bổ sung cho cán bộ lãnh đạo các cấp. Nhiều tổ chức cơ sở đảng được
tăng về số lượng, chất lượng, từng bước trẻ hoá đội ngũ đảng viên.
Công tác phát triển Đảng đã góp phần thúc đẩy các nhiệm vụ chính trị
của địa phương và đơn vị. Trong những năm qua đảng viên cơ sở cùng với
quần chúng tích cực tham gia các hoạt động cách mạng, vận động quần
chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
2. Hạn chế:

9



Công tác phát triển đảng viên phần lớn đúng Điều lệ của Đảng và thực
hiện đúng các bước phát triển đảng viên và những đảng viên đã được kết nạp
đều là những người có học vấn, có năng lực, có phẩm chất đạo đức và tiêu
biểu trong thực tế của các phong trào. Tuy nhiên, số đảng viên được kết nạp
hàng năm chưa ổn định, sự giảm sút về phát triển đảng viên trong thời gian
qua là một trong những nguyên nhân làm cho năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của đảng viên chưa đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Việc kết nạp đảng viên giảm là do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân về chất lượng kết nạp ngay từ đầu không đảm bảo theo tiêu
chuẩn Điều lệ Đảng.
Thủ tục kết nạp còn làm chậm, phân công đảng viên theo dõi đối
tượng chưa liên tục, nên việc báo cáo lại không theo một thời điểm nhất
định.
Các tổ chức đoàn thể chưa phát huy hết trách nhiệm trong xây dựng
Đảng, việc giới thiệu quần chúng ưu tú còn ỷ lại cho cấp trên, không năng
động hoặc có giới thiệu nhưng chi bộ, đảng bộ chưa quan tâm đúng mức.
Do cán bộ làm công tác đảng chỉ là kiêm nhiệm nên nhiều khi chậm
chạp, chồng chéo với công tác chuyên môn, có cán bộ được phân công làm
công tác đảng còn coi nhẹ nhiệm vụ phát triển đảng viên mới.
Từ thực trạng số lượng đảng viên kết nạp trong thời gian qua (2001 –
2005) so với yêu cầu nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới hiện nay thì còn
thấp, phân bổ lại không đồng đều giữa các vùng, các cơ sở.
Hiện tượng chạy theo số lượng đơn thuần vẫn còn ở một số chi bộ,
nên khi xem xét đơn xin vào Đảng không căn cứ vào tiêu chuẩn đảng viên
mà điều lệ Đảng quy định, không chú trọng giao nhiệm vụ thử thách cho đối
tượng, còn có hiện tượng khoán trắng cho tổ chức và đảng viên được phân
công, chưa sâu sát kiểm tra kỹ lưỡng nên có người mắc khuyết điểm cơ hội,
10



động cơ vào Đảng không đúng đắn vẫn được kết nạp vào Đảng làm tổn hại
đến uy tín của Đảng.
Từ thực trạng trên có thể thấy rằng các nguyên nhân cơ bản, chủ yếu
về chủ quan và khách quan như sau:
3. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong công tác phát triển
Đảng.
3.1. Nguyên nhân về ưu điểm:
Từ nội dung thực trạng trên đây của đảng viên tỉnh U Đôm Xay cho
chúng ta thấy một số mặt tích cực của thực trạng đó đều do nguyên nhân sau
đây:
+ Thứ nhất: Đảng NDCM Lào có đường lối, chính sách đúng đắn. Bộ
chính trị có Nghị quyết chỉ đạo thường xuyên, có quy chế pháp luật nghiêm
chỉnh, có sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp và gần gúi của bí thư tỉnh uỷ, huyện
uỷ đối với những người lãnh đạo ở các tổ chức chính trị – xã hội, đó là cơ
sở, là động lực khơi dạy tiền năng, thế mạnh sức sáng tạo của đảng viên
nông thôn tỉnh U Đôm Xay, tìm cách vươn lên khắc phục khó khăn, thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, trong
đó nhiệm vụ đặc biệt quan trọng hàng đầu là công tác phát triển Đảng có
chất lượng cao.
+ Thứ hai: Nhận thức của cấp uỷ Đảng và đảng viên về công tác phát
triển Đảng được nâng lên, đảng viên thấy được vai trò trách nhiệm của mình
đối với công tác này đã chủ động tạo nguồn đi sâu vào giác ngộ quần chúng
để có đủ điều kiện phát triển học vào Đảng.
+ Thứ ba: Các tổ chức quần chúng nhất là tổ chức đoàn các cấp từ tỉnh
đến huyện và các cơ sở đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, thu hút được đông đảo quần chúng vào các tổ chức,
đã tạo ra nhiều phong trào phù hợp, đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng thiết
11



