Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn việc vận dụng tư tưởng đó ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.69 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hóa lớn của dân
tộc và thời đại. Hơn nửa thế kỉ qua, Đảng ta luôn khẳng định vai trò, ý
nghĩa, tác dụng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) đã ghi vòa Cương
Lĩnh và Điều Lệ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là bước phát triển
mới hết sức quan trọng trong nhận thức và tư duy lí luận của Đảng ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống
xã hội, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, cùng với đổi mới kinh tế là đổi
mới chính trị và các lĩnh vực khác. Để đổi mới toàn diện các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết phải đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế
của Đảng ta là vấn đề cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược đối với cách
mạng nước ta, đã mở ra cách nhìn khoa học - hiện thực cho toàn dân tộc về
vấn đề kinh tế - xã hội được bắt đầu từ đâu? Phải làm như thế nào. Phát
triển nông nghiệp, nông thôn luôn được Đảng, Nhà nước ta và toàn xã hội
đặc biệt quan tâm không phải hiện tại, trước mắt, mà còn là quá trình lâu
dài của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia
trên thế giới kể cả nước công nghiệp và các nước đang phát triển cho thấy
vấn đề nông nghiệp, nông thôn luôn có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, tạo nền tảng cho sự phát triển công nghiệp và
các ngành kinh tế khác.
Ở nước ta, trong những thập kỷ gần đây, Đảng, Nhà nước luôn quan
tâm đối với khu vực này, mở ra bước nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
nhằm tổng kết thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo phát
triển nông nghiệp, nông thôn, từ đó có các giải pháp đúng đắn thúc đẩy
nông nghiệp, nông thôn phát triển, góp phần thiết thực tiến tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó đã có nhiều đề tài
1



cấp nhà nước, các hội nghị, hội thảo khoa học, nhiều luận văn, luận án, bài
viết đăng trên các sách, báo, tạp chí bằng các cách tiếp cận khác nhau với
nội dung phong phú, đa dạng đề cập khá sâu sắc đến nông nghiệp, nông
thôn. Đó là cơ sở quan trọng giúp Đảng, Nhà nước ta ngày càng bổ sung,
hoàn thiện về chủ trương, chính sách thực hiện phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong thời kỳ mới. Chính vì vậy, tôi lưa chọn nghiên cứu "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Việc vận
dụng tư tưởng đó ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài tiểu luận của mình.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT NÔNG
NGHIỆP VÀ KINH TẾ NÔNG THÔN
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng
cao đời sống, thu nhập của người nông dân. Với Người: Nông nghiệp là
gốc, nông nghiệp là chính, là mặt trận chính; nông nghiệp là việc quan
trọng nhất... Người cho rằng, Việt Nam là nước sống về nông nghiệp, nền
kinh tế lấy canh nông làm gốc, do vậy “nông dân ta giàu thì nước giàu.
Nông nghiệp ta thịnh thì nước thịnh” . Từ đó, Người coi việc tập trung phát
triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu
cầu các ngành phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trọng tâm.
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc
nâng cao đời sống của nhân dân. Với Người: nông nghiệp là gốc, nông
nghiệp là chính, nông nghiệp là mặt trận chính, nông nghiệp là mặt trận

hàng đầu, nông nghiệp là mặt trận cơ bản, nông nghiệp là việc quan trọng
nhất… Người cho rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền
kinh tế lấy canh nông làm gốc, do vậy “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu.
Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”(2). Từ đó, Người coi việc tập trung
phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và
yêu cầu các ngành khác phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trung tâm.
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội
nguồn giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan
trọng nhất, cơ bản nhất, cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở.
Trong đó, ăn là nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn được các nhu cầu
ăn (và mặc, ở) trên một mức độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến những
3


nhu cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết “Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản
xuất lương thực, là việc cần thiết nhất cho đời sống nhân dân, là bộ phận
cực kỳ quan trọng trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước”.
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vị trí, vai trò của nông nghiệp
càng được Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng và nhất quán hơn. Ngày
13/6/1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Người nhấn mạnh “Tục ngữ có câu:
“Dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn thì không
có trời”.
Trong sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, phát triển nông
nghiệp để sản xuất ra nhiều lương thực thực phẩm là một mặt trận quan
trọng, liên quan đến sự thành bại của chiến tranh. Hồ Chí Minh nhiều lần
nhắc nhở đến câu châm ngôn Hán Việt “thực túc binh cường”. Là một
chiến lược gia và nhà quân sự tài ba, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò
to lớn của hậu phương. Hậu phương là chỗ dựa của tiền phương, là nơi
quyết định sự thành bại của của mọi cuộc chiến tranh. Trong chiến tranh,
nhân tố quyết định là vấn đề quân lương. Khi quân đội được cung cấp đủ

