Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

tiểu luận môn chủ nghĩa tư bản hiện đại phân tích bản chất và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.91 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chủ nghĩa tư bản đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Từ những bước phát triển mới, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong phạm vi quốc gia và khu vực sang chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, chủ
nghĩa tư bản hiện đại do có sự điều chỉnh, cải cách nội bộ để thích nghi với
điều kiện mới, do tận dụng được tối đa thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đaị…nên đã đạt được những thành tưu to lớn về
phương diện kinh tế. Trước những thay đổi của Chủ nghĩa Tư bản, có ý kiến
cho rằng xã hội tư bản hiện nay không còn là xã hội tư bản của thế kỷ XIX,
XX như C.Mac – Ph. Ăngghen và Lênin mô tả, mà là “xã hội hậu tư bản”,
“Chủ nghĩa Tư bản nhân dân”, hay “Chủ nghĩa Tư bản xã hội”. Và rằng học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mac đã đến hồi cáo chung. Vì xã hội hiện nay
không còn kẻ bóc lột và người bị bóc lột, quy luật giá trị thặng dư không còn
là quy luật tuyệt đối của xã hội hiện đại. Vậy có phải bản chất của Chủ nghĩa
Tư bản đã thay đổi? Xã hội tư bản ngày nay phải chăng là một xã hội lý tưởng
mà loài người muốn hướng đến? Để nhận diện bản chất của Chủ nghĩa Tư
bản hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng ta cần nhìn nhận một cách
khách quan trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ
chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm cùng với những điều chỉnh của
nó để thích ứng với điều kiện mới. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “
Phân tích bản chất và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện
đại, ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề đó” để nghiên cứu viết tiểu luận của
mình. Tối rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn
để bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện và có ý nghĩa thiết thực hơn. Tôi xin
chân thành cảm ơn!

1


B. NỘI DUNG


CHƯƠNG I. NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
1.1. Sự biến đổi từ chủ nghĩa tư bản công nghiệp sang chủ nghĩa tư
bản hiện đại là sự gia tăng của khu vực dịch vụ
Một trong những dấu hiệu quan trọng nói lên sự biến đổi từ chủ nghĩa tư
bản công nghiệp sang chủ nghĩa tư bản hiện đại là sự gia tăng của “ khu vực
thứ ba”, tức dịch vụ, bắt nguồn từ trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất, mà trong đó nhân tố quan trọng có tính chất quyết định là trình độ khoc
học- kỹ thuật ngày càng cao. Chủ nghĩa tư bản hiện nay xuất hiện khi chủ
nghĩa tư bản công nghiệp không còn đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển ở các
nước phương Tây sau thập niên 70 của thế kỷ XX. Trong khi ở một số nước
thế giới thứ ba, nền kinh tế công nghiệp vẫn đang là mục tiêu phấn đấu, thì ở
các nước phát triển người ta đã bắt đầu bàn tới các khái niệm mới như: “ phi
công nghiệp hóa” , “ xã hội hậu công nghiệp” hay “ kinh tế dịch vụ, phi vật
thể”…Như vậy, chủ nghĩa tư bản hiện đại chỉ là một bước tiến cao hơn của
chủ nghĩa tư bản công nghiệp nhằm tăng sức mạnh và bảo đảm cho chủ nghĩa
tư bản tồn tại trong những điều kiện mới. Thực chất của chủ nghĩa tư bản hiện
đại vẫn là chủ nghĩa tư bản, nhưng các công ty đã sử dụng các thành tựu khóa
học kỹ thuật ngày càng nhiều để đổi mới công nghệ sản xuất, tạo ra các sản
phẩm mới, cũng như phương thức mới nhằm tái tạo thế độc quyền trong cạnh
tranh diễn ra liên tục và ngày càng khốc liệt.
Hiện nay, tỷ trọng các ngành dịch vụ (bao gồm ngàng giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, thương nghiệp, các thiết chế tài chính-tín dụng, kinh doanh
bảo hiểm, các dịch vụ sinh hoạt, giao dịch và văn hóa xã hội) tăng lên mạnh,
bình quân chiếm 60% GDP, trong đó, ở Mỹ lên tới 73% GDP ,ở EU là 63%
GDP, ở Nhật là 56% GDP và ở Singapore là 60% GDP. Động thái phát triển
các ngành dịch vụ trong những năm gần đây cho thấy rõ sự khác biệt theo
ngành. Ở nhiều nước tổ hợp dịch vụ kinh doanh đứng đầu về nhịp độ tăng
2



