Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở TỈNH AN GIANG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 66 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở
TỈNH AN GIANG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ

Sinh viên thực hiện : Vũ Minh Phương
Lớp

: ĐH3KB2

MSV

: DH00301657

Giảng viên

:Th.S Nguyễn Thị Thùy Linh

HÀ NỘI, THÁNG 2 – NĂM 2017


BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC BIỂN VÀ HẢI ĐẢO

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI


VỚI HOẠT ĐỘNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở
TỈNH AN GIANG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ

Giảng viên hướng dẫn
(ký tên)

Sinh viên thực hiện
(ký tên)

Nguyễn Thị Thùy Linh

Vũ Minh Phương

Hà Nội- 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô ThS. Nguyễn
Thị Thùy Linh, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết Đồ án tốt nghiệp.
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội,
em đã nhận được sự dạy dỗ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, Ban
Giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa…Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
này.
Cuối cùng, em xin cảm ơn tấm lòng của những người thân yêu trong gia đình, bố
mẹ luôn động viên, cổ vũ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong quá trình học tập
Tuy vây, do thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh
viên thực tập nên trong bài báo cáo tốt nghiệp này cũng sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế nhất định. Vì vậy, em mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến
của các thầy cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến thức của mình, phục vụ tốt
hơn công tác thực tế sau này.



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BĐKH

: Biến đổi khí hậu

ĐBSCL

: Đồng bằng Sông Cửu Long

NTTS

: Nuôi trồng thủy sản

HST

: Hệ sinh thái

CN&BCN

: Công nghiệp và bán công nghiệp

GTSX

: Giá trị sản xuất


MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................................3


DANH MỤC BẢNG
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................................3


MỞ ĐẦU
1, Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu (BĐKH) mà biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực
nước biển dâng, là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ
21. Thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan khác đang gia tăng ở hầu hết các nơi
trên thế giới. Nhiệt độ và mực nước biển trung bình toàn cầu tiếp tục tăng và đang là
mối lo ngại của các quốc gia trên thế giới. Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một vấn đề
toàn cầu không những ảnh hưởng đến các quốc gia phát triển mà còn có cả những
nước đang phát triển như Việt Nam. Với đường bờ biển dài 3260 km, Việt Nam thuộc
nhóm các nước có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam,
trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,5 đến 0,7°C, mực
nước biển đã dâng khoảng 20cm. Hiện tượng El-Nino, La-Nina ngày càng tác động
mạnh mẽ đến Việt Nam. Biến đổi khí hậu (BĐKH) thực sự đã làm cho thiên tai, đặc
biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng nghiêm trọng. Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở
Việt Nam có thể tăng lên 3°C và mực nước biển có thể dâng 1m vào năm 2100.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) không chỉ là vấn đề môi trường, không còn là vấn đề
của một ngành riêng lẻ mà chính là vấn đề của phát triển bền vững. BĐKH tác động
đến những yếu tố cơ bản của đời sống con người trên phạm vi toàn cầu như: nước,
lương thực, năng lượng, sức khỏe và môi trường. Vì thế ứng phó với BĐKH trở nên
ngày càng quan trọng, và được quan tâm nhiều hơn trong các nghiên cứu cũng như
trong cả tiến trình thương lượng của Công ước về BĐKH mà Việt Nam là một thành
viên. Việt Nam đã chính thức là một bên không thuộc Phụ lục I của Công ước và Nghị
định thư Kyoto về BĐKH, có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của một bên trong quá trình

thi hành cam kết của mình về thích ứng và giảm nhẹ với BĐKH.
Biến đổi khí hậu cũng tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái rừng ngập mặn làm
mất dần các bãi sinh sản tự nhiên của nhiều loài sinh vật, cạn kiệt nguồn lợi thủy sản
tự nhiên, làm mất dần diện tích thuận lợi cho phát triển nuôi thủy sản. Năng suất nuôi
tôm quảng canh trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200kg/ha/vụ ( năm 1980)
đến nay thì chỉ còn 80kg/ha/vụ. Rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được
800kg/ha nhưng nay chỉ còn 1/20 so với lúc trước. Đã có khoảng 100 loài hải sản có

`

1


mức độ nguy hiểm khác nhau và trên 75 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.
Nguồn lợi thủy sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, số lượng và kích thước đánh
bắt.
An Giang là một trong những tỉnh có tiềm lực kinh tế lớn ở đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL). Với những yếu tố thuận lợi về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên và vị trí phân bố lãnh thổ, An Giang được xem là một trong những địa phương
giàu tiềm năng về phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp, thủy sản, kinh tế cửa
khẩu, công nghiệp chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng và dịch vụ du lịch. Điều này đã
tạo ra một động lực lớn để đẩy mạnh tiến trình phát triển kinh tế chung của cả khu vực
ĐBSCL trong nhiều năm tới.
Thủy sản là ngành kinh tế quan trọng, đóng góp lớn thứ hai (sau nông nghiệp) và
đóng góp lớn nhất vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong vòng 10 năm qua. Nuôi
trồng thuỷ sản (NTTS) là ngành kinh tế có tiềm năng phát triển của tỉnh An Giang.
Những năm gần đây NTTS của tỉnh đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu to lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
An Giang. Ngành có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần xóa đói giảm
nghèo, cung cấp dinh dưỡng và nâng cao thu nhập cho nhân dân và từng bước nâng