lương thực, thực phẩm thì sức mạnh được nhân lên rất nhiều. Đó là nhân tố
quyết định sự thành bại nơi chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, năm 1949, trong bài Việt Bắc quyết thắng, Người viết: “…
Lúc này, quan trọng nhất là nông nghiệp, vì “có thực mới vực được đạo”.
Có đủ cơm ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì kháng chiến mới mau
thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành công…Chiến sĩ trước mặt trận
thì xung phong giết giặc bằng súng đạn. Chiến sĩ nhà nông thì xung phong
giết giặc bằng cày cuốc, nghĩa là phải xung phong tăng gia sản xuất, để
giúp bộ đội đủ ăn đủ mặc để đánh giặc”. Trong những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, vai trò của nông nghiệp càng được Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng, năm 1967, Người lại viết: “Quân và dân ta phải ăn no để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Vì vậy sản xuất lương thực và thực phẩm là
rất quan trọng”. Người xác định: “Sản xuất và chiến đấu là hai mặt trận
4


quan hệ mật thiết với nhau. Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu
cần của quân đội chiến đấu ngoài mặt trận… Các xã viên hợp tác xã phải
sản xuất tốt để bộ đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng”.
Thực tế thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng
như chống đế quốc Mỹ xâm lược đã chứng minh cho tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh: Sự dồi dào về lương thực, thực phẩm là nhân tố góp
phần quyết định to lớn vào thắng lợi của chiến tranh.
Trong xây dựng CNXH, thời kỳ đầu ở miền Bắc, nông nghiệp vẫn
được Hồ Chí Minh coi như một mặt trận chủ yếu, là nền tảng của toàn bộ
cơ cấu kinh tế quốc dân. Theo Hồ Chí Minh, trong nền kinh tế quốc dân
của mỗi quốc gia có ba bộ phận quan trọng nhất là nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp. Ba bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
tác động và chi phối lẫn nhau. Nhưng trong điều kiện Việt Nam thì nông
nghiệp luôn luôn là lĩnh vực quan trọng nhất. Đối với Việt Nam, dù cơ cấu

kinh tế thay đổi và phát triển như thế nào cũng phải lấy nông nghiệp làm
gốc. Nếu nông nghiệp phát triển, lương thực thực phẩm dồi dào, nông dân
khá giả thì xã hội sẽ phồn vinh. Ngược lại, nông nghiệp đình đốn trì trệ thì
các ngành khác cũng theo đó mà suy giảm. Do vậy, từ năm 1955, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Để đẩy mạnh việc củng cố miền Bắc, làm cơ sở cho công
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, Chính phủ sẽ thi hành kế hoạch khôi
phục kinh tế năm 1956 bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,
giao thông vận tải; nhưng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Yêu cầu của sản
xuất nông nghiệp năm 1956 là bước đầu giải quyết lương thực, cung cấp
nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu nông nghiệp, thủ công nghiệp, công
nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán với nước
ngoài”(7). Đến cuối năm 1956, Người lại viết: “Sang năm mới, sản xuất
nông nghiệp vẫn là nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch Nhà nước nhằm tăng
cường thêm nữa sản xuất lương thực, thực sự đẩy mạnh việc trồng cây

5


công nghiệp, việc chăn nuôi gia súc, đồng thời coi trọng nghề rừng, nghề
cá, nghề muối và những nghề phụ khác”.
Trong mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận quan trọng nhất của nền
kinh tế quốc dân, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của
nông nghiệp đối với công nghiệp và thương nghiệp.
Hồ Chí Minh luôn coi công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh
tế quan trọng nhất và có tác động qua lại với nhau rất mật thiết. Người đã
nhiều lần nêu lên hình ảnh: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của
nền kinh tế”. Người dùng hẳn từ “què”, “khập khểnh” để phê phán sự phát
triển không đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý toàn Đảng,
toàn dân phải chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Là “hai chân của
nền kinh tế” phải phát triển vững chắc cả hai: “Công nghiệp và nông

nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi
khỏe, đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích” (10).
Tuy vậy, qua những phát biểu của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy hàm
chứa ý nghĩa sâu xa! Trong hai chân công nghiệp và nông nghiệp của nền
kinh tế giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, phát triển nông nghiệp phải là
chân phải, chân trụ, là bước phải đi đầu tiên để cho công nghiệp có được
những bước đi vững chắc. Năm 1956, trong Lời kêu gọi đồng bào nông
dân thi đua sản xuất và tiết kiệm, Người đã viết: “sản xuất nông nghiệp…
giải quyết vấn đề lương thực, cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục
tiểu nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để
mở rộng quan hệ buôn bán với các nước ngoài” (11)
Năm 1962, Người chỉ ra rõ ràng hơn: “Nông nghiệp phải phát triển
mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu
(như đường, mía, chè…) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ,
đay…) để đổi lấy máy móc”.
Nông nghiệp còn cung cấp lương thực, thực phẩm cho công nhân các
nghành công nghiệp.
6


