Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Nhận dạng, đánh giá xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của trung quốc dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.65 KB, 42 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay vấn đề toàn cầu hoá và triển vọng của chủ nghĩa xã hội
đang là tâm điểm của các nước xã hội chủ nghĩa nói nói riêng và của thế giới
nói chung. Trong đó khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và mở ra cho loài người bao nhiêu điều kỳ diệu. Trong thế kỷ XXI,
khoa học công nghệ đã có những bược phát triển mà trước đây ngay cả
những dự báo táo bạo nhất cũng chưa thể hình dung được. Cuộc cách mạng
đó đã đi và đang đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết nó
tạo nên bước nhảy vọt trong lực lượng sản xuất của xã hội. Chưa bao giờ
tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như khả năng cải tạo và thích nghi tự nhiên
của con người lớn như hiện nay. Cùng với khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, đã xuất hiện nền kinh tế mới- kinh tế tri thức- ở một số
nước tư bản phát triển. Hệ quả của sự phát triển lực lượng sản xuất mới và
chín muồi trên quy mô toàn cầu và tiền đề cho cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa và cho sự xuất hiện CNXH đang chín muồi trên phạm vi thế giới. Đó
cũng chính là sự ra đời của những “mầm non xanh tươi” mọc lên từ công
cuộc cải cách ở Trung Quốc, đổi mới Việt Nam".
Đặc biệt Trung Quốc với công cuộc cải cách và mở cửa bắt đầu từ
Hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng Cộng Sản Trung Quốc( tháng
12/1978)., đường lối đối mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức được
tuyên bố từ đại hội Đảng lần thứ VI( tháng 12/1986) Công cuộc cải cách và
đổi mới đều được bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận về CNXH trên cơ sở
kiên định chủ nghĩa Mác- Lê Nin và vận dụng học thuyết này phù hợp với
truyền thống lịch sử, văn hoá, đặc điểm kinh tế, xã hội của mỗi nước song
luôn định hướng XHCN.

1


Thực tiễn cải cách đổi mới ở hai nước cho thấy- mặc dù đây đó trong


cách diễn đạt, chẳng hạn diễn đạt về bản chất của CNXH, về giai đoạn phát
triển đang hiện hữu ở mỗi nước… có ít nhiều khác nhau nhưng hình thái
kinh tế xã hội, đường lối, chính sách phát triển ở hai nước căn bản giống
nhau. Cả hai nước đều phát triển nền kinh tế thị trường XHCN( hay định
hướng XHCN); các nền kinh tế đang được điều tiết( hay quản lý) theo
hướng phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thụât của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân,
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại đi liền với xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp trên cả ba mặt- sở hữu, quản lý và phân phối. Cả hai nước đều quan
tâm đặc biệt đến thực hiện công bằng xã hội. Trung Quốc đã nhẫn mạnh: “
Hoàn thiện cơ cấu phân phối, kiên trì lấy chế độ phân phối theo lao động
làm chính đồng thời duy trì các hình thức phân phối khác. Kết hợp phân
phối theo lao động với phân phối theo yếu tố sản xuất, giữ vững nguyên tắc
ưu tiên hiệu quả, công bằng, có lợi cho ưu tiên sắp xếp nguồn tài nguyên,
thúc đẩy kinh tế phát triển, đảm bảo ổn định xã hội. Bảo đảm thu nhập hợp
pháp theo luật, cho phép và khuyến khích một số người giàu lên trước thông
qua lao động chân chính và kinh doanh hợp pháp, cho phép và khuyến khích
các yếu tố sản xuất như vốn, kỹ thuật tham gia vào phân phối thu nhập trong
sản xuất và kinh doanh…” ( Đại hội XV, Đảng Cộng Sản Trung Quốc).
Từ những thành công của công cuộc cải cách, mở cửa, nền kinh tế
Trung Quốc đã có những biến đổi sâu sắc. Từ một nước nông nghiệp lạc
hậu Trung Quốc đã trở thành một trong những cường quốc vững mạnh về
chính trị, quân sự, kinh tế trên thế giới. Một niềm tự hào của các nước Á
Đông, song sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc cũng gặp nhiều
khó khăn trong xã hội như sau: mất cân đối giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng miền; vấn đề việc làm; vấn đề môi trường sinh thái, tài
2


nguyên…Đặc biệt sự chênh lệch giữa các vùng miền tạo nên nhiều hệ luỵ

cho xã hội, nhiều vấn đề mới nảy sinh đặc biệt lòng tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng đã mất sự bền vững. Điều đó đòi hỏi phải có những giải
pháp điều hòa lợi ích, giải quyết mâu thuẫn, ngăn chặn xung đột trong xã
hội, đặc biệt giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thực của của
nhân dân. Đứng trước vấn đề này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đứng đầu là
Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã đưa ra mục tiêu “Xây dựng xã hội hài hòa
XHCN” để xây dựng một phương hương sao cho phù hợp với con đường
hòa bình cùng phát triển, tồn tại, đưa đất nước phát triển hài hòa bền vững
trên mọi lĩnh vực: kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội.
Từ những năm trước và sau đổi mới, cả hai nước Việt Nam và Trung
Quốc đã tạo nên, làm xuất hiện một mô hình CNXH đầy sức sống, đầy triển
vọng thay thế mô hình Xô- viết đã đổ vỡ. Chính vì thế chúng ta và nước láng
giềng Trung Quốc nên học hỏi những kinh nghiệm, trao đổi cùng nhau phát
triển không chỉ vì xã hội mỗi nước khác nhau mà còn vì lý tưởng chung của
chủ nghĩa xã hội, của một thế giới hoà bình, phát triển và thân ái.
Qua hiểu biết, nghiên cứu về chủ trương xây dựng một xã hội mới với cái
tên cũng rất đặc biệt “ xã hội hài hoà XHCN” của Đảng Cộng Sản Trung Quốc,
tác giả nhận thấy bản thân mình nên tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ hơn,
cụ thể và làm rõ hơn những hiểu biết cơ bản của mình. Với những lý do trên tác
giả xin chọn đề tài “Nhận dạng, đánh giá xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của
Trung Quốc dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học” làm đề tài
tiểu luận học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học nâng cao.
2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
2.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Con đường XHCN và quá trình xây dựng đất nước của Trung Quốc
đã và đang là tâm điểm nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng, nhà lý luận
3


chính trị dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt khi Trung Quốc là một quốc