trưởng. Đó là các dịch vụ về tiếp thị và quảng cáo, các hoạt động cấp giấy
phép, các công ty nghiên cứu khoa học, các dịch vụ bảo vệ và phục vụ vận
chuyển, dịch vụ thiết kế-xây dựng nhà ở và kiến trúc…Trong lĩnh vực dịch
vụ, phát triển nhanh nhất vẫn là các dịch vụ máy tính, cái tạo nên đặc trưng cơ
bản cho nền kinh tế mới và suy cho cùng, xác định khả năng cạnh tranh của
đất nước trên thị trường thế giới.
1.2. Chủ nghĩa tư bản hiện đại tạo khả năng cho người lao động trở
thành người lao động có sở hữu.
Đây là sự chuyển biến quan trọng nhất trong lòng các nền kinh tế của
chủ nghĩa tư bản hiện đại. Sự biến đổi này mang tính chất hai mặt: một mặt,
chủ nghĩa tư bản vẫn cho phép xuất hiện các nhà doanh nghiệp tư nhân nắm
trong tay những tài sản riêng khổng lồ lên tới hàng chục tỉ USD như Bill
Gate, Mark Zuckerberg…, mặt khác những người lao động lại được đầu tư tài
sản của mình vào doanh nghiệp thông qua việc mua bán cổ phiếu tại các sở
giao dịch chứng khoán. Sách báo phương Tây gọi sự biến đổi trong phương
thức cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại,
từ chủ yếu thông qua các ngân hàng và nhà nước trước đây sang phương thức
đóng góp cổ phần, là sự biến đổi chủ nghĩa tư bản kiểu Pho sang chủ nghĩa tư
bản tài sản. Trong chủ nghĩa tư bản kiểu Pho, tiền công là động lực tạo ra lợi
nhuận tư bản chủ nghĩa, nhưng những người làm công vẫn bị lệ thuộc vào
doanh nghiệp và quy trình sản xuất. Nhờ những tiến bộ khoa học-kĩ thuật tạo
ra năng suất lao động cao hơn đã tạo điều kiện cho người lao động tích lũy.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tạo ra khả năng để người lao động có thể làm
cho tài sản của họ sinh lời thông qua việc năm giữ các cổ phiếu. Ngoài ra,
bằng các khoản tiền tiết kiệm, các quỹ hưu trí, các quỹ bảo hiểm, các quỹ trợ
cấp…người lao động cũng giành được quyền kiểm soát đối với doanh nghiệp
thông qua sở giao dịch chứng khoán. Đây là thay đổi rất lớn xuất hiện trong
lòng xã hội tư bản. Do ít nhiều nắm giữ một số cổ phiếu nào đó để trở thành
cổ đông trong các công ty cổ phần, mà ngày nay, những người vô sản, theo