Tóm lại, “Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không
phát triển được”.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện ở nước ta
Vận dụng tư tưởng của Người để phát triển nền nông nghiệp hiện đại,
bền vững, trong những năm tới chúng ta phải quan tâm phát triển sản xuất
nông nghiệp toàn diện, đồng thời phải phát triển mạnh công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, và dịch vụ ở nông thôn. Riêng về các giải pháp phát triển
nền nông nghiệp bền vững, tôi cho rằng hiện nay Đảng, Nhà nước cũng đã
có các hoạch định cụ thể. Cá nhân tôi thì cho rằng, cần làm tốt 7 việc sau

đây:
Một là, cần xây dựng mới các quy hoạch, chương trình, đề án phát
triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó tiếp tục xây dựng các chương trình:
Chương trình xây dựng nông thôn mới; Chương trình xóa đói, giảm nghèo
và kiên cố hóa nhà ở cho hộ chính sách, hộ nghèo; Chương trình nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn... Bên cạnh đó, cần xây dựng các đề án
chuyên ngành: Đề án phát triển ngành trồng trọt; Đề án phát triển ngành
chăn nuôi; Đề án bảo vệ phát triển rừng; Đề án nuôi trồng, khai thác và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản; Đề án phát triển ngành muối...
Hai là, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn.
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (đất đai, nguồn
nhân lực, nguồn vốn) để phát triển nông nghiệp bền vững; đi đôi với phát
triển nhanh, đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tăng cường
năng lực dự báo, phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và tăng cường
hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ

7


Năm là, tiếp tục đổi mới và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ
hợp tác; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Sáu là, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản cho
nông dân.
Bảy là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn;
tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, góp phần giữ vững ổn định chính
trị - xã hội và xây dựng nông thôn mới.

Sỡ dĩ Người coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, vì phát triển
nông nghiệp toàn diện không những đáp ứng được nhu cầu cái ăn, cái mặc,
chỗ ở, ổn định và cải thiện được đời sống nhân dân, mà còn vì phát triển
nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp
mạnh mẽ. Hay nói cách khác, đó là giải pháp quan trọng để phát triển bản
thân nền nông nghiệp Việt Nam
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nền nông nghiệp toàn diện là
nền nông nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
ngành nghề phụ có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hòa, bổ
sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
Sự đa dạng hóa nông nghiệp trong tư tưởng của Người có một ý nghĩa lớn
lao đối với sự hòa nhập và thích nghi nhanh của các sản phẩm nông nghiệp
đối với sự biến động; nó chính là cái đệm giảm sốc khi có những chấn động
vì thiên tai, địch họa, nó làm giảm bớt các hậu quả xấu do nền kinh tế độc
canh cây lúa mang lại, giúp nông dân có nhiều phương án lựa chọn tổ chức
sản xuất của mình, giúp họ nhanh nhạy và nâng cao hiệu quả của sản xuất
nông nghiệp.

8


CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ KINH TẾ NÔNG THÔN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Chủ trương của Đảng và nhà nước về nông nghiệp và kinh tế
nông thôn
Đảng ta đã có nghị quyết về “Tam nông” để nâng cao thu nhập cho
người nông dân, nâng cao cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn, cải thiện điều
kiện sống, cải thiện dân trí... Cùng với nghị quyết về “Tam nông”, để nâng
cao thu nhập cho người dân, ngành nông nghiệp cũng đặt ra mục tiêu phấn

đấu đến năm 2015 là: Đạt được sự tăng trưởng bền vững, chất lượng, cải
thiện cơ bản điều kiện sống của dân cư nông thôn, nhất là người nghèo, bảo
vệ và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Đầu tiên là tiếp tục đổi mới thể chế, tạo điều kiện thuận lợi để nông
dân, doanh nhân các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc; đẩy mạnh nghiên cứu và
chuyển giao khoa học kỹ thuật làm cơ sở để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nông, lâm, thủy sản; đẩy mạnh
phát triển thủy lợi và cơ sở hạ tầng nông thôn làm nền tảng phát triển nông
nghiệp bền vững.
Đồng thời tạo điều kiện phát triển bền vững các ngành xã hội khác,
nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đào tạo nhân
lực, nâng cao hàm lượng tri thức trong tất cả hoạt động của ngành để tiếp
tục thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn trong điều kiện phải nhanh chóng rút bớt lao động ra khỏi lĩnh vực
nông nghiệp; cải cách bộ máy hành chính để ngày càng hoạt động chuyên
nghiệp, hiệu quả hơn, tăng cường chống tham nhũng, lãng phí.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: “Phát triển
nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa,
9


hiện đại hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải
quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng
đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế
biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng
văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”.
Thực hiện công cuộc đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được
những thành tựu khá toàn diện và to lớn, kinh tế nông nghiệp phát triển, đời