gia đã tuyên bố tiến theo chủ nghĩa xã hội thì chúng ta- những đứa con của
chủ nghĩa Mác- Lênin, của triết học Mác- Lênin càng cần phải làm rõ về bản
chất của “ xã hội hài hoà” xem nó có phù hợp với những nguyên lý và quy
tắc của CNXHKH hay không. Điều đó càng cần thiết không chỉ đối với chủ
nghĩa Mác- Lê nin nói riêng mà cả nhân loại nói chung để một lần nữa
khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của một học thuyết thời đại, học thuyết
của nhân loại tiến bộ. Chính vì thế với đề tài “ Nhận dạng, đánh giá xã hội
hài hòa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc dựa trên những nguyên tắc của chủ
nghĩa xã hội khoa học” tác giả đã chọn những nguyên tắc cơ bản của
CNXHKH làm đối tượng khảo sát của đề tài để xem xét, nhận dạng, đánh
giá xem xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc đã đang và sẽ tiến
bước trên con đường xã hội chủ nghĩa hay không?
2.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Để làm rõ được đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả cho rằng, việc
đầu tiên phải làm là xác định cho rõ các khái niệm cơ bản về, “xã hội hài
hòa”, “xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”. Đây là những khái niệm công cụ
quan trọng giúp người nghiên cứu thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ
nghiên cứu của tiểu luận có một hệ thống hóa về mặt lý luận và thực tiễn về
xã hội hài hòa XHCN của Trung Quốc.
Khái niệm “xã hội hài hòa” được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị
Trung ương 4 khóa XVI (năm 2004). Trung Quốc coi việc xây dựng một “xã
hội hài hòa” có tầm quan trọng như phát triển kinh tế, chính trị và xã hội.
Khái niệm này bước đầu đã tiếp cận được những khía cạnh khác nhau của
thuật ngữ “hài hòa”.
Về xã hội hài hòa, xét từ khía cạnh triết học, xã hội hài hoà là xã hội ở
trạng thái tồn tại và phát triển cân đối, điều hòa giữa các mặt của đời sống xã
4


hội, giữa các cộng đồng dân cư, giữa con người với tự nhiên, là giai đoạn lý

tưởng và hình thức hoàn mỹ của sự phát triển trong sự thống nhất của các
mặt đối lập.
“Xã hội hài hòa XHCN” là một khái niệm hoàn toàn mới, có nội hàm
khoa học hết sức phong phú. Đề tài này đã thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu, các nhà khoa học nhằm tìm ra những điểm mới và đặc sắc về xã
hội hài hòa.
Và còn rất nhiều những quan điểm các nhau của nhiều học giả khác về
xã hội hài hòa. Nhưng tựu chung tại, chúng ta có thể hiểu khái niệm “Xã hội
hài hòa XHCN” bao gồm có hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, Xã hội hài hòa là xã hội có kết cấu giữa các bộ
phận, các yếu tố gắn kết làm một, cùng vận hành nhịp nhàng. Thực ra, hài
hòa trên những phương diện lớn bao gồm bốn mặt, đó là: hài hòa trong bản
thân con người, hài hòa giữa con người với tự nhiên, hài hòa giữa con người
với xã hội và hài hòa giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Theo nghĩa hẹp, xã hội hài hòa chỉ là sự hài hòa trong bản thân các
tầng diện xã hội, nghĩa là sự hài hòa phải hiện diện trong từng lĩnh vực của
đời sống cũng như trong mỗi con người và sự hài hòa đó phải mang tính chất
xã hội chủ nghĩa. Ví dụ như trong phát triển kinh tế phải hưởng tới phát triển
hài hòa giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu
nghèo, giải quyết công bằng xã hội và tạo thêm việc làm, tăng cường chống
tham nhũng, phát triển hài hòa mới môi trường, tự nhiên và tài nguyên.
Có thể nói, xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vừa là
mục tiêu, vừa là một yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, đồng thời cũng là một
biện pháp quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Quốc. Đóng vai trò là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định xã
hội, thúc đẩy sự đồng thuận xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
5


2.3. Giới hạn khảo sát của đề tài

Để khảo sát đề tài này, tác giả lựa chọn thời gian khảo sát là từ khi
Trung Quốc tiến hành Hội nghị TW 4 khóa XVI (năm 2004) đưa ra khái
niệm “xã hội hài hòa” cho đến nay cùng với những nguyễn tắc của
CNXHKH.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Xã hội hài hòa XHCN” là một khái niệm hoàn toàn mới, có nội hàm
khoa học hết sức phong phú. Đề tài này đã thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu, các nhà khoa học nhằm tìm ra những điểm mới và đặc sắc về xã
hội hài hòa.
Hiện nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các sách, các bài viết
về công cuộc cải cách, mở cửa, về chủ nghĩa xã hội hài hòa mang màu sắc
Trung Quốc. Trong đó, đặc biệt là các học giả Trung Quốc và Việt Nam
như:
- Đề tài cấp bộ: “Về Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc –
Những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới của nước ta”. Đề tài
này đã nghiên cứu tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc trên nhiều
phương diện, nhằm làm rõ những nét đặc sắc của chủ nghĩa xã hội Trung
quốc trong quá trình xây dựng đất nước. Đồng thời còn nêu lên một số luận
điểm có ý nghĩa với mục đích bổ sung lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- “Tìm hiểu tư tưởng cải cách, mở cửa của Đảng cộng sản Trung Quốc
quan các kỳ đại hội XIII, XIV, XV, XVI”, Phạm Đức Cường (sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền) bảo vệ năm 2003. Đề tài này cho ta thấy cái
nhìn tổng quan và có hệ thống về những quan điểm của Đảng cộng sản

6


Trung Quốc trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách và mở cửa thông
qua việc nghiên cứu và tìm hiểu các văn kiện Đảng cộng sản Trung Quốc.

- Cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung
Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” do PGS.TS Lương Việt Hải (chủ
biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008. Cuốn sách là kết quả của hai
cuộc hội thảo khoa học được tổ chức vào các năm 2004 và 2006 giữa Viện
Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Viện Triết học, Viện Khoa học
xã hội Trung Quốc. Nội dung của cuốn sách đề cập đến những vấn đề lý luận
quan trọng trong xây dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam, đó là vấn đề
sở hữu và vấn đề phát triển bền vững, trong đó nhiều vấn đề của CNXH
mang đặc sắc Trung Quốc đã được đề cập đến, như lý luận về kinh tế thị
trường XHCN, vấn đề xây dựng xã hội hài hòa, quan điểm phát triển khoa
học
- Gần đây nhất, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, thuộc Viện Khoa học
xã hội Việt Nam đã cho xuất bản cuốn “Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã
hội chủ nghĩa của Trung Quốc” do TS. Hoàng Thế Anh (chủ biên), NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên
xuất bản ở Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về xã hội hài hòa - một trong
những nội dung quan trọng của CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Cuốn
sách đã đề cập một cách khá toàn diện về các nội dung của xã hội hài hòa
của Trung Quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm đồng thuận và không
đồng thuận của các học giả Việt Nam và thế giới đối với xã hội hài hòa, cuốn
sách cũng đưa ra những đánh giá ban đầu về việc xây dựng xã hội hài hòa
của Trung Quốc, về những khó khăn và thuận lợi của Trung Quốc khi tiến
hành xây dựng xã hội hài hòa.