3


đúng nghĩa của nó, tuy vẫn còn những nhưng dường như không còn đông đảo.
Nếu vào giữa những năm 70 của thế kỉ XX, người lao động chỉ chiếm 8%
toàn bộ sở hữu của các doanh nghiệp thì đến thời điểm năm 1983 họ đã có
19% cổ phần, năm 1995 có 40,3%; đến nay có tới 76 triệu người chiếm 43%
số hộ của nước Mỹ có sở hữu cổ phần hoặc đóng góp trong các quỹ việc làm.
Khi trở thành người sở hữu một phần cổ phiếu của doanh nghiệp thì
người lao động sẽ quan tâm trực tiếp đến hoạt động quản lý. Đồng thời cũng
xuất hiện mối quan tâm vì lợi ích chung giữa nhà quản lý, người làm công và
các cổ đông. Điều mà trước đây, ở thế kỉ XIX, C.Mác đã từng dự đoán rằng,
chính bản thân những nhà máy hợp tác với hình thức công ty cổ phần là một
lỗ thủng đầu tiên trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự đối kháng giữa
lao động và tư bản đã được xóa bỏ trong phạm vi những nhà máy hợp tác đó
bằng cách biến những người lao liên hiệp thành những nhà tư bản với chính
bản thân mình, nghĩa là cho họ “ có thể dùng tư bản sản xuất để bóc lột lao
động của chính họ”. Rõ ràng là khi người lao động có quyền sở hữu theo sự
đóng góp của mình tì cái lợi đem lại là các doanh nghiệp đều đạt được sự ổn
định về nhân công hơn, điều mà trong chủ nghĩa tư bản trước đây chưa từng
làm được.
1.3. Chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản tài chính
Xã hội ở các nước tư bản đang định hình mang bản chất của chủ nghĩa tư
bản tài chính. Nó không phải là “ hậu công nghiệp” hay hậu nào khác. Nó là
chủ nghĩa tư bản, thậm chí còn mang tính chất tư bản chủ nghĩa ác liệt hơn
bao giờ hết. Chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản tài chính, giống
như những biểu hiện của nó ở cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nhưng không
đơn giản là tư bản tài chính mà là chủ nghĩa tư bản tài chính. Không những
thế nó còn là một thứ chủ nghĩa tư bản ăn bám, lũng đoạn tinh xảo hơn trước
đây rất nhiều lần. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản không chỉ chi phối duy nhất

bằng con đường tài chính mà bằng các dịch vụ, trong đó việc chi phối thông
tin và tri thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
4


Mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp vẫn luôn là lợi nhuận, nhưng
nếu trước đây tư bản chỉ thể hiện bằng tiền, thì ngày nay ngoài tiền còn có các
chứng chỉ tài chính. Các sản phẩm tài chính được mua bán trên thị trường,
nhưng giá cả của nó không gắn liền với giá trị như trong thời chủ nghĩa tư bản
trước đây, bởi người ta không sản xuất trái phiếu như một thứ hàng hóa thông
thường. Khái niệm giá trị theo đúng nghĩa kinh tế học cổ điển và nhất là theo
Mác, không áp dụng được với thứ hàng hóa đặc biệt này,vì nó không gắn liền
với năng suất lao động sống và lao động quá khứ của ngành tài chính và các
ngành khác. Mua và bán các sản phẩm tài chính, các chứng khoán chẳng hạn,
không phải là mua và bán những hàng hóa đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng
trực tiếp. Việc mua chứng khoán gắn liền với hi vọng kiếm lãi, còn việc bán
chứng khoán lại gắn liền với dự đoán có thể thua lỗ, giảm giá. Các hoạt động
đầu cơ cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trở nên phổ biến, có cả các hoạt
động đầu cơ giá lên và cả đầu cơ giá xuống. Việc mua bán ấy trong thời đại
ngày nay được thực hiện không phải bằng tiền mặt mà bằng những chứng chỉ
tài chính.
Tác dụng của chủ nghĩa tư bản tài chính đến đâu thì còn phải làm rõ
nhưng tính chất ăn bám và bịp bợm thì không những vẫn còn mà thậm chí lại
tinh vi và tàn bạo hơn trước. Chính C.Mác cũng đã dự báo về một xu thế phát
triển mới của chủ nghĩa tư bản ngay từ cuối thế kỉ XIX, khi trong lòng nó đã
xuất hiện các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, ông cho rằng, chính
trong quá trình ấy sẽ phát sinh ra một loại ăn bám mới, quý tộc tài chính mới
và cả một hệ thống lừa đảo và bịp bợm về việc sáng lập, phát hành và buôn
bán cổ phiếu. Không khéo, cái “ động lực tích cực” cũng nằm trong “ hệ
thống” này, cũng giống như người lao động có được một ít tích lũy để mua cổ

phiếu và trở thành sở hữu, nhưng họ đâu hiểu được rằng, trên thực tế với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động như hiện nay ở các
nước tư bản phát triển, thậm chí họ có thể có khoản tích lũy cao gấp trăm, gấp
ngàn lần so với cái hiện có.
5