sống nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã thay đổi rõ rệt.
Những năm qua, nông nghiệp nước ta đã có chuyển biến, đạt được
một số thành tựu quan trọng, nhất là về sản xuất lương thực và tạo ra một
số vùng chuyên canh cây công nghiệp. Tuy nhiên, sản lượng lương thực
tăng không đều và chưa vững chắc; diện tích cây công nghiệp tăng chậm,
nhất là cây công nghiệp ngắn ngày; chưa gắn việc phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp với công nghiệp chế biến; lao động, đất đai, rừng, biển chưa được
sử dụng tốt... Đó là do nhận thức về nông nghiệp toàn diện, trong đó lương
thực, thực phẩm là trọng tâm số một, chưa được thấu suốt đầy đủ. Đầu tư
và nhất là các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp chưa được
giải quyết thoả đáng. Trong 5 năm 1986-1990, chúng ta tập trung cho mục
tiêu số một là sản xuất lương thực và thực phẩm, đồng thời ra sức mở mang
cây công nghiệp, nhất là cây công nghiệp ngắn ngày, đi liền với xây dựng
đồng bộ công nghiệp chế biến, phát triển mạnh các ngành nghề, gắn lao
động với đất đai, rừng, biển, nhằm khai thác đến mức cao nhất những tiềm
năng đó.
2.2. Những giải pháp thực hiện
a. Chủ trương chung
Thực hiện những chủ trương phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn của Đảng, sau 10 năm đổi mới, kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước
ta có những bước phát triển đáng kể. Đại hội VIII đã đánh giá những thành
10


tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của nó để đề ra chủ trương
tiếp theo phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ở Đại hội này, Đảng ta
quyết định “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó
nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn. Văn kiện Đại hội đã chỉ ra những nội dung cơ bản của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm 90

của thế kỷ XX là:
“- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm
hàng hóa nhiều vế số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương
thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của
thị trường trong, ngoài nước.
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa….
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ
ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô
thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu
phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của
nhân dân. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành
nông thôn mới văn minh, hiện đại”.
- Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng
bằng có năng suất và hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai,
chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc sang các cây khác có hiệu quả
hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích
ứng với từng vùng sinh thái.
- Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có
hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với
11


công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương
trình phủ xanh đất trống, đồi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi
trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất; áp dụng các biện pháp sinh
học hiện đại và công nghệ sinh học, không sử dụng hoá chất; sản xuất các

loại nông sản sạch. Đến năm 2000 đưa tỉ trọng cây công nghiệp chiếm
khoảng 45% giá trị sản phẩm ngành trồng trọt.
- Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôi tập trung gắn với công
nghiệp chế biến thực phẩm. Khuyến khích và nhân rộng các hộ chăn nuôi
giỏi, các nông trại chăn nuôi. Đổi mới hệ thống giống có năng suất cao,
chất lượng tốt.
- Phát triển nghề nuôi trồng thuỷ hải sản cả ở nước ngọt, nước lợ và
nước mặn. Bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn. Chuyển một số ruộng
trũng, thường bị úng lụt hoặc bị nhiễm mặn, năng suất thấp sang nuôi trồng
thuỷ sản. Cải tạo con giống, tổ chức tốt dịch vụ hậu cần về thức ăn, phòng
chống dịch bệnh, từng bước áp dụng phương thức nuôi công nghiệp. Đến
năm 2000, diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên 60 vạn ha.
- Phát triển nghề rừng gắn với việc ổn định và cải thiện đời sống của
dân cư ở miền núi; tăng tốc độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc; khoanh
nuôi, tái sinh, bảo vệ rừng; tạo điều kiện cho miền núi phát huy thế mạnh
về lâm nghiệp. Hoàn thành việc giao rừng, giao đất đến hộ nông dân. Tăng
cường công tác kiểm lâm để bảo vệ vốn rừng, bảo vệ hệ sinh thái bền vững,
bảo vệ quỹ gien, ngăn chặn tệ đốt phá rừng, săn thú bừa bãi. Quản lý chặt
chẽ việc khai thác gỗ, tiếp tục cấm xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Quy hoạch và
phát triển công nghiệp chế biến gỗ có hiệu quả.
- Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở
nông thôn, thị tứ, thị trấn, liên kết với công nghiệp ở đô thị lớn và khu công
nghiệp tập trung. Phát triển các làng nghề, nhất là các làng nghề làm hàng
xuất khẩu; mở mang các loại hình dịch vụ. Xây dựng thêm đường sá, mạng

12


lưới cấp điện, cấp nước, điện thoại, trường học, cơ sở y tế, văn hoá ở nông
thôn.