7


4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là: Đánh giá chủ nghĩa xã hội hài
hoà XHCN Trung Quốc với những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa

học. Đó chính là mục tiêu lớn nhất của tiểu luận này. Nhưng để đạt được
mục mục tiêu ấy, tác giả xác định cần thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu
dưới đây:
- Tìm hiểu cơ sở hình thành lý luận về xã hội hài hòa Xã hội chủ nghĩa ở
Trung Quốc
- Tìm hiểu những quan niệm cơ bản về xã hội hài hòa XHCN ở Trung
Quốc để từ đó đánh giá sự phù hợp giữa xã hội hài hoà Trung Quốc và Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
- Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Để nghiên cứu được đề tài này, tác giả dựa vào
những nguyên lý, các cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
như các cặp phạm trù: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả; quy luật lượng –
chất… để nghiên cứu. Và xem xét các vấn đề đều dựa trên những nguyên tắc
của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phươg pháp nghiên cứu chung: phương pháp logic - lịch sử, lược
thuật tài liệu, phối hợp với phân tích – tổng hợp tài liệu…
6. Kết cấu nội dung tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu
luận có kết cấu gồm 3 chương 6 tiết

8


Chương 1: Cơ sở hình thành lý luận về xã hội hài hòa
Xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1.Xã hội hài hòa là mục tiêu mà loài người theo đuổi
Từ xa xưa xã hội hài hoà đã là mục tiêu vươn tới của loài người. Đó là

xã hội mà ở đó con người sống chan hoà, thân thiết với chính con người và
với tự nhiên. Chính bởi vậy mà các nhà tư tưởng từ thời cổ đại đã đưa ra rất
nhiều quan điểm về “xã hội hài hòa” ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau.
Ở phương Đông, hai trường phái tư tưởng tiêu biểu của Trung Quốc:
Nho gia và Đạo gia đã có không ít những tư tưởng có liên quan đến “hài hòa
xã hội”. Nho gia coi trong xã hội, đề cao đạo đức nhân sinh với những quy
phạm đạo đức “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, đề xướng khoan hòa trong xử thế
để điều chỉnh quan hệ giữa người với người sao cho con người và xã hội hài
hòa. Rộng hơn nữa, Khổng Tử cũng đã miêu tả một xã hội “đại đồng” mà ở
đó đạo lý về công bằng chính nghĩa được mọi người nghiêm chỉnh chấp
hành, đều một lòng vì mục đích chung, chú trọng tuyển chọn nhân tài, coi
trọng chữ tín và hòa mục, xã hội đó, con người không chỉ phụng dưỡng,
thương yêu cha mẹ và người thân của mình, mà còn quan tâm tới tất cả mọi
người trong xã hội. Như vậy có thể thấy, nếu Nho gia lấy con người làm
trung tâm, yêu cầu con người và xã hội hài hòa thì Đạo gia lại lấy tự nhiên
làm trung tâm, đòi hỏi con người và tự nhiên phải hài hòa. Hai học phái này
kết hợp lại bổ sung cho nhau tạo thành quan điểm phát triển đặc trưng của
văn hóa truyền thống Trung Hoa, bao quát mối quan hệ giữa người với
người và giữa người với tự nhiên [8, 69]. Trong học thuyết của mình Mặc Tử
đã đưa ra một xã hội với khái niệm“kiêm ái”, xã hội mà tình thương bình
đẳng và phổ cập.

9


Mạnh Tử cũng nói rằng: “Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như
nhân hòa” – (Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa)
[8,68]. Song Đạo gia coi trọng tự nhiên, đề cao quy luật của tự nhiên và vũ
trụ, hướng tới sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Đạo gia đưa ra những
tư tưởng có giá trị như: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo

pháp tự nhiên” – (Người học ở đất, đất học ở trời, trời học ở đạo, đạo học ở
tự nhiên). Đạo gia yêu cầu con người cần tôn trọng những quy luật tự nhiên
vì đó là những chuẩn mực cao nhất [7, 68].
Ở phương Tây, khái niệm “xã hội hài hòa” được các nhà tư tưởng của
chủ nghĩa không tưởng Pháp đưa ra hồi thế kỷ thứ 16. Đ.Xanh Xi Mông và
S.Phu Ri Ê đã nói tới “chế độ hài hòa” để phê phán “chế độ văn minh” của
CNTB. Trong bối cảnh xã hội đang phải đối mặt với những mâu thuẫn và bất
ổn nảy sinh từ quá trình tích lũy tư bản, các nhà tư tưởng này đã đưa ra ý
tưởng về một “chế độ xã hội hài hòa nhất, hòa mỹ nhất”. Đ. Xanh Xi Mông
chủ trương xây dựng xã hội mới mà với ông thì nó có những đặc trưng sau:
Xã hội được tổ chức như thế nào để mang lại lợi ích cho đa số, muốn vậy phải
giải quyết được vấn đề sở hữu, chế độ sở hữu phải được tổ chức như thế nào
để có lợi nhất cho toàn xã hội về mặt tự nhiên và mặt của cải. Trong xã hội
mới mọi người đều phải lao động, lao động được tổ chức thành “hội liên
hiệp” nhằm duy trì sự hoạt động của mọi người một cách có lợi nhất, mọi nhu
cầu vật chất và tinh thần của công dân được thỏa mãn. Trong xã hội mọi
người phải đối xử với nhau như anh em. Còn S.Phu Ri Ê chủ trương xây dựng
một xã hội mới – xã hội hài hòa. Xã hội hài hòa, theo S.Phu Ri Ê có những
đặc trưng cơ bản sau: sản xuất tập thể trong các hiệp hội, tình trạng manh mún
bị thủ tiêu, mọi người trong xã hội đều có quyền lao động, quyền có tư liệu
sản xuất để sinh sống, tình trạng lao động làm thuê bị thủ tiêu, mọi người
được tự do và tự nguyện lao động. Về phân phối sẽ thực hiện phân phối một
10


cách công bằng, đó là phân phối được kết hợp hài hòa thỏa đáng theo ba yếu
tố sản xuất của mỗi người: tư bản, lao động và tài năng.
Sau này, C.Mác và Ăngghen đã khẳng định công lao của các nhà
không tưởng. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848), hai
ông đã chỉ ra rằng: thủ tiêu đối lập giai cấp, đề xướng xã hội hài hòa” là