thực của quần chúng. Từ đó phong trào cách mạng đó đã xuất hiện những
nhân tố tích cực là nguồn để giới thiệu cho Đảng xem xét, bồi dưỡng kết
nạp.
+ Một số cấp Uỷ Đảng và chính quyền cơ sở đã có sự đổi mới trong nhận
thức đánh giá quần chúng và lực lượng thanh niên. Từ đó tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, tạo điều kiện cho các tổ chức hoạt động.
3.2. Nguyên nhân hạn chế:
+ Nguyên nhân khách quan:
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, sự sụp đổ tan
rã của các nước Đông Âu và Liên Xô, trước sự phản công quyết liệt của chủ
nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế vào phong trào cộng sản và công
nhân, cùng với sự xuất hiện của khuynh hướng tư tưởng cơ hội chủ nghĩa
phê phán xuyên tạc hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin và các thể lực
thù địch luôn luôn tìm mọi cách chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa làm cho
một số đối tượng giác ngộ thấp hoang mang dao động, lo sợ không dám
phấn đấu vào Đảng.
Với những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới, tình
hình trong nước nói chung, cũng như ở tỉnh U Đôm Xay nói riêng cũng đặt
ra nhiều thách thức lớn xuất phát điểm của nền kinh tế địa phương quá thấp,
giao thông đi lại khó khăn, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất
theo tập quán và còn phụ thuộc vào thiên nhiên, nguồn thu ngân sách địa
phương còn thấp, đầu tư cho sản xuất, kết cấu hạ tầng và các vấn đề xã hội
còn hạn hẹp, trình độ dân trí thấp, trước sự tác động toàn diện, mạnh mẽ của
những yếu tố đó đã làm cho một bộ phận quần chúng hoài nghi giảm lòng
tin, không tự giác phấn đấu vào Đảng.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở địa bàn tỉnh đang đặt ra cấp thiết, có
nơi tìm được hướng chuyển đổi, có nơi còn chưa rõ, có nơi chuyển đổi
12