b. Xây dựng nền văn hóa nông nghiệp, nông thôn
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất văn hóa, đạo đức của
chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã khởi xướng và tổ chức thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nông
thôn mới là xây dựng đời sống mới, lối sống mới, là thực hành Cần, Kiệm,
Liêm, Chính, Chí công vô tư bằng chương trình mục tiêu quốc gia; nhằm
CNH, HĐH nông thôn, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Trong bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn
mới, tiêu chí 16- Văn hóa cần được thực hành có hiệu quả thông qua 11 nội
dung nhiệm vụ: Hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng nông thôn mới; phát triển
hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn; chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế,
nâng cao thu nhập; giảm nghèo và an sinh xã hội; đổi mới và phát triển các
hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông thôn; phát triển giáo dục-đào
tạo ở nông thôn; phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn; xây
dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông thôn; cấp nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn; nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể chính trị-xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh trật tự xã
hội nông thôn.
Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng nông thôn
mới, chúng ta cần nâng cao nhận thức cho mọi người dân về văn hóa, ý nghĩa
của văn hóa khi đã thấm sâu vào tâm lý, đạo đức con người, nhất là làm cho
tâm lý con người có bản lĩnh chính trị và lý tưởng cộng sản. Kết hợp xây dựng
nông thôn mới với Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; công tác xây dựng
Đảng, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương IV, khóa XI về Một số vấn đề
cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay. Phát huy vai trò làm chủ, chủ thể có
văn hóa của từng người dân trong các gia đình, làng, xã, khi lập đề án, tổ chức
13



thực hiện đề án nông thôn mới. Tùy theo đặc thù, lợi thế của từng địa phương,
làng, xã để thực hành văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là lý tưởng cộng
sản, thông qua 11 nội dung nhiệm vụ và 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
“Phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh" là
một đề tài lớn cần được tập hợp, nghiên cứu đầy đủ có tính khoa học, thực
tiễn để làm rõ hơn, sáng tỏ hơn công nghiệp hoá, hiện đại hoá con đường đi
của chúng ta.
c. Đẩy mạnh xây dựng phong trào nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại;
cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch...
Trong đường lối và chiến lược phát triển, Chính phủ luôn xem trọng
mục tiêu công nghiệp hóa hơn. Nhưng trong tương lai, có thể nông nghiệp
trở thành nhân tố mang lại sự tăng trưởng của cả nền kinh tế.
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp
với hơn 70% dân cư đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông
thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối
với việc ổn định kinh tế xã hội đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới
là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”
Nghị quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to
lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Chính vì vậy các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được
giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Nông nghiệp, nông thôn nước ta còn là khu vực giàu tiềm năng cần
14



khai thác một cách có hiệu quả. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng
vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là
nhiệm vụ của nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; Xây dựng giai cấp nông
dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh; Không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà
giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó
khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước
tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông
thôn mới.
Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra
Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành một chương trình hành động của
Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất
nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới là: xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo
hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái
gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ.
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới là chương
trình mang tính tổng hợp, sâu, rộng, có nội dung toàn diện; bao gồm tất cả
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, an ninh - quốc phòng. Mục

tiêu chung của chương trình được Đảng ta xác định là: xây dựng nông thôn
15


mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế
và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc;
môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống
vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta khẳng định xây dựng
nông thôn mới là một nhiệm vụ quan trọng trong định hướng phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu
rõ phương hướng, nhiệm vụ của xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 là:
Tiếp tục triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc
điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn,
giữ gìn và phát huy nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam.
Thực hiện đường lối của Đảng, trong thời gian qua, phong trào xây
dựng nông thôn mới đã diễn ra sôi nổi ở khắp các địa phương trên cả nước,
thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, phát huy được sức mạnh của cả xã
hội. Quá trình xây dựng nông thôn mới đã đạt được thành tựu khá toàn
diện. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đảm bảo, tạo sự thuận lợi
trong giao lưu buôn bán và phát triển sản xuât; Kinh tế nông thôn chuyển
dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, đã xuất hiện
nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả gắn với xây dựng nông thôn mới, nâng
cao thu nhập và đời sống vật chất tinh thần cho người dân; Hệ thống chính
trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường; Dân chủ cơ sở được phát huy;
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; Vị thế của giai cấp
nông dân ngày càng được nâng cao. Những thành tựu đó đã góp phần thay

đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo cơ sở vững chắc nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân.