“chủ trương tích cực của các nhà tư tưởng chủ nghĩa không tưởng đối với xã
hội tương lai. Trên cơ sở duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dự, chủ
nghĩa Mác đã đưa chủ nghĩa không tưởng pháp triển thành CNXH khoa học.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, mỗi người phải được phát triển
toàn diện, không chỉ nắm vững quy luật phát triển của xã hội, mà còn nắm
vững quy luật phát triển của tự nhiên, “con người lần đầu tiên trở thành chủ
nhân chân chính và tự giác của thế giới tự nhiên”[7, 69].
Từ tư tưởng của những nhà triết học cổ đại Trung Quốc, hay những nhà
không tưởng thế kỷ XIX, có thể thấy rằng xã hội hài hòa không phải là một
khái niệm mới mẻ, thậm chí hài hòa là lý tưởng chung và là mục tiêu, giá trị mà
loài người hằng theo đuổi. Những nhà tư tưởng của các khoa học: triết học,
chính trị cổ kim, đông tây chính là những cơ sở lý luận quý báu để Trung Quốc
tiếp thu, xây dựng xã hội hài hòa XHCN ngày nay.
1.1.2 Thực hiện một xã hội hài hòa là yêu cầu bản chất của chủ
nghĩa xã hội
Xã hội XHCN là một hình thái xã hội tiến bộ và mới lịch sử loài
người, trạng thái “hài hòa” là đặc tính bản chất của xã hội XHCN, chứ
không phải là một chế độ xã hội hay một trạng thái xã hội riêng biệt nào.
Lý luận Mác – Lênin, khẳng định hài hòa là một trạng thái xã hội, đó
là biểu trưng bản chất của XHCN cộng sản trong tương lai. Mặc dù trong hệ
thống lý luận Mác – Lênin, các ông không trực tiếp đưa ra khái niệm “xã hội
hài hòa”, nhưng những gì mà các ông miêu tả về một xã hội chủ nghĩa cộng
11


sản tương lai thì chính là xã hội hài hòa mà Trung Quốc đang hướng tới.
Như vậy xã hội hài hoà XHCN Trung Quốc luôn lấy xuất phát điểm từ chủ
nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng cho những bước tiến của mình.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph.đã sử dụng thuật
ngữ “trạng thái xã hội” để diễn tả sự biến đổi của xã hội được tạo nên từ sự

liên hiệp, dù kkông dùng thuật ngữ “ xã hội hài hoà” nhưng tư tưởng của
ông đã cho thấy sự kết hợp, liên hiệp tạo nên một xã hội tốt đẹp, hài hoà.
Các ông đã nói CNCS khác với tất cả các phong trào trước kia ở chỗ nó làm
đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp trước kia…tổ chức của
CNCS về thực chất là có tính chất kinh tế: nó là sự sáng tạo vật chất ra
những điều kiện cho sự liên hiệp ấy.
Đến tác phẩm “Phê phán cương lĩnh GôTa” C.Mác và Ph. Ăngghen
một lần nữa lại bàn về xã hội tương lai. Các ông đã chỉ ra hai giai đoạn (thấp
và cao) và những đặc trưng của xã hội XHCN và XHCS. Trong đó các ông
miểu tả về xã hội với những ưu thế giúp con người phát triển toàn diện và tự
nhiên nhất. Khi xây dựng lý luận khoa học của mình, Mác – Ăngghen chỉ rõ
“hài hòa xã hội của chủ nghĩa không tưởng là chủ trương tích cực về xã hội
tương lai”. Các ông chỉ rõ cội nguồn của bất bình đẳng trong xã hội tư bản là
mâu thuẫn giữa xã hội hóa sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, nêu rõ ý tưởng khoa học về phương hướng phát triển khoa học của xã
hội tương lai, chỉ rõ “thay thế xã hội tư bản cũ với những giai cấp và đối
kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hiệp, trong đó sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”. Theo ý
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, xã hội tương lai sẽ đập tan bộ máy nhà
nước cũ, xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xóa bỏ sự đối
lập giai cấp và chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, làm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
12


dân, con người được phát huy sức sáng tạo và được phát triển toàn diện,
hình thành quan hệ hài hòa giữa con người với con người, con người với tự
nhiên.
Kế thừa những tư tưởng của Mác – Ăngghen, Lênin tiếp tục bổ sung
và phát triển về quan điểm xã hội tương lai. Thông qua các luận điểm của

Mác – Ăngghen, Lênin đã đưa ra những quan điểm của mình về một xã hội
mới.
Trong tác phẩm “Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội Nga trong
cách mạng dân chủ”, Lênin đã chỉ ra sự chuyển biến từ cuộc cách mạng dân
chủ tư sản do giai cấp công nhân lãnh đạo tất yếu chuyển sang cách mạng
XHCN. Đây chính là tiền đề căn bản của một xã hội tương lai. Lênin cũng
đã bàn về hai giai đoạn của CNCS và ông chỉ ra: Ở giai đoạn thấp của xã hội
CSCN là xã hội vừa thoát thai từ CNTB và về mọi phương diện vẫn còn
mang dấu vết của xã hội cũ, nó chưa có thể thực hiện được công bằng và
bình đẳng, mặc dù nó không còn tình trạng người bóc lột người.
Đến tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”
Lênin chỉ rõ, muốn xây dựng thành công chế độ xã hội XHCN, điều quyết
định là tổ chức kiểm kê, kiểm soát hết sức chặt chẽ” và “nâng cao năng suất
lao động.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhất mạnh, xã hội tương lai là xã hội phát
triển toàn diện tự do của con người, là liên hiệp của những người tự do, trên
thực tế đó chính là mô hình mục tiêu của xã hội hài hòa, bởi lẽ có thể thúc
đẩy sự phát triển toàn diện loài người thực chất chính là một xã hội hài hòa,
tương hỗ và bình đẳng.
Xây dựng CNXH là một quá trình lâu dài và phải tiến hành từng
bước. Do đó, xây dựng xã hội hài hòa XHCN cũng sẽ là một quá trình lịch
sử tương đối dài. Giống như xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, xây dựng
13


xã hội hài hòa XHCN là một quá trình phấn đấu không chỉ của vài thế hệ,
thậm chí là hàng chục thế hệ kiên trì phấn đấu không mệt mỏi, mới có thể
đạt tới trạng thái cao nhất của xã hội xã hội hài hòa là CNCS.
1.1.3 Bản chất của chủ nghĩa xã hội hài hòa là chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc

Trong quá trình cách mạng và xây dựng đất nước, ĐCS Trung Quốc
không ngừng tìm tòi, xây dựng lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc. Tại Hội
nghị TW 6 khóa XVI của Đảng cộng sản Trung Quốc đã chỉ rõ: “Hài hòa xã
hội là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc’’. Đây là
sự phát triển và nâng cao nhận thức của ĐCS Trung Quốc về bản chất của
CNXH, cho thấy nhận thức của Trung Quốc về quy luật xây dựng CNXH
đặc sắc Trung Quốc đã đạt tới tầm cao mới.
Việc kết hợp nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin với thực
tiễn cụ thể của Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc đã giành được những thắng
lợi của cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới, xây dựng một nhà nước trung
Quốc mới do dân làm chủ, xây dựng chế độ XHCN, là tiền đề chính trị cho
việc xây dựng một xã hội khá giả toàn diện, một xã hội hài hòa XHCN.
Hội nghị TW 3 khóa XI của ĐCS Trung Quốc (12-1978) là sự kiện có
ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với Trung Quốc. Tại đây, ĐCS với sự lãnh đạo
đổi mới cải cách mở cửa, tổng kết những trải nghiệm, mất mát, đã tạo ra
bước ngoặt lịch sử trong nhận thức và thực thi hữu hiệu việc mở cửa phát
triển kinh tế, đi vào nền KTTT. Tại hội nghị này, tập thể lãnh đạo thế hệ thứ
hai mà đại diện là Đặng Tiểu Bình đã vạch ra đường lối cải cách kinh tế xã
hội, lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, thay cho đấu tranh giai
cấp, chính trị liên miên. Đó chính là sự nhận thức đúng đắn về con đường tất
yếu theo quy luật kinh tế là phải mở cửa hội nhập với thế giới bên ngoài,

14


phát triển kinh tế theo thể chế KTTT, chính điều này đã quyết định sự
chuyển mình lịch sử của Trung Quốc.
Lý luận Đặng Tiểu Bình chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
ở Trung Quốc trong thời kỳ hội nhập mở cửa, đó cũng chính là sự phát triển
tư tưởng Mao Trạch Đông về con đường phát triển của Trung Quốc, dựa trên

thực tiễn đất nước Trung Quốc thời kỳ đó [6, 56].
Đại hội Đảng XII năm 1987 đã đề ra đường lối chiến lược của Đảng
trong giai đoạn đầu XHCN: đoàn kết và lãnh đạo nhân dân các dân tộc toàn
quốc, lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản,
kiên trì cải cách mở cửa, phấn đấu nỗ lực đưa Trung Quốc tiến lên hiện đại
hóa XHCN văn minh, dân chủ, giàu mạnh. Đại hội XIII đã đưa “giàu mạnh,
dân chủ, văn minh” trở thành mục tiêu phấn đấu để xây dựng CNXH đặc sắc
Trung Quốc. Năm 1986, Trung Quốc chính thức đưa ra cục diện xây dựng
hiện đại hóa XHCN, tập trung phản ánh nhận thức mới của thế hệ lãnh đạo
thứ hai về cục diện tổng thể hiện đại hóa CNXH đặc sắc Trung Quốc.
Từ sau hội nghị TW 4 khóa XIII, tập thể lãnh đạo ĐCS Trung Quốc
mà đại diện là Giang Trạch Dân, tiếp tục đi sâu nghiên cứu và thúc đẩy xây
dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, đưa ra cương lĩnh xây dựng kinh tế, chính
trị và văn hóa XHCN. ĐCS Trung Quốc nhấn mạnh: cần nhìn từ mục tiêu
xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc làm điểm xuất phát để quy hoạch
chiến lược tổng thể, đề ra cương lĩnh phát triển kinh tế, chính trị và văn hóa
của CNXH đặc sắc Trung Quốc, phát triển hài hòa văn minh vật chất, văn
minh chính trị và văn minh tinh thần; đồng thời thúc đẩy phát triển toàn diện
con người và sự tiến bộ toàn diên của xã hội. Hội nghị TW 6 khóa XVI đề ra
nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội hài hòa XHCN, cho ta thấy, bố cục
tổng thể của sự nghiệp xây dựng hiện đại hóa XHCN đặc sắc Trung Quốc
mà Đảng cộng sản đang hướng tới: xây dựng kinh tế thị trường XHCN và
15


xây dựng xã hội hài hòa XHCN. Trong bố cục tổng thể này, xây dựng xã hội
hài hòa XHCN có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, bởi lẽ “hài hòa xã hội
là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”. Nói cách
khác, xã hội không hài hòa thì không thể xây dựng CNXH đặc sắc Trung
Quốc.

Như vậy, từ khi cải cách mở cửa, với việc kiên trì nắm vững tư tưởng
chỉ đạo “thế nào là chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế
nào” Đảng cộng sản Trung Quốc đã không ngừng làm sâu sắc thêm nhận
thức về CNXH đặc sắc Trung Quốc. Đó là một quá trình đúc rút và phát
triển những lý luận về kinh nghiêm thực tiễn. Từ quan điểm: nghèo khó
không phải là CNXH, phân hóa hai cực cũng không phải là CNXH, đến
quan điểm CNXH là xã hội toàn diện khá giả, không có dân chủ là không có
CNXH, xã hội XHCN là xã hội có nền văn minh tinh thần ở trình độ cao…
Và đến nay, trong tình hình mới, ĐCS Trung Quốc lại đưa ra quan điểm:
CNXH đặc sắc Trung Quốc phải là một xã hội hài hòa XHCN. Đây được
xem là nhiệm vụ trong đại chiến lược của toàn Đảng toàn dân. Đây chính là
một bước tiến mới trong nhận thức của ĐCS về CNXH đặc sắc Trung Quốc.
Quan điểm phát triển khoa học là tư tưởng chỉ đạo sự phát triển kinh tế
xã hội của Trung Quốc, là chỉ đạo đối với xây dựng xã hội hài hòa XHCN.
Yêu cầu bản chất của việc xây dựng xã hội hài hòa là xử lý đúng đắn những
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong khi bản chất của quan điểm phát triển
khoa học là lấy con người làm gốc, tức là thực hiện mục tiêu phát triển toàn
diện con người, không ngừng thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân, đảm bảo quyền lợi về chính trị, kinh tế, văn hóa của người dân. Quan điểm
phát triển khoa học nhấn mạnh phát triển vì con người, toàn diện, nhịp nhàng
và bền vững, đó cũng chính là quy luật cơ bản cần tuân theo trong xây dựng xã
hội hài hòa XHCN. Muốn xây dựng xã hội hài hòa XHCN cần phải quán triệt
16