nhưng cơ cấu chưa vững. Đời sống nhân dân vẫn khó khăn, hàng loạt lao
động chưa có việc làm, không có thu nhập, đi tìm công ăn việc làm. Do đó
không có điều kiện hoạt động trong các đoàn thể, không có điều kiện để giáo
dục rèn luyện.
+ Nguyên nhân chủ quan:
Một số cấp uỷ và một số đảng viên chưa nhận thức được nhiệm vụ
công tác phát triển Đảng trong thời kỳ mới. Tiêu chuẩn người đảng viên
trong giai đoạn cách mạng mới một số cấp Uỷ đảng cơ sở chưa quán triệt.
Từ đó dẫn đến quá trình chỉ đạo của cấp Uỷ chưa cụ thể về kế hoạch, thiếu
kiểm tra đôn đốc và không uốn nắn kịp thời những lệnh lạc của cấp dưới,
nhất là Chi bộ. Chính vì vậy, chủ trương càng xuống cấp dưới thì nhận thức
càng hạn chế và triển khai không trọn vẹn.
Trình độ năng lực của một số cấp Uỷ cơ sở còn hạn chế, không bao
quát hết công việc, thiếu nhảy cảm với sự chuyển biến tình hình ở địa
phương, tính chủ động không cao. Bởi vậy, họ không chuyển tải được những
tư tưởng chỉ đạo của cấp trên về công tác phát triển Đảng đối với đảng viên.
Việc giáo dục bồi dưỡng đối tượng Đảng còn chậm đổi mới cả nội
dung và hình thức. Chưa coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục trong từng
Chi bộ, cá biệt có những đơn vị: “Khoán trắng”. Việc bồi dưỡng đối tượng
cho đoàn, coi công tác phát triển là của các tổ chức quần chúng phải làm.
Chi bộ chỉ thực hiện khâu cuối cùng là xét duyệt kết nạp. Một số Chi bộ,
đảng viên chưa tin vào lớp trẻ, còn hẹp hòi, định kiến. Khi xét duyệt kết nạp
nhiều khi nặng về đạo đức, tác phong sinh hoạt mà không thấy được sự giác
ngộ thực chất về chính trị, năng lực, kiến thức và trí tuệ của đối tượng. Chưa
lấy năng suất chất lượng của công việc làm thước đo để đánh giá.
Ở nông thôn, quan hệ gia đình họ hàng còn chi phối rất lớn đến các
quan hệ xã hội, tuy nhiên nhiều khi chính mối quan hệ này cũng tác động
13



tiêu cực đến công tác phát triển đảng viên, làm nảy sinh hiện tượng “kéo bè,
kéo cánh”. Kết nạp ồ ạt người thân hoặc kìm hãm, làm tê liệt công tác phát
triển đảng viên.
4. Một số kinh nghiệm:
Từ thực tiễn công tác phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng
nông thôn thuộc đảng bộ tỉnh U Đôm Xay trong những năm vừa qua có thể
rút ra một số kinh nghiệm ban đầu như sau:
+ Một là, sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo thường xuyên của cấp uỷ các cấp
là yếu tố quyết định hàng đầu, trách nhiệm phát triển đảng viên thuộc về mỗi
tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên, các tổ chức cơ sở đảng phải chủ động
tích cực xây dựng chương trình, kế hoạch đối với công tác phát triển đảng
viên, cần đặc biệt lưu ý những nơi Chi bộ còn sinh hoạt ghép và những Chi
bộ ít đảng viên.
+ Hai là, các cấp Uỷ đảng và bản thân từng đảng viên phải có nhận thức
đúng đắn về công tác phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng nông
thôn phát triển đảng viên chính là điều kiện đảm bảo sự trưởng tồn, kế thừa
và phát triển của Đảng từ nhận thức đó mọi tổ chức Đảng, từng đảng viên
phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng cho quần
chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, làm cho họ hiểu được mục đích, lý tưởng của
Đảng và có động cơ trong sáng khi phấn đấu vào Đảng.
+ Ba là, các cấp Uỷ đảng phải tích cực đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động, chăm lo xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần
chúng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, phải thông qua phong trào
hành động cách mạng của quần chúng tại địa phương để bồi dưỡng, giáo dục
những quần chúng ưu tú. Đó là tiền đề quan trọng tạo nên thắng lợi của công
tác phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng nông thôn.