cao kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
An Giang là một trong những địa phương được đánh giá chịu ảnh hưởng nhiều
của BĐKH. Nhận thức rõ ảnh hưởng của BĐKH, An Giang đã thực hiện nhiều chương
trình, kế hoạch bảo vệ môi trường góp phần nhỏ để hạn chế BĐKH như Chương trình
hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai tỉnh
An Giang đến năm 2020 và Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu
của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang giai đoạn 2009-2020
của UBND tỉnh An Giang… Tuy nhiên, An Giang chưa có kế hoạch hành động cụ thể
để đảm bảo ứng phó có hiệu quả với những tác động trước mắt và tiềm tàng của
BĐKH.
Trước nguy cơ ảnh hưởng và cảnh báo về biến đổi khí hậu, An Giang cần phải có
các giải pháp, kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm ứng phó với hiểm họa
này. Vấn đề biến đổi khí hậu vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài, phức tạp và
liên quan đến tất cả các ngành, trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Vì thế, để thực hiện

`

2


được mục tiêu ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đối với
Tỉnh, việc xây dựng các giải pháp, kế hoạch và công tác chỉ đạo thực hiện cần được
nghiên cứu, trao đổi ở tất cả các cấp, các khu vực, các lĩnh vực (tài nguyên nước, đất,
môi trường, các hệ sinh thái…) và trong tất cả các ngành, quan trọng nhất là năng
lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thuỷ sản, du lịch, tài nguyên và môi
trường.
Nhận thức sâu sắc những vấn đề nêu trên “Đánh giá tác động của biến đổi khí
hậu đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản ở tỉnh An Giang và đề xuất giải pháp
ứng phó” là yêu cầu cấp thiết trong tình hình hiện nay. Sẽ làm cơ sở cho việc đề xuất
các biện pháp ứng phó, giảm thiểu các thiệt hại do BĐKH gây ra, đảm bảo an toàn và

ổn định cuộc sống người dân nơi đây trong sinh hoạt và sản xuất, thích ứng với diễn
biến nước biển dâng và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
2, Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Mục tiêu chung: Đánh giá những tác động do biến đổi khí hậu đối với hoạt
động nuôi trồng thủy sản ở tỉnh An Giang.
- Mục tiêu cụ thể: Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành
thủy sản ở An Giang.
Xác định, đề xuất các lựa chọn thích nghi những ảnh hưởng tích cực của nước
biển dâng. Từ đó đưa ra các biện pháp thích nghi và giảm nhẹ, nâng cao nhận thức của
cộng đồng về nuôi trồng thủy sản.
3, Đề xuất phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu nhập tài liệu: Tìm hiểu, thu thập số liệu dựa trên các tài liệu
có sẵn và từ thực tế.
- Phương pháp thống kế: Thu thập và xử lý các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội của tỉnh An Giang.
- Phương pháp thực nghiệm: Thu thập thông tin, dữ liệu từ quan sát, tìm hiểu
thực tế.
- Phương pháp tính toán dự báo tốc độ nuôi trồng thủy sản: Từ năm 2015 tới năm
2020.
- Phương pháp phân tích đánh giá.
- Các phương pháp khác: được thể hiện qua word, Auto cad.

`

3


4, Tóm tắt nội dung
- Chương I: Tổng quan điều kiện tự nhiên tỉnh An Giang.
- Chương II: Biểu hiện của biến đổi khí hậu và tình hình sản xuất ngành thủy sản

tỉnh An Giang.
- Chương III: Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với
hoạt động nuôi trồng thủy sản và đề xuất giải pháp ứng phó.

`

4


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH AN GIANG
1.1 Tổng quan về điều kiện tự nhiên, khí hậu
1.1.1 Vị trí địa lý
Tỉnh An Giang có toạ độ địa lý từ 10 010’30” đến 10037’50” vĩ độ Bắc và từ
104047’20” đến 105035’10” kinh độ Đông. Ranh giới hành chính được xác định như
sau:
- Phía Tây Bắc giáp Vương quốc Campuchia.
- Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp.
- Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang.
- Phía Đông Nam giáp Thành phố Cần Thơ.

Nguồn: Trung tâm thông tin dữ liệu đo đạc và bản đồ
Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh An Giang
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 3.535 km 2, bằng 1,07% diện tích cả nước và đứng
thứ 4 ở ĐBSCL. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm thành phố Long Xuyên
(tỉnh lỵ), thị xã Châu Đốc và 9 huyện là An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới, Châu
Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên và Tri Tôn. Đơn vị hành chính cấp xã có 154
đơn vị gồm 15 phường, 17 thị trấn và 122 xã.