thực hiện quan điểm phát triển khoa học, vì mục tiêu của sự phát triển khoa học
là thực hiện sự phát triển hài hòa giữa con người, xã hội và tự nhiên. Ra sức
xay dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần, văn minh chính trị như là
tiền đề để xây dựng xã hội hài hòa XHCN.
Xã hội ổn định, hài hòa chính là đảm bảo quan trọng đồng thời cũng là

mục tiêu của việc xây dựng xã hội khá giả. Bởi lẽ mục tiêu của xã hội toàn
diện khá giả mà Trung Quốc đang hướng tới, là nâng cao mức sống của người
dân đạt trình độ “khá giả”, phát triển hơn nữa nền kinh tế, kiện toàn hơn nữa
dân chủ xã hội, tiến bộ hơn nữa về khoa học kỹ thuật, văn hóa cùng thêm
phồn vinh và xã hội càng thêm hài hòa. Trong mục tiêu tổng thể xây dựng xã
hội toàn diện khá giả, “xã hội càng thêm hài hòa” có vị trí vô cùng quan trọng.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình thế giới
Thế giới vào thập niên đầu thế kỷ XXI, tình hình đang có nhiều biến
động:
Thứ nhất, hòa bình và phát triển vẫn là dòng chảy chủ đạo của thời
đại, song hiện nay thế giới vẫn chưa yên ổn bởi những nhân tố không ổn
định vẫn không ngừng tăng lên. Tuy nhiên, chiến tranh thế giới không có
khả năng bùng nổ trong một thời gian dài có thể dự báo được, do đó Trung
quốc có những môi trường quốc tế hòa bình và ổn định để tập trung xây
dựng kinh tế, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, toàn cầu hóa là xu thế tất yếu không thể cưỡng lại. Tuy nhiên
xu thế này diễn ra khá phức tạp. Khoảng cách giữa các quốc gia phát triển và
các quốc gia đang phát triển tiếp tục mở rộng. Trung Quốc đã ra nhập WTO,
tạo điều kiện cho Trung Quốc vốn ngoại tệ, khoa học công nghệ cao và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển để tiến hành hiện đại hóa đất

17


nước. Trung Quốc cho rằng, toàn cầu hóa “vừa có họa vừa có phúc” nhưng
“phúc” lớn hơn “họa” và nếu biết cách thì có thể “biến họa thành phúc”.
Thứ ba, xu thế đa cực hóa thế giới đã ngày càng rõ nét. Sự nổi lên của
Trung Quốc trong những năm gần đây có ảnh hưởng lớn tới khu vực và thế
giới. Hiện nay Trung Quốc đã có quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các

nước lớn trên thế giới, hòa nhập sâu hơn vào hệ thống quốc tế trên các lĩnh
vực an ninh, chính trị, kinh tế…
Thứ tư, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật thế kỷ 20 mà đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học có sự phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc hơn
bất cứ cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nào trước đây. Với tính chất toàn
cầu hóa, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật này đã
chắp cánh cho nhiều thành tựu Trung Quốc trong quá trình cải tiến sức sản
xuất, nâng cao trình độ phát triển.
Xuất phát từ thực tế đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận định đây
là thời cơ quan trọng mà Trung Quốc cần nắm bắt để đẩy nhanh công cuộc
hiện đại hóa đất nước, xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, trong đó xây
dựng xã hội hài hòa là một nội dung quan trọng. Trung Quốc đã đề ra một
kế hoạch phát triển dài hạn, trong 20 năm đầu thế kỷ XXI “xây dựng toàn
diện xã hội khá giả”, trong đó “xây dựng xã hội hài hòa XHCN” là một nội
dung quan trọng trên con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc,
nhằm xây dựng Trung Quốc thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ,
văn minh và hài hòa.
1.2.2. Tình hình trong nước
Trong nước,sau khi cải cách mở cửa thì nhận thức của ĐCS Trung
Quốc về quy luật cầm quyền của Đảng, về quy luật xây dựng XHCN, quy
luật về sự phát triển chung của xã hội loài người cũng ngày càng thêm sâu
18


sắc, đồng thời lý luận xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc đã không ngừng
được hoàn thiện. Đến nay Trung Quốc đã thực hiện thắng lợi bước thứ nhất
là bước thứ hai của chiến lược “ba bước”. Sức sản xuất, sức mạnh tổng hợp
của đất nước, mức sống của người dân đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Bênh
cạnh đó bước vào thế kỷ mới, Trung Quốc đã đạt được những bước đột phá

mang tính lịch sử trong sự nghiệp cải cách mở cửa, bước đầu hình thành thể
chế KTTT xã hội chủ nghĩa, cơ bản hình thành mở cửa đối ngoại với khu
vực và thế giới. Những thành tựu đạt được trong những năm cải cách và phát
triển đã tạo ra cơ sở vững vàng về kinh tế, chính trị và tinh thần để Trung
Quốc có thể đẩy nhanh nhịp độ cải cách, hiện đại hóa đất nước trong bối
cảnh quốc tế mới.
Song quá trình cải cách và phát triển đã dẫn tới sự phân tầng xã hội
và hình thành quan hệ lợi ích giữa các giai tầng xã hội, đòi hỏi phải có
những giải pháp điều hòa lợi ích, giải quyết mâu thuẫn, ngăn chặn xung đột
trong xã hội.
Có thể thấy từ sau khi cải cách mở cửa đã xuất hiện một số “nhân tố
không hài hòa”, đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn sự ra đời của lý luận
“xã hội hòa hòa XHCN” Trung Quốc, cụ thể như sau:
- Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền ở Trung Quốc và
chênh lệch lớn trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và sự phát
triển không đồng đều giữa các vùng, miền ở Trung Quốc; sự chênh lệch lớn
trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư; ..
+ Sự mất cân bằng giữa thành thị và nông thôn Trung Quốc còn biểu
hiện trên nhiều phương diện khác nhau như sự chệnh lệch về xây dựng cơ sở
hạ tầng và các sự nghiệp xã hội như giáo dục, y tế. Mức độ đô thị hóa năm
1978 là 17,91% đến năm 2002 là 39,1%.Tuy nhiên, mức độ đô thị hóa còn
chậm so với mức độ tăng trưởng công nghiệp. Mặt khác, các đô thị chủ yếu