14



+ Bốn là, một tổ chức Đảng, mọi đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ phát
triển đảng viên phải tuân thủ đúng quy trình đảm bảo đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng, đồng thời mở rộng và phát huy dân chủ trong
nhân dân. Muốn vậy, phải có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng. Từ Đảng bộ
tỉnh xuống đến các tổ chức cơ sở Đảng tăng cường trách nhiệm cá nhân
trong quá trình thực hiện các khâu về quy trình, thủ tục xét duyệt kết nạp
đảng viên.
Trên đây chỉ là kinh nghiệm ban đầu với đảng bộ tỉnh U Đôm Xay
trong thực tế công tác phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng nông
thôn. Còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu và tổng kết để công tác phát
triển đảng viên nói chung, phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng
nông thôn ngày càng đạt được kết quả cả về số lượng lẫn chất lượng.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
U ĐÔM XAY – NƯỚC CHDC ND LÀO.
1. Phương hướng chung:
Quán triệt chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng NDCM Lào,
các cấp uỷ Đảng nông thôn tỉnh U Đôm Xay đã cụ thể hoá thành nhiệm vụ
chính trị trên cơ sở vận dụng vào tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và tiềm
lực vốn có ở địa phương. Đặc biệt các cấp uỷ Đảng nhận rõ vai trò, trách
nhiệm sự lãnh đạo của Đảng và căn cứ vào nhiệm vụ chính trị để đề ra
phương hướng nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, bảo đảm
vai trò lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị mới để nâng cao
chất lượng công tác phát triển đảng viên trong giai đoạn hiện nay Đảng đã
đề ra phương hướng chung là:

15



Từ nay đến năm 2010 phải phấn đấu xoá bỏ hết bản trắng, xoá bỏ một
chi bộ lãnh đạo nhiều bản. Công tác phát triển Đảng phải gắn với việc củng
cố và nâng cao chất lượng đảng viên trên cơ sở sát hợp với Điều lệ Đảng,
phát triển Đảng phải làm từng giai đoạn, đúng theo phương châm của Đảng
và phải bảo đảm được chất lượng và cần quan tâm chú ý đến các lĩnh vực
chiến lược quan trọng như: lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Vùng nông thôn,
miền núi, vùng biên giới, dân tộc và phụ nữ. Việc phân loại đảng viên phải
trên cơ sở nắm vững tiêu chuẩn đảng viên và có những giải pháp đúng đắn,
cụ thể với từng loại.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
trong công tác phát triển đảng viên. Từng chi bộ, Đảng bộ phải có kế hoạch
phân công đảng viên phát hiện, lựa chọn, giới thiệu cho tổ chức Đảng những
quần chúng tốt. Cần tăng cường trách nhiệm của đảng viên hơn nữa trong
việc phát hiện, giới thiệu người vào Đảng và tuyên truyền, giáo dục, giúp đỡ
đảng viên mới, coi đó là một nhiệm vụ, một tiêu chí để đánh giá kết quả hoạt
động của đảng viên hàng năm.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục mục tiêu, lý tưởng của
Đảng, hình thành động cơ vào Đảng đúng đắn đối với thế hệ trẻ. Nội dung
tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng cho đối tượng cần tập trung vào mục tiêu,
lý tưởng của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng, nội dung quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Chủ tịch Cay Sỏn
Phôm Vi Hản và đường lối quan điểm của Đảng về con đường xã hội chủ
nghĩa và độc lập dân tộc, là những chuẩn mực đạo đức của người công dân đảng viên trong thời kỳ mới.
Dựa vào quần chúng, thông qua phong trào quần chúng để nâng cao
chất lượng công tác phát triển đảng viên. Trước hết là ở khâu phát hiện, lựa
chọn đối tượng.
16



Cải tiến quy trình và thủ tục kết nạp Đảng, xác định rõ điều kiện và
tiêu chuẩn người được kết nạp Đảng cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó được coi là cánh
cửa, là khâu đầu tiên kiểm soát chất lượng công tác phát triển đảng viên.
Nếu có quy trình đúng, thủ tục vừa đơn giản, vừa chặt chẽ, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tế, phù hợp với quy luật và xu hướng chung của xã hội
thì có thể giải phóng được những vướng mắc không cần thiết, phá bỏ được
các lực cản, khuyến khích quần chúng phấn đấu vào Đảng và thu hút được
nhiều người tài, đức vào Đảng.
Tích cực và chủ động tạo nguồn phát triển đảng viên. Có cơ chế chính
sách thu hút những người tài đức vào Đảng. Cần thường xuyên mở các lớp
bồi dưỡng cảm tình Đảng cho mọi loại đối tượng trong xã hội, nhất là thế hệ
trẻ thanh, thiếu niên, sinh viên v.v. là cho thể hệ trẻ ngày càng hiểu hơn về
Đảng, nâng cao ý thức giác ngộ chính trị, sự hiểu biết lý tưởng của Đảng,
của giai cấp, trên cơ sở đó mà họ có động cơ vào Đảng đúng đắn.
2. Mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo:
Mục tiêu trong công tác phát triển đảng viên ở nông thôn tỉnh U Đôm
Xay là tạo ra một bước chuyển mới, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện
đội ngũ đảng viên cả về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và trình độ
năng lực. Tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng cũng
như mỗi tổ chức Đảng. Giữ vững tính tiên phong của Đảng; thực hiện một
bước trẻ hoá, trí tuệ hoá đội ngũ đảng viên, góp phần thắt chặt mối quan hệ
mật thiết với nhân dân, cùng với toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện được mục tiêu trên trong công tác phát triển đảng viên
cần quán triệt một số quan điểm chỉ đạo sau đây:

17



+ Một là, gắn công tác phát triển đảng viên với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của toàn Đảng và của mỗi tổ chức Đảng.
+ Hai là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên phải kết hợp
chặt chẽ với việc xây dựng, chính đốn Đảng và kiện toàn hệ thống chính trị.
+ Ba là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên phải bảo đảm
tính toàn diện, đồng bộ nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm.
+ Bốn là, phát triển đảng viên là trách nhiệm chủ yếu và trực tiếp của mỗi
tổ chức cơ sở Đảng và của mỗi đảng viên.
+ Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, tăng cường
thêm số lượng nhưng phải bảo đảm chất lượng. Mục tiêu của công tác phát
triển đảng viên không phải là chạy theo số lượng mà chính là chất lượng của
đội ngũ đảng viên.
3. Một số giải pháp chủ yếu:
Chắc chắn giải pháp sẽ có nhiều và để phân tịch thật sâu sắc thì còn
cần nhiều thời gian và cần huy động nhiều trí lực. Trong phạm vi bài viết
này tôi xin nêu một số vấn đề về giải pháp sau đây:
Một là, giải pháp củng cố, xây dựng tổ chức chi bộ, đảng viên thật sự
trong sạch, vững mạnh.
Không thể làm tốt công tác phát triển đảng viên khi tổ chức chi bộ,
đảng bộ yếu kém, nơi đó xảy ra mất đoàn kết, chia rẻ, bè phái, nhiệm vụ
chính trị bị bê trễ, không hoàn thành. Nếu tổ chức ấy kém, nhất là bị mất
đoàn kết thì bầu không khí trong Đảng sẽ bị ô nhiễm, phải – trái, trắng - đen
bị lẫn lộn. Chi bộ, đảng bộ như là một bộ lọc đào thải những phần tử thoái
hoá biến chất ra ngoài và thu nhận những nhân tố mới, đúng đắn trong sạch
vào. Nếu chi bộ không trong sạch, vững mạnh thì rất có thể người ta khai trừ
đảng viên tốt ra và kết nạp những người không đạt tiêu chuẩn nhưng ăn cánh