`


5


Về liên hệ vùng, An Giang cách thành phố Hồ Chí Minh 200 km, cách trung tâm
thành phố Cần Thơ 60 km, có đường biên giới với Vương quốc Campuchia dài khoảng
90 km được thông thương bằng các cửa khẩu quốc tế và quốc gia như Vĩnh Xương
(Tân Châu), Xuân Tô (Tịnh Biên) và Long Bình (An Phú).
Về đường bộ, hiện An Giang chỉ có một trục Quốc lộ 91 đi ngang; đường thuỷ có
sông Tiền, sông Hậu. Đây là những trục giao thương chủ yếu và cần thiết nhưng chưa
đủ để tỉnh phát huy các lợi thế về kinh tế cửa khẩu, du lịch phục vụ phát triển kinh tế xã hội trong thời gian tới.
1.1.2 Đặc điểm địa hình
Với sông Tiền và sông Hậu ở phía Đông và chuỗi đồi núi thấp ở phía Tây đã hình
thành 2 dạng địa hình chính:
- Địa hình đồng bằng:
Có cao độ thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam với độ chênh cao 0,5 - 1
cm/km. Cao trình của toàn đồng bằng biến thiên từ 0,8 m đến 3 m và được chia thành
2 vùng:
+ Vùng cù lao gồm 4 huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân và Chợ Mới có cao
trình biến thiên từ 1,3 - 3 m và thấp dần từ ven sông vào nội đồng.
+ Vùng hữu ngạn sông Hậu thuộc tứ giác Long Xuyên gồm thành phố Long
Xuyên, thị xã Châu Đốc, huyện Châu Phú, Châu Thành và Thoại Sơn có cao trình biến
thiên từ 0,8 - 3 m và thấp dần về phía Tây.
- Địa hình đồi núi:
Tập trung và chiếm phần lớn diện tích tự nhiên 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với
nhiều núi có độ cao từ 300 - 700 m, cao nhất là núi Cấm 710 m. Bao bọc chung quanh
núi là đồng bằng chân núi, dạng địa hình chuyển tiếp giữa núi và đồng bằng, có cao
trình từ 4 - 40 m và độ dốc từ 30 - 80.
Nhìn chung, địa hình của An Giang ít phức tạp, tương đối thuận lợi để phát triển
nông - lâm nghiệp - thuỷ sản và du lịch.
1.1.3 Đặc điểm khí hậu, thời tiết

An Giang có đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nền nhiệt cao và ổn định.
Lượng mưa tương đối lớn và phân bổ theo mùa.

`

6


 Nhiệt độ
- Nhiệt độ trung bình năm 28,70C.
- Nhiệt độ cao nhất 37,30C ( tháng 2 ).
- Nhiệt độ thấp nhất 26,50C ( tháng 1).
Tổng tích ôn trên 10.0000C. Khu vực đồi núi thường có nhiệt độ thấp so hơn
đồng bằng 20C.
 Mưa
Chế độ mưa bị phân hóa thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
tháng 11, do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và lượng mưa tập trung từ tháng 7 – 10.
Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không vượt quá
100mm/năm.
Tổng lượng mưa hàng năm bình quân khoảng 1200mm/năm, giá trị cao nhất đạt
2.100 mm/năm và thấp nhất 900mm/năm.
Số ngày mưa bình quân là 132 ngày/năm. Cả số ngày mưa và tổng số lượng mưa
đều tập trung vào bảy tháng mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11 với tỷ trọng khoảng
88%. Trong mùa mưa, sự phân bố lượng mưa trung bình tháng tương đối đều nên
cường độ mưa không lớn lắm, trong khi sự phân bố mưa theo lãnh thổ thì không đáng
kể. Vào mùa mưa, nước sông Mêkông đổ về gây mùa nước nổi hàng năm ở vùng đồng
bằng từ tháng 8 đến tháng 11 và gây rửa trôi xói mòn mạnh tại khu vực đồi núi. Vào 5
tháng mùa khô, từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, xảy ra tình trạng thiếu nước sản xuất
và sinh hoạt, nhất là vùng đồi núi.


`

7


Bảng 1 - Một số đặc tính khí tượng thủy văn của tỉnh An Giang
Nhiệt độ
Tháng

01
02
03
04
05
06
07
08
09
10
11
12
Tổng

bình
quân
(0C)
25,5
25,9
26,0
28,3

28,1
27,5
28,2
27,3
27,5
27,5
26,8
25,8

Nhiệt độ

Nhiệt

Tổng số

tối thấp

độ tối giờ nắng

Lượng

Lượng

Số ngày

mưa bình mưa cao mưa thấp mưa bình
quân

nhất


nhất

quân

257,0
255,0
282,0
246,0
205,0
174,0
171,0
164,0
153,0
171,0
207,0
236,0

(mm)
6,3
0,9
11,4
85,6
143,6
108,0
115,4
168,8
117,3
207,2
128,3
39,8


(mm)
53,0
2,9
21,0
89,5
176,5
139,7
170,8
172,3
139,7
423,5
215,6
237,5

(mm)
1,3

2,4
3,5
100,8
84,0
81,6
108,0
60,7
195,6
95,3
9,4

(ngày)

1,5
0,5
2,7
8,0
14,6
17,7
16,4
17,4
17,5
20,1
12,4
3,7

2.521,0

1.132,6

(0C)

cao (0C)

(giờ)