19


tập trung ở các đô thị miền Đông, ven các con sông lớn, mức độ đô thị hóa
đạt gần 40%, còn các vùng miền Tây thậm chí không vượt quá 30% [2,5].
+ Bên cạnh đó, khoảng cách giàu nghèo giữa các thành viên trong xã
hội ngày càng mở rộng. Trung Quốc là nước có diện tích lớn, dân số đông

nền kinh tế phát triển không đồng đều, do số lượng người nghèo đói còn
tương đối lớn.
Khoảng cách về thu nhập giữa các thành viên trong xã hội liên tục mở
rộng. Trước khi cải cách, tồn tại chủ yếu trong vấn đề phân phối thu nhập
của Trung Quốc là chủ nghĩa bình quân. Trong thời kỳ cải cách, tồn tại này
đã bị phá bỏ, sự thay đổi thu nhập đã kích thích tính tích cực của người dân.
Tuy nhiên, cũng với việc phá bỏ chủ nghĩa bình quân thì lại xuất hiện
khoảng cách về chênh lệch giàu nghèo, đặc biệt là giữa dân cư thành thị và
nông thôn. Ngoài khoảng cách về thu nhập giữa cư dân thành thị và cư dân
nông thôn; giữa cư dân các khu vực khác nhau; giữ người lao động trí óc và
lao động chân tay; giữa các ngành về và các lĩnh vực khác nhau cũng liên
tục mở rộng.
- Mâu thuẫn xã hội ngày càng gia tăng.
Cùng với quá trình cải cách mở cửa, các mâu thuẫn lợi ích ngày càng
nổi cộm. Những mâu thuẫn xã hội đa phần là liên quan đến những lợi ích
thiết thân của người dân không được giải quyết hợp lý. Ví dụ như: vấn đề
bảo hiểm xã hội, vấn đề việc làm, vấn đề trưng dụng đất đai…
Hàng năm ở các thành phố và thị trấn Trung Quốc, số lao động mới
trường thành cộng với số thất nghiệp đến con số 24 triệu người, bằng dân số
của một nước trung bình, những mỗi năm Trung Quốc chỉ tạo ra được 9 triệu
việc làm mới.
- Môi trường sinh thái ô nhiễm nghiêm trọng
Một trong những mặt trái của phát triển kinh tế thần kỳ Trung Quốc
với mức tăng trưởng xấp xỉ 10%/năm là vấn đề ô nhiễm môi trường ngày
càng nặng nề, ảnh hưởng tới sức khỏe của người dân và hậu quả tiềm tàng

20


cho nền kinh tế sau này. Tính trạng ô nhiễm không khí và sự thoái hóa môi

trường ở Trung Quốc đang ngày càng trầm trọng hơn. Giới chuyên môn cho
rằng, nếu không giải quyết được các hậu quả nghiêm trọng do môi trường
gây ra, không chỉ Trung Quốc mà cả Châu Á cũng bị đe dọa.
- Tình trạng tham nhũng.
Hầu hết những vấn đề “không hài hòa” nói trên cho là do sự bất công
của xã hội với nguồn gốc sâu xa xuất phát từ nạn tham nhũng của các quan
chức. Vì vậy, chìa khóa để xây dựng một xã hội hài hòa là khôi phục công
bằng xã hội. Nhưng công bằng xã hội sẽ không thể được khôi phục nếu
không triệt tận gốc nạn tham nhũng. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với
sự lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào từng nói, Đảng và
Nhà nước chúng ta sẽ diệt vong nếu nạn tham nhũng trong các quan chức
không được ngăn chặn có hiệu quả.
Có thể nói, tham nhũng diễn ra ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, đặc
biệt là trong ngành xây dựng cơ bản. Nó cũng xuất hiện trong mọi cấp lãnh
đạo, mọi tổ chức cá nhân quyền lực và tài chính, từ cán bộ TW đến cán bộ
làng xã, đặc biệt là những người làm công tác pháp luật, lĩnh vực được coi là
thành trì bảo vệ luật pháp và công bằng xã hội. Nguyên nhân của những vụ
tham nhũng ở Trung Quốc ngày càng đa dạng phức tạp, liên quan đến tiền
bạc chức quyền, đạo đức với những thủ đoạn ngày càng tinh vi.
Xây dựng xã hội hài hòa XHCN chính là sự phát triển và nâng cao
nhận thức của Đảng cộng sản Trung Quốc về bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Đây là sản phẩm của sự kết hợp giữa những quan điểm của các nhà tư tưởng
đông tây với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và hoàn cảnh thực tiễn cụ
thể của Trung Quốc. Cũng cần nhấn mạnh rằng, xây dựng xã hội hài hòa
XHCN là một phần trong quá trình xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc, xây
dựng xã hội toàn diện khá giả. Chủ trương xây dựng “xã hội hài hòa” là hoàn
toàn phù hợp với sự phát triển của lịch sử và nguyện vọng của nhân dân Trung

21



Chương 2: Quan niệm cơ bản về Xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc
2.2. Khái niệm “Xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”
2.2.1. Khái niệm “Xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”
Theo Đại từ điển Tiếng Việt (Nguyễn Như Ý – chủ biên): “Hài hòa là
tính từ chỉ sự cân đối, đồng đều”.
Có tác giả cho rằng, “hài hoà” ở đây là chỉ các sự vật khác nhau, các
bộ phận khác nhau của sự vật, các thành phần khác nhau cùng tồn tại cộng
sinh bên cạnh nhau một cách hoà bình, nhịp nhàng.
Xét từ khía cạnh triết học, xã hội hài hoà là xã hội ở trạng thái tồn tại
và phát triển cân đối, điều hòa giữa các mặt của đời sống xã hội, giữa các
cộng đồng dân cư, giữa con người với tự nhiên, là giai đoạn lý tưởng và hình
thức hoàn mỹ của sự phát triển trong sự thống nhất của các mặt đối lập.
Về “Xã hội hài hòa XHCN” là một khái niệm hoàn toàn mới, có nội
hàm khoa học hết sức phong phú. Đề tài này, đã thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu, các nhà khoa học nhằm tìm ra những điểm mới và đặc sắc
về xã hội hài hòa.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều những quan điểm khác nhau của các học
giả khác về xã hội hài hòa. Nhưng tựu chung tại, chúng ta có thể hiểu khái
niệm “Xã hội hài hòa XHCN” bao gồm có hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, Xã hội hài hòa là xã hội có kết cấu giữa các bộ phận,
các yếu tố gắn kết làm một, cùng vận hành nhịp nhàng. Thực ra, hài hòa trên
những phương diện lớn bao gồm bốn mặt, đó là: hài hòa trong bản thân con
người, hài hòa giữa con người với tự nhiên, hài hòa giữa con người với xã
hội và hài hòa giữa các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