18



với mình vào Đảng. Điều này thật nguy hiểm. Đây được coi là điều kiện tiên
quyết để thực hiện tốt công tác phát triển Đảng.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng với phương châm “Thà ít mà
tốt”.
Giải pháp này không có nghĩa là không chú ý tới số lượng, cơ cấu mà
cái này chỉ là thứ yếu. Muốn thực hiện giải pháp này, phải xác định lại thật
đúng, thật rõ, thật cụ thể tiêu chuẩn chung, kể cả tiêu chuẩn đặc thù để vận
dụng tốt vào từng loại vùng, miền, giai cấp, tầng lớp, từng khối trong hệ
thống chính trị, v.v. Xưa nay, Đảng NDCM Lào vấn tiến hành công tác phát
triển đảng vien dựa trên tiêu chuẩn. Nhưng điều muốn nhấn mạnh ở giải
pháp này là trong điều kiện mới mà đặc trưng chung nhất là trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần nghiên cứu và ban hành
những tiêu chuẩn thật phù hợp.
Ba là, đặc biệt coi trọng xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức Đoàn
thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào ở tất cả các cấp, nhất là các cơ sở, để
tạo nguồn vững chắc cho công tác phát triển đảng viên.
Nguồn năng lực phát triển đảng viên từ phong trào quần chúng nhân
dân lao động, yêu cầu nguồn sinh lực trẻ khoẻ, có phẩm chất, đạo đức và
trình độ năng lực, cấp Uỷ phải chăm lo xây dựng Đoàn thanh niên Nhân dân
Cách mạng Lào kết hợp với Hội phụ nữ, Công đoàn, Mặt trận Lào xây dựng
Tổ quốc, tức là dựa vào các đoàn thể để phát triển đảng viên, đặc biệt là
Đoàn thanh niên. Điều 27, Điều lệ Đảng NDCM Lào quy định: Đảng tổ
chức lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với Đoàn thanh niên Nhân dân Cách
mạng Lào. Đảng coi thanh niên là đội tiên phong quan trọng của Đảng. Xây
dựng Đoàn thanh niên trở thành người kế thừa sự nghiệp của Đảng, của dân
tộc. Qua các tổ chức đó để giáo dục, bồi dưỡng và mạnh dạn giao việc để
thử thách kết nạp vào Đảng.
19



Bốn là, cải tiến các thủ tục, các quy định, quy trình cho công tác phát
triển đảng viên theo hướng:
+ Ra soát lại các thủ tục hiện hành để xem xét giữ lại những quy định
hợp lý, bỏ đi những thủ tục không cần thiết trong điều kiện hiện nay.
+ Những quy định, thủ tục được đặt ra phải chú trọng bảo đảm trước hết
cho chất lượng, tiêu chuẩn, thực hiện nghiêm chỉnh.
+ Cuộc sống vô cùng sinh động và phong phú. Những quy định phải luôn
luôn “động” (trong nền tảng cố định cái trung được ghi trong Điều lệ Đảng
từng khoá của Đại hội đại biểu toàn quốc). Cái “động” này trên cơ sở có
nguyên tắc nhưng nhất thiết phải linh hoạt. Muốn vậy, các cơ quan tham
mưu cho cấp uỷ, phải luôn luôn bám sát thực tế để tổng kết.
Năm là, nắm vững phương châm phát triển đảng viên, coi trọng nguyên
tắc, quy trình phát triển đảng trong giai đoạn hiện nay.
Ban tổ chức tỉnh uỷ tham mưu giúp cấp uỷ đề ra kế hoạch chung cho
công tác phát triển Đảng, đồng thời trực tiếp làm tốt các khâu thẩm định hồ
sơ, hoàn chỉnh thủ tục trình thường vụ xét duyệt, ra quyết định kết nạp, chú
ý cần cải tiến các bước tiến hành sao cho nhanh gọn, đúng nguyên tắc, đồng
thời phối hợp với cơ sở và các ban xây dựng Đảng tháo gỡ những vướng
mắc của cơ sở trong công tác phát triển đảng viên.

C. KẾT LUẬN
Phát triển Đảng là một yêu cầu khách quan phù hợp với quy luật tồn
tại và phát triển của Đảng. Một Đảng muốn tồn tại và lớn mạnh không thể
không bổ sung vào hàng ngũ của mình ngày càng nhiều người ưu tú được
rèn luyện, trưởng thành từ các phong trào cách mạng của quần chúng. Lịch
sử 50 năm hoạt động của Đảng NDCM Lào đã khẳng định điều đó. Đảng đã
và đang giữ vai trò sứ mệnh lãnh đạo toàn xã hội, thực hiện công cuộc đổi
20