17,0
18,5
17,5
21,8
21,1
20,0
21,1

21,0
21,3
21,1
19,8
17,0

39,1
26,4
37,2
39,3
36,5
36,2
39,1
36,4
33,9
33,4
32,7
33,0

cộng

Lượng

132,5

Nguồn: Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ.
 Lượng bốc hơi và độ ẩm không khí
Lượng bốc hơi hàng năm lớn, từ 1.200–1.300 mm. Lượng bốc hơi cao xảy ra
trong 5 tháng mùa khô với ẩm độ không khí trung bình của các tháng này khoảng
76%. Bốc hơi mạnh xảy ra trong thời gian này làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu

nước ở khu vực đồi núi. Lượng bốc hơi trong 7 tháng mùa mưa xấp xỉ lượng bốc hơi
trong 5 tháng mùa khô. Ẩm độ không khí của các tháng mùa mưa khoảng 80–85%.
 Nắng
- Tổng số giờ nắng 2.346 giờ,
- Tổng số giờ nắng thấp nhất 123,8 giờ / tháng 7
- Tổng số giờ nắng cao nhất 234,2 giờ / tháng 12.
Số giờ nắng bình quân mỗi ngày ở các tháng mùa khô thường cao hơn khoảng 2
giờ so với các tháng mùa mưa.
 Gió

`

8


Chế độ gió khá đồng nhất. Từ tháng 5–10 phổ biến gió mùa Tây Nam mang hơi
nước về tạo mưa; từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau phổ biến gió mùa Đông Bắc có đặc
điểm lạnh và khô. Tốc độ gió trung bình trong năm khoảng 3 m/giây.
Ở An Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, các hiện tượng lốc xoáy có
xảy ra trong mùa mưa nhưng tần suất thấp nên mức độ ảnh hưởng không đáng kể.
Tóm lại, với nền nhiệt độ cao đều trong năm, giàu nắng mưa theo mùa và không
có bão, điều kiện khí hậu ở An Giang khá thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp như thâm canh, tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng vật nuôi.
1.1.3 Đặc điểm thủy văn, thủy triều và nguồn nước
Chế độ thuỷ văn ở An Giang phụ thuộc chủ yếu vào chế độ bán nhật triều biển
Đông và chịu ảnh hưởng của các yếu tố dòng chảy sông Cửu Long (sông Tiền, sông
Hậu), chế độ mưa, đặc điểm địa hình và hình thái kênh rạch.
Sông Cửu Long chảy qua An Giang theo 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu. Lưu
lượng trung bình năm là 13.500 m3/s, vào mùa lũ 24.000 m3/s và mùa kiệt là 5.020
m3/s. Hệ thống sông nhánh, kênh rạch tự nhiên và kênh thuỷ lợi trong tỉnh có tổng

chiều dài hơn 5.500 km (mật độ 1,6 km/km2 ), đủ sức chuyển tải nguồn nước mặt phục
vụ sản xuất, sinh hoạt và vận tải thuỷ.
Hàng năm trùng vào mùa mưa, An Giang đón nhận con nước lũ và hình thành
mùa nước nổi với khoảng 70% diện tích tự nhiên bị ngập từ 1 mét đến 2,5 mét, thời
gian ngập từ 2,5 đến 5 tháng, thông thường từ 15/8 đến 20/12.
Đánh giá về mùa nước nổi, quan điểm hiện nay của tỉnh không xem đó là thiên
tai mà là một hiện tượng thuỷ văn bình thường theo chu kỳ mỗi năm, từ lâu đời đã gắn
liền với cuộc sống và sản xuất của cư dân ĐBSCL. Do vậy cần phải biết khai thác
những mặt lợi, hạn chế mặt hại và cùng sống chung an toàn với mùa nước nổi.
Về mặt lợi, mùa nước đã mang lại nguồn phù sa màu mỡ và vệ sinh đồng ruộng;
cải thiện chất lượng đất, chất lượng nước, bổ sung nguồn nước ngầm; mang lại nguồn
lợi thuỷ sản và tạo công ăn việc làm cho một bộ phận nông dân trong mùa nước nổi.
Về mặt hại, mùa nước đã làm gián đoạn các hoạt động kinh tế - xã hội; tốn kém
chi phí đầu tư và bảo dưỡng cơ sở hạ tầng; gây ảnh hưởng đến thời vụ gieo trồng, thu
hoạch và sản lượng nông - thuỷ sản; cản ngại cho việc phát triển các mô hình sản xuất
nhằm công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; Ngoài ra mức nước
ngập sâu còn gây thiệt hại tính mạng và tài sản của nhân dân.
`

9


Với tính hai mặt của mùa lũ - mùa nước nổi, 5 năm qua An Giang đã bố trí nhiều
quỹ đất để đầu tư nhiều công trình như đê bao bảo vệ sản xuất nông nghiệp, cụm tuyến dân cư cho dân vùng bị ngập và hàng loạt công trình phúc lợi có cao trình an
toàn.
 Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch
Tỉnh An Giang có hệ thống sông và kênh rạch rất phát triển. Mạng lưới giao
thông thủy của