22



Theo nghĩa hẹp, xã hội hài hòa chỉ là sự hài hòa trong bản thân các
tầng diện xã hội, nghĩa là sự hài hòa phải hiện diện trong từng lĩnh vực của
đời sống cũng như trong mỗi con người và sự hài hòa đó phải mang tính chất
XHCN. Ví dụ như trong phát triển kinh tế phải hưởng tới phát triển hài hòa
giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu nghèo, giải
quyết công bằng xã hội và tạo thêm việc làm, tăng cường chống tham nhũng,
phát triển hài hòa mới môi trường, tự nhiên và tài nguyên.
Hiện nay “Xã hội hài hòa XHCN” mà Đảng cộng sản Trung Quốc đề
ra và theo đuổi là một xã hội hài hòa XHCN theo nghĩa hẹp.
Thuật ngữ “xã hội hài hòa XHCN” chính thức xuất hiện lần đầu tiên
tại Hội nghị TW 4 khóa XVI ngày 19 tháng 9 năm 2004 mà người nêu ra là
Tổng bí thư, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào. Với việc đi sâu
nghiên cứu cấu trúc xã hội của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, cả ba mặt kinh tế,
chính trị, văn hóa là “thể thống nhất ba mặt” (tam vị nhất thể) trước đây, nay
lại có thêm xã hội hài hòa tạo thành “thể thống nhất bốn mặt” (tứ vị nhất
thể). Các mặt này có quan hệ tổng thể điều chỉnh hài hòa đồng bộ. Ý tưởng
xây dựng “xã hội hài hòa XHCN” mà Tổng bí thư, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
đưa ra ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các giới trong xã
hội Trung Quốc.
2.2. Đặc trưng cơ bản của “xã hội hài hòa XHCN” ở Trung Quốc
Ngày 19/02/2005, trong bài phát biểu chính thức tại Hội nghị các lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh với chủ đề “Nâng cao năng lực xây dựng xã hội hài
hòa XHCN” tổ chức tại trường Đảng TW, Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào lần đầu
tiên trình bày một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc
xây dựng xã hội hài hòa XHCN Trung Quốc. Theo đó có thể hình dung xã
hội hài hòa XHCN là một xã hội đạt tới 6 mục tiêu, hay nói cách khác, đó là
6 đặc trưng: Nền chính trị dựa trên pháp luật dân chủ; Quan hệ xã hội dựa
23



trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng; Quan hệ con người dựa trên tình cảm
chân thành hữu ái; Một xã hội tràn đầy sức sống; Một xã hội ổn định và trật
tự; con người và thiên nhiên sống hài hòa.
2.2.1 Dân chủ pháp trị
Dân chủ pháp trị là phát huy dân chủ XHCN, thực hiện quản lý đất
nước theo pháp luật, điều động rộng rãi các nhân tố tích cực [1,70].
Dân chủ pháp trị được coi là cơ sở và đảm bảo chính trị của xây
dựng xã hội hài hòa XHCN, nói cách khác đây chính là phương châm cơ
bản: dựa vào pháp luật để trị nước, phát huy dân chủ XHCN. Nguồn gốc của
từ “dân chủ” là “sự thống trị của đại đa số người”. Tất nhiên không thể hiểu
“sự thống trị của đại đa số người” là ai cũng thống trị, nhưng “dân chủ” là
nhất thiết phải tôn trọng và thể hiện ý nguyện của đại đa số người dân. Chỉ
có như vậy mới phát huy được tính tích cực, tính chủ động và tính sáng tạo
của quần chúng nhân dân trên tất cả các phương diện và dân chủ XHCN là
thể hiện ý chí của tuyệt đại đa số nhân dân. Hội nghị TW 4 ĐCS Trung Quốc
khóa XVI cũng lại nhấn mạnh, cần thúc đẩy chế độ hóa, quy phạm hóa và
trình tự hóa dân chủ XHCN, đảm bảo người dân được làm chủ đất nước.
Để thực hiện được điều này cần: phát huy cao độ dân chủ XHCN bởi
dân chủ là yêu cầu bản chất của CNXH; thực hiện quản lý đất nước theo
phát luật; kiên trì và hoàn thiện các chế độ của dân chủ XHCN, làm phong
phú các hình thức dân chủ, mở rộng sự tham gia có trật tự của công dân
trong lĩnh vực chính trị, bảo đảm những người thực hiện quyền tuyển cử,
quyết sách, quản lý và giám sát theo phát luật, khiến cho người dân càng
ngày có tiếng nói trong xã hội.
“Dân chủ pháp trị” được coi là cơ sở chính trị của xã hội hài hòa
XHCN. Nếu không có dân chủ sẽ không có hài hòa, có dân chủ mới làm cho
mọi người thoải mái, thúc đẩy tính tích cực của mọi người, để thực hiện xã
24



hội hài hòa. Chức năng của pháp luật là bảo vệ và thúc đẩy dân chủ, không
có pháp trị sẽ không có hài hòa.
2.2.2 Công bằng chính nghĩa
Công bằng chính nghĩa là quan hệ lợi ích các mặt xã hội được xử lý
hài hòa, những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và xã hội được xử lý thỏa
đáng, công bằng, chính nghĩa trong xã hội được bảo vệ và thực hiện [1,70].
Về vấn đề công bằng trong xã hội, trước đây Khổng Tử đã có luận
điểm nổi tiếng: “Không sợ nghèo mà chỉ lo không đều, không sợ ít mà chỉ sợ
bất ổn”. Đến nay, trong thời đại kinh tế thị trường, luận điểm của ông vẫn
còn nguyên giá trị. “Công bằng chính nghĩa” được coi là mục tiêu giá trị của
xã hội hài hòa XHCN. Nếu TBCN đề cao hiệu quả, thì XHCN đề cao công
bằng, chưa có công bằng thì chưa bàn được về XHCN. Công bằng bao gồm:
phân phối kinh tế công bằng, đời sống xã hội công bằng, cơ hội cũng công
bằng, quá trình thực hiện phải công bằng, kết quả đánh giá cũng phải công
bằng. Còn “chính nghĩa” là một giá trị để định giá, để phán đoán. Nhận thức
đúng được sự nghiệp chính nghĩa, mọi người sẽ đem hết sức mình để phấn
đấu.
Thúc đẩy công bằng chính nghĩa là cơ sở quan trọng để xây dựng xã
hội hài hòa XHCN. Nội dung cụ thể và nguyên tắc cơ bản của công bằng
chính nghĩa bao gồm 4 nguyên tắc liên hệ tương hỗ bổ sung cho nhau:
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền lợi cơ bản, đó là quyền được
sống, quyền được hưởng các quyền lợi đảm bảo xã hội, quyền được hưởng
thụ nền giáo dục…
Thứ hai, nguyên tắc cơ hội bình đẳng. Hay nói cách khác, đó là đảm
bảo mỗi thành viên trong xã hội có cơ hội phát triển bình đẳng, đó cũng là
cơ hội phát huy cao một cách tối đa năng lực của mỗi người.

25



×