mới trên phạm vi rộng lớn. Vấn đề phát triển Đảng đang là một yêu cầu cấp
bách, đang không chỉ là nội bộ Đảng quan tâm mà còn là đòi hỏi của các
phong trào cách mạng xã hội, của cả dân tộc.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước Lào đang đứng trước
những thách thức lớn và những cơ hội lớn, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và
nguy cơ đang đan xen làm cho việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn càng
khó khăn phức tạp, do vậy càng cần nguồn sinh lực mới có trình độ, có năng
lực, có tri thức được rèn luyện và trưởng thành nhằm đáp ứng mọi nhiệm vụ.
Muốn có nguồn sinh lực mới đó phải đẩy mạnh phát triển lớp đảng viên mới.
Trong tình hình đó, đòi hỏi toàn Đảng nói chung và Đảng bộ tỉnh
U Đôm Xay nói riêng không ngừng đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, nỗ
lực tìm tòi những giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phát triển Đảng.
Với sự giúp đỡ sâu sát của cấp Uỷ cấp trên, cùng với sự chủ động tích
cực của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh U Đôm Xay, công tác phát triển
đảng viên sẽ khắc phục được những thiếu sót, sai trái lệnh lạc, không ngừng
nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tạo thế
và lực mới cho bước tiến nhanh, vững chắc hơn trong tương lai của đất nước
Lào nói chung, nông thôn tỉnh U Đôm Xay nói riêng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng viên và phát triển đảng viên trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nxb lao động. Hà Nội – 2006.
2. PTS. Ngô Kim Ngân về nâng cao chất lượng đảng viên trong sự
nghiệp đổi mới. Nxb chính trị quốc gia. Hà Nội – 1999.
3. Xây dựng Đảng về tổ chức. Nxb chính trị quốc gia. Hà Nội – 2004.
21


4. Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác xây dựng Đảng trong sạch vững

mạnh. Nxb lý luận chính trị. Hà Nội – 2006.
5. Cay Sỏn Phôm Vi Hản phát biểu tại Đại hội Ban tổ chức toàn quốc lần
thứ VII (17/6/1991). Nxb Ban tổ chức Trung ương Lào – 2001.
6. Cay Sỏn Phôm Vi Hản với việc nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên
trong thời kỳ đổi mới. Nxb Chính trị – Hành chính Quốc gia Lào –
1997.
7. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Điều lệ Đảng, thông qua tại Đại hội
toàn quốc lần thứ VI. Nxb Quân đội Viêng Chăn – 1992.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Báo cáo chính trị Khoá VII, thông
qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng NDCM Lào
– 2006.
9. Ban tổ chức tỉnh Uỷ, tỉnh U Đôm Xay, Báo cáo tổng kết công tác xây
dựng Đảng – cán bộ giai đoạn 2001 – 2005 và kế hoạch năm 2006 –
2010.
10. Đảng bộ huyện Văn Chấn: chú trọng kết nạp đảng viên mới. Internet,
tạp chí xây dựng Đảng - (Cập nhật: 13/12/2007).
11. Tổng Biờn tập Tạp chớ KOSANG PHAK. Internet – (Cập nhật:
03/12/2007).

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU

1

B. NỘI DUNG

2

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN


2

1. Khái niệm đảng viên.

2
22


2. Một số quan điểm về đảng viên và công tác phát triển đảng viên
3
3. Tính cấp thiết của công tác phát triển đảng viên.

6

4. Những yêu cầu và tiêu chuẩn của người được kết nạp vào Đảng.
6
II. THỰC TRẠNG TRONG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG
VIÊN MỚI TỪ NĂM 2001 – 2005 Ở ĐẢNG BỘ TỈNH
U ĐÔM XAY – NƯỚC CHDC ND LÀO.

8

1. Ưu điểm:

8

2. Hạn chế:

9


3. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng . . .

10

4. Một số kinh nghiệm:

13

III. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH U ĐÔM XAY – NƯỚC CHDC ND LÀO.

15

1. Phương hướng chung:

15

2. Mục tiêu và những quan điểm chỉ đạo:

17

3. Một số giải pháp chủ yếu:

17

C. KẾT LUẬN

20


23



×