tỉnh gồm hệ thống sông, rạch tự nhiên và các tuyến kênh cấp 1, cấp 2


phục vụ cho công tác tưới tiêu trong nông nghiệp và vận tải. Trên địa bàn tỉnh có hai
tuyến sông Tiền, sông Hậu có điều kiện khá thuận lợi cho giao thông thủy, chiều rộng
phổ biến từ 300m – 400m, có độ sâu từ 5m – 15m, hai tuyến sông này được liên kết
với nhau bởi các sông, rạch cắt ngang, tạo nên một mạng liên thông về vận tải thủy
khá thuận lợi. Hệ thống sông, rạch tự nhiên có 10 tuyến với chiều dài 233,2 km (sông
Tiền, sông Hậu, sông Cái Vừng, sông Vàm Nao, sông Châu Đốc, sông Bình Di, Rạch
Ông Chưởng, Xép Năng Gù và Xép Vĩnh Trường, rạch Long Xuyên), Kênh cấp I có
19 tuyến với chiều dài 469,8 km, Kênh cấp II có 290 tuyến với chiều dài 1.721,3 km,
kênh cấp III và kênh mương nội đồng có 1.654 tuyến với chiều dài 3.333,1 km.
1.2 Các nguồn tài nguyên
1.2.1 Tài nguyên nước
 Nước mưa
Mùa mưa ở An Giang tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm 90% lượng mưa
cả năm với tổng lượng mưa bình quân năm khoảng 1.200mm. Nước mưa là nguồn
nước quan trọng tại các vùng gặp khó khăn nguồn nước mặt, nước ngầm như các vùng
nông thôn xa, hẻo lánh và vùng đồi núi. Đầu mùa mưa cũng là thời điểm vào vụ canh
tác của đất ruộng trên và nương rẫy thuộc vùng đồi núi là các vùng không có nguồn
nước tưới.
 Nước mặt
Sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch là nguồn nước mặt chủ yếu cấp nước cho
hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Lưu lượng của các sông khá lớn nên truyền nước theo
các kênh rạch đến tận các vùng xa, đủ sức cung cấp nước kể cả trong mùa kiệt. Nguồn
nước mặt hiện phục vụ tưới cho hầu hết diện tích gieo trồng; đồng thời với việc sử
dụng nguồn nước mặt cho sản xuất nông nghiệp và các lĩnh vực sản xuất khác, nguồn

`

10



nước mặt còn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu cho các đô thị và khu dân cư
tập trung, có tác dụng tích cực cho cải tạo đất đai, khai hoang - phục hoá, tháo chua
rửa phèn ở vùng tứ giác Long Xuyên. Tuy nhiên, nhiều năm qua tại một số khu vực,
sông rạch đã bị ô nhiễm do hoạt động của các nhà máy công nghiệp; nuôi trồng thuỷ
sản ao hầm, lồng bè, đăng quầng; một số khu vực cuối nguồn nước các kênh rạch bị
cạn kiệt vào mùa khô do tình trạng bồi lắng, cần có giải pháp trước mắt và lâu dài để
xử lý nhằm đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt. Mỗi năm An Giang có mùa nước nổi
do nước các sông, rạch tràn bờ và làm ngập 70% diện tích của tỉnh trong nhiều tháng,
mùa nước nổi hiện nay đã được xem là một nguồn tài nguyên để khai thác mặt lợi và
hạn chế tối đa mặt hại với phương châm sống chung và sản xuất an toàn trong mùa
nước nổi.
Nhìn chung, lưu lượng và trữ lượng nước mặt ở An Giang khá dồi dào, là tiền đề
để tỉnh phát triển kinh tế nông nghiệp. Nguồn nước mặt trong tỉnh ngọt quanh năm,
tuy nhiên do đặc điểm địa hình và thổ nhưỡng, có khoảng 1/4 diện tích phía Tây Nam
của tỉnh nguồn nước mặt bị nhiễm phèn trong một vài tháng đầu mùa mưa.
 Nước ngầm
Theo đánh giá của các tài liệu địa chất - thuỷ văn, nước ngầm ở An Giang có trữ
lượng khá dồi dào nhưng việc quản lý khai thác trong các năm qua chưa được chặt chẽ
do chưa xây dựng quy hoạch khai thác và bảo vệ tài nguyên nước ngầm. Theo thống
kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có trên 7.100 giếng khoan, phục vụ sinh hoạt 92,14%, phục
vụ sản xuất 7,86% và qua khảo sát sơ bộ có khoảng 240 giếng bị ô nhiễm (nhiều nhất
là nhiễm Asen) hoặc có nguy cơ nhiễm bẩn các loại cần phải xử lý trám lấp để bảo vệ
nguồn nước.
1.2.2 Tài nguyên đất
An Giang có 37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm đất chính, trong đó chủ
yếu là nhóm đất phù sa trên 151.600 ha, chiếm 44,5%; nhóm đất phù sa có phèn trên
93.800 ha, chiếm 27,5%; nhóm đất phát triển tại chỗ và đất phù sa cổ gần 24.724 ha,
chiếm 7,3% diện tích đất tự nhiên, còn lại là đất phèn và các nhóm khác. Đất đai của
An Giang phần lớn rất màu mỡ vì 72% diện tích là đất phù sa hoặc có nguồn gốc phù

sa, địa hình bằng phẳng, độ thích nghi đối với các loại cây trồng khá rộng.
1.2.3 Tài nguyên rừng

`

11


2.

Quỹ đất lâm nghiệp có trên 20.000 ha, đã khoanh ranh giới đất rừng 18.000 ha

(trong đó đã có rừng 14.700 ha) và còn lại là quỹ đất đồi núi có khả năng phát triển
rừng.
1.