16


Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiều khó
khăn hạn chế, nhất là về công tác quy hoạch. Quy hoạch nông thôn mới là
một vấn đề mới, liên quan đến nhiều lĩnh vực và phải mang tính chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực,
nên trong quá trình triển khai còn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó chúng ta
còn gặp khó khăn về huy động nguồn vốn cho xây dựng nông thôn mới.
Đời sống của người dân nông thôn còn nhiều khó khăn. Mặt khác, trong
nhận thức nhiều người còn cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do
nhà nước đầu tư xây dựng nên còn có tâm lí trông chờ, ỷ lại. Chính vì vậy
trong thời gian tới bên cạnh việc đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền chủ trương
đường lối của Đảng, để mọi người dân đều nhận thức rằng: "Xây dựng
nông thôn mới là công việc thường xuyên của mỗi người, mỗi nhà, mỗi
thôn xóm và từng địa phương; tất cả cùng chung sức dưới sự lãnh đạo của
Đảng..." nhằm thực hiện thành công xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới được xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, chính vì vậy nó
phải có hệ thống lí luận soi đường. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng
nông thôn mới là sự vận dụng sáng tạo lí luận của Chủ nghĩa Mác Lênin
vào thực tiễn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, hướng đến thực hiện mục
tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa, từng bước xóa bỏ sự khác biệt giữa thành
thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, để đi đến kết
quả cuối cùng là giai cấp công nhân, nông dân và trí thức sẽ trở thành
những người lao động của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Thực tiễn cũng cho thấy, những xã hội tiến bộ bao giờ cũng chú ý tới
việc thu hẹp khoảng cách sự phát triển giữa thành thị và nông thôn, phát
triển lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội, cải thiện điều
kiện sinh hoạt ở nông thôn, làm cho thành thị và nông thôn xích lại gần
nhau. Chính vì vậy, bên cạnh phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lí luận,
17


tổng kết thực tiễn quá trình xây dựng nông thôn mới, chúng ta cần học tập
kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực về phát triển nông
thôn tiên tiến hiện đại, để xây dựng hoàn thiện hệ thống các quan điểm lí
luận về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn làm cơ sở khoa học
cho thực tiễn. Xây dựng nông thôn nước ta trở nên văn minh, tiên tiến hiện
đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa và nét đẹp truyền thống của nông
thôn Việt Nam.

18


KẾT LUẬN
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng song”. Chúng ta phải ; “Làm cho dân
có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học
hành”.
Trên tinh thần kế thừa những tư tưởng, quan điểm của chủ tịch Hồ
Chí Minh về nông dân. Đảng ta đã xác định vai trò của nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn xây dựng đất
nước và những thuận lợi, khó khăn thử thách đang đặt ra đối với nông dân
trong thời kì hội nhập. Bên cạnh đó Đảng ta cũng đặt ra những nhiệm vụ,
những biện pháp chỉ ra phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển

nước ta, làm cho đất nước ta thực sự là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội trong nước và thế giới có nhiều
biến đổi như hiện nay thì việc kế thừa, bảo vệ và phát triển và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn nước ta là cực kì quan trọng. Do đó, việc
học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện nước ta trở thành
một yêu cầu cấp thiết. Trên đây là tiểu luận của em với nội dung: tư tưởng
Hồ Chí Minh về giai cấp nông dân và một số vấn đề đặt ra đối với nông
dân trong giai đoạn hiện nay.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng tiểu luận khó tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì thế em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
thầy cô và các bạn để tiểu luận được bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hơn
nữa.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Xuân Ngọc (chủ biên): Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp cách mạng và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
3. Lê Minh Quân: Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I
Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
4. Chí Minh toàn tập Nxb Chính trị Quốc gia

20


MỤC LỤC

Ở nước ta, trong những thập kỷ gần đây, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm
đối với khu vực này, mở ra bước nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhằm
tổng kết thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
nông nghiệp, nông thôn, từ đó có các giải pháp đúng đắn thúc đẩy nông
nghiệp, nông thôn phát triển, góp phần thiết thực tiến tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó đã có nhiều đề tài cấp
nhà nước, các hội nghị, hội thảo khoa học, nhiều luận văn, luận án, bài viết
đăng trên các sách, báo, tạp chí bằng các cách tiếp cận khác nhau với nội
dung phong phú, đa dạng đề cập khá sâu sắc đến nông nghiệp, nông thôn.
Đó là cơ sở quan trọng giúp Đảng, Nhà nước ta ngày càng bổ sung, hoàn
thiện về chủ trương, chính sách thực hiện phát triển nông nghiệp, nông thôn
trong thời kỳ mới. Chính vì vậy, tôi lưa chọn nghiên cứu "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Việc vận dụng tư tưởng đó
ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài tiểu luận của mình.....................................1
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông nghiệp...............3
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng
cao đời sống, thu nhập của người nông dân. Với Người: Nông nghiệp là
gốc, nông nghiệp là chính, là mặt trận chính; nông nghiệp là việc quan
trọng nhất... Người cho rằng, Việt Nam là nước sống về nông nghiệp, nền
kinh tế lấy canh nông làm gốc, do vậy “nông dân ta giàu thì nước giàu.
Nông nghiệp ta thịnh thì nước thịnh” . Từ đó, Người coi việc tập trung phát
triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu
cầu các ngành phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trọng tâm. ...............3
Nông nghiệp với Hồ Chí Minh luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển nền kinh tế, xã hội cũng như trong việc nâng cao
đời sống của nhân dân. Với Người: nông nghiệp là gốc, nông nghiệp là
chính, nông nghiệp là mặt trận chính, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
nông nghiệp là mặt trận cơ bản, nông nghiệp là việc quan trọng nhất…
Người cho rằng: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế

lấy canh nông làm gốc, do vậy “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông
nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”(2). Từ đó, Người coi việc tập trung phát