Rừng ở An Giang chủ yếu là rừng trồng, trong đó chỉ có trên 4,2% là rừng tự

nhiên (khoảng 580 ha). Rừng trồng chủ yếu là các loại cây mọc nhanh bạch đàn, keo
lá tràm, tai tượng kết hợp với cây gỗ quý như sao, dầu, giáng hương, cây dó bầu (để
tạo trầm hương) và các loại cây ăn quả lâu năm. Rừng tự nhiên hiện còn giữ được các
cây gỗ quý như giáng hương, thao lao, dầu, căm xe. Rừng đất ngập nước chủ yếu là
cây tràm.
Hiện nay tỉnh đã khoanh ranh giới cho 25 khu rừng để phấn đấu nâng độ che phủ
3.

đạt 5% (hiện độ che phủ đạt 4,1%). Tốc độ che phủ rừng tăng nhanh đã giúp phục hồi
hệ động vật rừng đa dạng (gồm các loài thú, các loài bò sát, thủy sản và các loài
chim).
Tài nguyên rừng An Giang có diện tích không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng

4.

về mặt sinh thái và an ninh quốc phòng. Hơn nữa việc khai thác hợp lý rừng sẽ đem lại
hiệu quả kinh tế khá lớn cho nhân dân vùng đồi núi và vùng dân tộc. Vì vậy trong
những năm tới cần phủ xanh hết đất quy hoạch trồng rừng kết hợp với chăm sóc, bảo
vệ rừng.
1.2.4 Tài nguyên khoáng sản
An Giang tuy là tỉnh ở ĐBSCL nhưng lại có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa
dạng với các loại đá xây dựng, đá ốp lát, đá áplit, cát núi, cát sông, than bùn, kaolin,
nước khoáng.
Hoạt động khoáng sản ở An Giang trong thời gian qua đã có những đóng góp tích
cực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như đóng góp cho ngân sách, tạo việc làm
cho lao động người dân tộc, cung cấp nguồn nguyên liệu xây dựng cho các công trình
xây dựng trong tỉnh, ngoài ra đá xây dựng còn cung ứng cho khoảng 30% - 50% thị
phần vùng ĐBSCL.
Theo các tài liệu thăm dò được phê duyệt, trữ lượng một số loại khoáng sản ở An
Giang gồm: Đá xây dựng 2.100 triệu m3, đá ốp lát 139 triệu m3, kaolin 2,2 triệu m3, đá
áplit 200 nghìn tấn, than bùn 16 triệu tấn, cát sông Hậu 67 triệu m 3, sông Tiền 50 triệu
m3 và sét gạch ngói 39 triệu m3. Ngoài ra An Giang còn có mỏ nước khoáng chuẩn bị
đưa vào khai thác công nghiệp.
1.2.5 Tài nguyên nhân văn

`

12


Tỉnh An giang có nguồn tài nguyên nhân văn khá phong phú và đặc sắc. Di chỉ
Óc Eo là một địa danh nổi tiếng điển hình, là cái nôi của nền văn hoá Óc Eo, có từ thế
kỷ thứ IV, hiện nay thuộc địa bàn huyện Thoại Sơn đã chứng minh được lịch sử lâu đời

của con người gắn bó với mảnh đất An Giang. Tuy nhiên đến nay, dấu vết và những
công trình mà người xưa để lại chủ yếu bắt đầu từ thời nhà Nguyễn. Các bậc tiền nhân
như Chưởng binh Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh và sau đó là Ngọc Hầu Nguyễn
Văn Thoại đã tiến hành khai khẩn đất đai, đào kinh, đắp đường, lập ấp,… Đến nay ở
khắp nơi có những công trình mang tên người xưa đã có công khởi xướng, xây dựng
lên chúng như: Kinh Vĩnh Tế, Kinh Thoại Hà, Rạch ông Chưởng,… Hơn thế nữa, để
tôn kính người đã có công tạo dựng cơ đồ, nhân dân An Giang xây dựng những đền,
chùa, miếu mạo thờ cúng họ như: Miếu Bà Chúa Xứ, Lăng Ngọc Hầu Nguyễn Văn
Thoại, Đền Quản Cơ Trần Văn Thành, Đình Thoại Sơn ( thờ Nguyễn Văn Thoại ), các
Đình ở Châu Phú, Long Xuyên, Châu Đốc và các huyện ( thờ Nguyễn Hữu Cảnh )…
Đến nay trên địa bàn tỉnh có 68 công trình di tích lịch sử được Nhà nước công
nhận xếp hạng gồm 26 di tích cấp quốc gia và 42 di tích cấp tỉnh. Cùng với cảnh quan
thiên nhiên đẹp như núi Sam, Lâm viên núi Cấm, cảnh sông nước sông Tiền, sông
Hậu,… có sức hút mạnh mẽ đối với du khách. Sự phân bố tự nhiên của công trình di
tích và cảnh quan cũng đã hình thành lên 9 cụm di tích và 5 khu du lịch lớn trong tỉnh.
Trong những năm qua, bình quân mỗi năm tỉnh An giang đón tiếp được từ 3,5 –
4 triệu lượt khách du lịch, tham quan gồm cả khách trong và ngoài nước. Vào dịp lễ
hội bà Chúa Xứ (tháng Tư âm lịch), khu vực núi Sam thuộc thị xã Châu Đốc và tuyến
Long Xuyên - Châu Đốc, tuyến Châu Đốc - Tịnh Biên – Tri Tôn có khách du lịch tham
quan, đi lại, lễ bái kết hợp du lịch suốt tháng.
Về dân tộc: dân tộc Kinh chiếm đa số trong tỉnh với 94,21%, người Khơme
chiếm 4,31%, người Hoa chiếm 0,86%, người Chăm chiếm 0,61%, còn lại là các dân
tộc khác. Các dân tộc nói chung đã hoà nhập thành cộng đồng dân cư, đoàn kết, gắn
bó, đã có được các công trình sáng tạo mang tính lịch sử nghệ thuật đến độ đặc sắc của
mình như chùa Chăm ở các huyện Phú Tân, Tân Châu, An Phú; chùa Tây An và Miếu
Bà Chúa Xứ ở núi Sam, chùa Ông Bắc ở Long Xuyên, các chùa Khơme ở Tri Tôn,
Tịnh Biên,…

`


13


Người dân An Giang sống chủ yếu bằng nghề nông, người dân vùng núi làm
nương, trồng cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày, người dân vùng đồng bằng làm
lúa nước, nuôi thả tôm cá, đặc biệt là nuôi cá lồng bè trên sông. Ở Châu Đốc, An Phú
nghề nuôi cá bè nổi tiếng không những về kinh tế chăn nuôi mà còn là điểm thu hút
khách tham quan từ khắp nơi.
Các lễ, tết truyền thống của cộng đồng dân tộc trong tỉnh gồm có:
- Người Kinh có lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ( lễ hội cấp quốc gia ), lễ hội
Đức Thoại Ngọc Hầu, lễ hội Đức Quản Cơ Trần Văn Thành, lễ hội Bia Thoại Sơn, lễ
hội chùa Giồng Thành và các lễ hội Kỳ yên của các Đình Thần.
- Người Hoa có các lễ chùa Quan Thánh Đế, chùa Ông Bắc.
- Người Khơme có tết Dolta, tết CholchnamThmay và lễ Tisad Bochia.
- Người Chăm có lễ Hatgi, tết Ramadol.
1.3 Hiện trạng môi trường tỉnh An Giang
Môi trường ở An Giang ngày càng chịu nhiều sức ép từ phát triển kinh tế, gia
tăng dân số, đô thị hoá, phát triển công nghiệp và nông nghiệp. Các chất ô nhiễm có
nguồn gốc từ chất thải công nghiệp, sinh hoạt và đặc biệt là từ hoạt động sản xuất nông
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản có chiều hướng tăng nhanh.
Đã xuất hiện tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ở các đô thị và các khu
vực tập trung sản xuất công nghiệp; ô nhiễm nguồn nước mặt làm giảm chất lượng
nước cung cấp sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản; suy giảm chất lượng môi trường đất
đang rõ nét ở các vùng đê bao kiểm soát lũ triệt để; ô nhiễm do rác thải chưa có nơi xử
lý hoặc chôn lấp đúng kỹ thuật.
An Giang là vùng đất ngập nước điển hình của quốc gia với chế độ ngập lũ, ngập
mặn và hệ thống sông rạch chằng chịt, có các hệ sinh thái rừng và các hệ sinh thái
nông nghiệp rất phát triển… Những tiềm năng đó mở ra nhiều triển vọng để An Giang
phát triển nhanh, trở thành một vùng kinh tế quan trọng của đất nước. Tuy nhiên,
những năm qua, tình trạng biến đổi khí hậu đã gây áp lực ngày càng lớn đến phát triển

kinh tế- xã hội, đến tài nguyên, môi trường và ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe của
nhân dân trong tỉnh...
Trước các sức ép về tốc độ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh An Giang,
sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá

`

14


mức bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái… đã góp phần gây
ra sự biến đổi khí hậu toàn cầu.
An Giang là một trong bốn tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng
sông Cửu Long – nơi đang chịu nhiều ảnh hưởng do biến đổi khí hậu toàn cầu. Đất đai
bị bạc màu; đa dạng sinh học giảm mạnh; diện tích đất bị xâm nhập mặn, đất bị khô
hạn, nhiễm phèn ngày càng tăng; nhiệt độ không khí tăng cao và hạn hán bất thường,
lũ lụt không theo quy luật; nhiều dịch bệnh mới hình thành… đã đe dọa đến đời sống
và hoạt động của người dân trong tỉnh.

`

15


CHƯƠNG II: BIỂU HIỆN CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ TÌNH HÌNH SẢN
XUẤT NGÀNH THỦY SẢN TỈNH AN GIANG
2.1 Một số khái niệm
2.1.1 Khái niệm về Biến đổi khí hậu
Khái niệm
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thủy

quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự
nhiên và nhân tạo.
Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu
Có hai nguyên nhân chính tác động đến biến đổi khí hậu là do các yếu tố tư nhiên
và do các yếu tố nhân tạo.
a, Nguyên nhân do tự nhiên
Nguyên nhân gây ra BĐKH do tự nhiên bao gồm thay đổi cường độ sáng của
Mặt trời, xuất hiện các điểm đen Mặt trời (Sunspots), các hoạt động núi lửa, thay đổi
đại dương, thay đổi quỹ đạo quay của trái đất.
Số Sunspots xuất hiện trung bình năm từ năm 1610 đến 2000. Với sự xuất hiện
các Sunspots làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất thay đổi, nghĩa
là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất
(Nguồn: NASA).
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời cũng gây ra sự thay đổi năng lượng
chiếu xuống mặt đất thay đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể là từ khi tạo
thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm cường độ sáng của Mặt trời đã tăng lên hơn
30%. Như vậy có thể thấy khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi cường độ
sáng mặt trời là không ảnh hưởng đáng kể đến BĐKH.
Núi lửa phun trào - Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí quyển
một lượng cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro vào bầu
khí quyển. Khối lượng lớn khí và tro có thể ảnh hưởng đến khí hậu trong nhiều năm.
Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa, các sol khí phản chiếu lại
bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm
nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.