21


triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và yêu
cầu các ngành khác phải lấy việc phục vụ nông nghiệp làm trung tâm........3
Hồ Chí Minh coi phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn
giải quyết mọi vấn đề xã hội. Nông nghiệp giải quyết nhu cầu quan trọng
nhất, cơ bản nhất, cấp thiết nhất của con người là nhu cầu ăn, mặc, ở. Trong
đó, ăn là nhu cầu đầu tiên. Chỉ khi nào thỏa mãn được các nhu cầu ăn (và
mặc, ở) trên một mức độ nhất định thì người ta mới nghĩ đến những nhu
cầu cao hơn. Hồ Chí Minh viết “Sản xuất nông nghiệp trước hết là sản xuất
lương thực, là việc cần thiết nhất cho đời sống nhân dân, là bộ phận cực kỳ
quan trọng trong kế hoạch kinh tế của Nhà nước”........................................3
Sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vị trí, vai trò của nông nghiệp
càng được Hồ Chí Minh nhận thức rõ ràng và nhất quán hơn. Ngày
13/6/1955, tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Người nhấn mạnh “Tục ngữ có
câu: “Dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn
thì không có trời”...........................................................................................4
Trong sự nghiệp cách mạng, theo Hồ Chí Minh, phát triển nông nghiệp để
sản xuất ra nhiều lương thực thực phẩm là một mặt trận quan trọng, liên
quan đến sự thành bại của chiến tranh. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở
đến câu châm ngôn Hán Việt “thực túc binh cường”. Là một chiến lược gia
và nhà quân sự tài ba, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò to lớn của hậu
phương. Hậu phương là chỗ dựa của tiền phương, là nơi quyết định sự
thành bại của của mọi cuộc chiến tranh. Trong chiến tranh, nhân tố quyết
định là vấn đề quân lương. Khi quân đội được cung cấp đủ lương thực,
thực phẩm thì sức mạnh được nhân lên rất nhiều. Đó là nhân tố quyết định

sự thành bại nơi chiến trường. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, năm 1949, trong bài Việt Bắc quyết thắng, Người viết: “…Lúc này,
quan trọng nhất là nông nghiệp, vì “có thực mới vực được đạo”. Có đủ cơm
ăn áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì kháng chiến mới mau thắng lợi,
thống nhất và độc lập mau thành công…Chiến sĩ trước mặt trận thì xung
phong giết giặc bằng súng đạn. Chiến sĩ nhà nông thì xung phong giết giặc
bằng cày cuốc, nghĩa là phải xung phong tăng gia sản xuất, để giúp bộ đội
đủ ăn đủ mặc để đánh giặc”. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, vai trò của nông nghiệp càng được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng,
năm 1967, Người lại viết: “Quân và dân ta phải ăn no để đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược. Vì vậy sản xuất lương thực và thực phẩm là rất quan trọng”.
Người xác định: “Sản xuất và chiến đấu là hai mặt trận quan hệ mật thiết
22


với nhau. Các hợp tác xã nông nghiệp là đội quân hậu cần của quân đội
chiến đấu ngoài mặt trận… Các xã viên hợp tác xã phải sản xuất tốt để bộ
đội và nhân dân ta ăn no đánh thắng”...........................................................4
Thực tế thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như
chống đế quốc Mỹ xâm lược đã chứng minh cho tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh: Sự dồi dào về lương thực, thực phẩm là nhân tố góp
phần quyết định to lớn vào thắng lợi của chiến tranh...................................5
Trong xây dựng CNXH, thời kỳ đầu ở miền Bắc, nông nghiệp vẫn được Hồ
Chí Minh coi như một mặt trận chủ yếu, là nền tảng của toàn bộ cơ cấu
kinh tế quốc dân. Theo Hồ Chí Minh, trong nền kinh tế quốc dân của mỗi
quốc gia có ba bộ phận quan trọng nhất là nông nghiệp, công nghiệp và
thương nghiệp. Ba bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động
và chi phối lẫn nhau. Nhưng trong điều kiện Việt Nam thì nông nghiệp luôn
luôn là lĩnh vực quan trọng nhất. Đối với Việt Nam, dù cơ cấu kinh tế thay
đổi và phát triển như thế nào cũng phải lấy nông nghiệp làm gốc. Nếu nông