`

16



Đại dương ngày nay - Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí
hậu. Dòng hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Thay đổi trong
lưu thông đại dương có thể ảnh hưởng đến khí hậu thông qua sự chuyển động của CO2
vào trong khí quyển.
Thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất - Trái đất quay quanh Mặt trời với một quỹ
đạo. Trục quay có góc nghiêng 23,5 °. Thay đổi độ nghiêng của quỹ đạo quay trái đất
có thể dẫn đến những thay đổi nhỏ. Tốc độ thay đổi cực kỳ nhỏ có thể tính đến thời
gian hàng tỷ năm, vì vậy có thể nói không ảnh hưởng lớn đến BĐKH.
Có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra BĐKH do các yếu tố tự nhiên đóng
góp một phần rất nhỏ vào sự BĐKH và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện nay.
Theo các kết quả nghiên cứu và công bố từ Ủy Ban Liên Chính Phủ về BĐKH thì
nguyên nhân gây ra BĐKH chủ yếu là do các hoạt động của con người.
b, Nguyên nhân do con người
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng
ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu,
khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà
kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.
Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi
băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan
băng (khoảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180
-200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp
(280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số
300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền
công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.
Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng
tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên
1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro
carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều
lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do
con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển.

Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu
thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công

`

17


nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng
lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng
9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các
hoạt động khác.
2.1.2 Khái niệm về Nước biển dâng
Khái niệm
Là sự dâng lên của mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao
gồm triều cường, nước dâng do bão…Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao
hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại
dương và các yếu tố khác.
Nguyên nhân của nước biển dâng
Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó
không bao gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể
cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của
đại dương và các yếu tố khác. Mực nước biển được đo thông qua hệ thống thiết bị đo
triều ký đặt tại các trạm hải văn hoặc các máy đo độ cao vệ tinh.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự
nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc
ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu,
sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu.
Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành
phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt của các đại dương, các

sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.
2.1.3 Khái niệm về Thủy sản
- Thủy sản: là những loại động vật sống dưới nước như cá, nhuyễn thể, giáp
xác, ... có thể qua hay không qua khâu nuôi trồng và dùng làm thực phẩm.
Thủy sản sống là động vật thủy sản còn sống hoặc đang giữ ở trạng thái tiềm sinh.
- Ngư nghiệp: là những công việc có liên quan đến trình khai thác, nuôi trồng và
phát triển nguồn lợi các sinh vật trong nước. Khi nói đến ngư nghiệp thì phải hiểu nó
gồm 3 hoạt động căn bản sau: khai thác, NTTS và phát triển nguồn lời thủy sản.
Khai thác thủy sản là việc khai thác nguồn lợi thủy sản trên biển, sông, hồ, đầm,
phá và các vùng nước tự nhiên khác.
`

18


NTTS là những tác động bất kỳ nào của con người làm cải thiện sự sinh trưởng
của một sinh vật nào đó trong một diện tích nuôi nào đó.
Nguồn lợi thủy sản là tài nguyên sinh vật trong vùng nước tự nhiên, có giá trị
kinh tế, khoa học để phát triển nghề khai thác thủy sản, bảo tồn và phát triển nguồn lợi
thủy sản.
2.2 Biểu hiện của biến đổi khí hậu tỉnh An Giang
Ở An Giang, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến đổi của các yếu
tố khí hậu và mực nước có những điểm đáng lưu ý sau:
2.2.1. Nhiệt độ
An Giang có nền nhiệt độ trung bình năm 26 – 27,80C.
Trong 30 năm qua (1979 - 2008), nhiệt độ trung bình năm ở An Giang có xu
hướng tăng lên. Trong đó, nhiệt độ trung bình tăng 0,80C, nhiệt độ cao nhất tăng 1,20C.
Nhiệt độ thấp nhất tăng 0,50C. Biến đổi khí hậu đã thể hiện ở An Giang, với mức tăng
nhiệt độ trung bình 0,1 – 1,2 0C/ 1 thập kỷ trong thế kỷ XX kể cả 3 giá trị: nhiệt độ
trung bình, nhiệt độ tối thấp và nhiệt độ tối cao.


Hình 2: Diễn biến nhiệt độ qua các năm tại trạm Châu Đốc
2.2.2. Lượng mưa
An Giang có lượng mưa năm phổ biến 1.200 - 2.100 mm, nhưng phân bố không
đều. Số ngày mưa bình quân là 132 ngày/năm. Cả số ngày mưa và tổng số lượng mưa
đều tập trung vào bảy tháng mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11 với tỷ trọng khoảng
88%. Kết quả theo dõi diễn biến lượng mưa trung bình qua các năm của các trạm Khí
tượng An Giang như sau:
`

19


×