nghiệp phát triển, lương thực thực phẩm dồi dào, nông dân khá giả thì xã
hội sẽ phồn vinh. Ngược lại, nông nghiệp đình đốn trì trệ thì các ngành
khác cũng theo đó mà suy giảm. Do vậy, từ năm 1955, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: “Để đẩy mạnh việc củng cố miền Bắc, làm cơ sở cho công cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà, Chính phủ sẽ thi hành kế hoạch khôi phục kinh
tế năm 1956 bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, giao thông
vận tải; nhưng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Yêu cầu của sản xuất nông
nghiệp năm 1956 là bước đầu giải quyết lương thực, cung cấp nguyên liệu,
vật liệu để khôi phục tiểu nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và
cung cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài”(7).
Đến cuối năm 1956, Người lại viết: “Sang năm mới, sản xuất nông nghiệp
vẫn là nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch Nhà nước nhằm tăng cường thêm
nữa sản xuất lương thực, thực sự đẩy mạnh việc trồng cây công nghiệp,
việc chăn nuôi gia súc, đồng thời coi trọng nghề rừng, nghề cá, nghề muối
và những nghề phụ khác”..............................................................................5
Trong mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế
quốc dân, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của nông
nghiệp đối với công nghiệp và thương nghiệp..............................................6
Hồ Chí Minh luôn coi công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế
quan trọng nhất và có tác động qua lại với nhau rất mật thiết. Người đã
23


nhiều lần nêu lên hình ảnh: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của
nền kinh tế”. Người dùng hẳn từ “què”, “khập khểnh” để phê phán sự phát
triển không đồng bộ giữa công nghiệp và nông nghiệp, để lưu ý toàn Đảng,
toàn dân phải chú ý đúng mức đến phát triển nông nghiệp. Là “hai chân của
nền kinh tế” phải phát triển vững chắc cả hai: “Công nghiệp và nông
nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi
khỏe, đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích” (10).6

Tuy vậy, qua những phát biểu của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy hàm chứa ý
nghĩa sâu xa! Trong hai chân công nghiệp và nông nghiệp của nền kinh tế
giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, phát triển nông nghiệp phải là chân phải,
chân trụ, là bước phải đi đầu tiên để cho công nghiệp có được những bước
đi vững chắc. Năm 1956, trong Lời kêu gọi đồng bào nông dân thi đua sản
xuất và tiết kiệm, Người đã viết: “sản xuất nông nghiệp… giải quyết vấn đề
lương thực, cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu nông nghiệp,
thủ công nghiệp, công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản để mở rộng quan hệ
buôn bán với các nước ngoài” (11)...............................................................6
Năm 1962, Người chỉ ra rõ ràng hơn: “Nông nghiệp phải phát triển mạnh
để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như
đường, mía, chè…) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ,
đay…) để đổi lấy máy móc”..........................................................................6
Nông nghiệp còn cung cấp lương thực, thực phẩm cho công nhân các
nghành công nghiệp.......................................................................................6
Tóm lại, “Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không phát
triển được”.....................................................................................................7
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện ở nước ta............................................................................7
Vận dụng tư tưởng của Người để phát triển nền nông nghiệp hiện đại, bền
vững, trong những năm tới chúng ta phải quan tâm phát triển sản xuất nông
nghiệp toàn diện, đồng thời phải phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, và dịch vụ ở nông thôn. Riêng về các giải pháp phát triển nền
nông nghiệp bền vững, tôi cho rằng hiện nay Đảng, Nhà nước cũng đã có
các hoạch định cụ thể. Cá nhân tôi thì cho rằng, cần làm tốt 7 việc sau đây:
.......................................................................................................................7

24



Một là, cần xây dựng mới các quy hoạch, chương trình, đề án phát triển
nông nghiệp, nông thôn, trong đó tiếp tục xây dựng các chương trình:
Chương trình xây dựng nông thôn mới; Chương trình xóa đói, giảm nghèo
và kiên cố hóa nhà ở cho hộ chính sách, hộ nghèo; Chương trình nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn... Bên cạnh đó, cần xây dựng các đề án
chuyên ngành: Đề án phát triển ngành trồng trọt; Đề án phát triển ngành
chăn nuôi; Đề án bảo vệ phát triển rừng; Đề án nuôi trồng, khai thác và bảo
vệ nguồn lợi thủy sản; Đề án phát triển ngành muối... .................................7
Hai là, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững,
đồng thời phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn. .....................................................................................................7
Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực (đất đai, nguồn nhân
lực, nguồn vốn) để phát triển nông nghiệp bền vững; đi đôi với phát triển
nhanh, đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tăng cường năng
lực dự báo, phòng, chống giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường. ...............7
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và tăng cường hợp
tác quốc tế về khoa học - công nghệ.............................................................7
Năm là, tiếp tục đổi mới và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp
tác; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp,
nông thôn. .....................................................................................................8
Sáu là, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản cho nông
dân.................................................................................................................8
Bảy là, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn; tập
trung giải quyết các vấn đề phát sinh, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội và xây dựng nông thôn mới................................................................8
Sỡ dĩ Người coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, vì phát triển nông
nghiệp toàn diện không những đáp ứng được nhu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ
ở, ổn định và cải thiện được đời sống nhân dân, mà còn vì phát triển nông
nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển nông nghiệp mạnh
mẽ. Hay nói cách khác, đó là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân
nền nông nghiệp Việt Nam............................................................................8

Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh nền nông nghiệp toàn diện là nền
nông nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và ngành
25


×