1.4. Chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa
Có thể thấy chưa bao giờ chủ nghĩa tư bản mang tính chất thế giới đầy
đủ và toàn vẹn như hiện nay.Nó thực sự chi phối và bao trùm lên toàn thế
giới, không trừ một lục địa nào. Nó đang tìm cách can dự vào tất cả. Nó thúc
đẩy quá trình hàng hóa hóa, tiền tệ hóa tất cả các nền kinh tế hiện có.
Trong những năm qua quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và thương mại
đã góp phần vào sự bùng nổ của nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa về kinh tế
đã tạo ra hàng triệu việc làm, chuyển gần 2000 tỉ USD từ các nước giàu sang
các nước nghèo dưới hình thức đầu tư bằng cổ phiếu hay trái phiếu, bằng các
khoản cho vay ngân hàng thông qua các tổ chức tài chính quốc tế như IMF,
WB. Nhưng, xét về bản chất sâu xa của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, nó lại
hoàn toàn không phải là con để của chủ nghĩa tư bản. Nó là sản phẩm của
những bước tiến ngày càng dài và diễn ra nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật
và công nghệ. Trong một nền kinh tế thế giới bị chủ nghĩa tư bản chi phối thì
toàn cầu hóa trở thành đối tượng để chủ nghĩa tư bản lợi dụng thực hiện các ý
tưởng bành trướng ra thị trường thế giới. Phải chăng đó cũng chính là một
nguyên nhân đưa tới những cuôc biểu tình rộng lớn chống lại toàn cầu hóa.
Nhiều nước giàu hô hào tự do thị trường nhưng lại đang thực thi các kiểu bảo
hộ trá hình một cách sâu rộng. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
nhằm tìm kiếm lợi nhuận đã làm tăng thêm nạn thất nghiệp, nạn ô nhiễm và
phá hủy môi trường cũng như thái độ coi rẻ phẩm giá con người. Không phải
ở đâu toàn cầu hóa cũng mang lại những phép màu nhiệm cho tăng trưởng
kinh tế. Trong khi các nền kinh tế ở Đông Á tăng trưởng nhanh chóng thì đại

bộ phận các nước đang phát triển, toàn cầu hóa lại làm chậm nhịp độ tăng
trưởng như ở các nước Mỹ La Tinh và Châu Phi, khiến cho mức sống ở đó
còn thấp hơn trước đây. Số liệu của ngân hàng thế giới cho thấy, số người
sống dưới mức 1USD/ngày đã tăng lên trong hơn một thập kỉ qua,đạt tới con
số hơn 1,3 tỷ người. Một nét tiêu cực nữa của quá trình toàn cầu hóa kinh tế là
các cuộc khủng hoảng tài chính và các hoạt động không thể kiểm soát được
6


của các công ty xuyên quốc gia do quá trình này đem lại, kể cả những hoạt
động đầu cơ tài chính, xẩy ra ngày càng nghiêm trọng hơn, đẩy nền kinh tế
thế giới vào tình trạng hỗn loạn. Loài người đang đứng trước thách thức là
cần phải kiểm soát quá trình toàn cầu hóa như thế nào để nó mang lại lợi ích
ngày càng tăng cho các nước nghèo và các tầng lớp dân cư nghèo.
1.5 .Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản đã có sự biến đổi
Hiện nay, trước sự phát triển rất mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,của
khoa học và công nghệ, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã có sự thay đổi
về chất. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản tức là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng thay đổi và có những biểu hiện mới.
* Mâu thuẫ giữa tư bản và lao động
Có thể khẳng định rằng, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trong từng
quốc gia tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại, đôi khi gay gắt ở nước này hay nước
khác, ở thời kì này hay thời kì khác, song đôi khi lại dịu đi. Nguyên nhân của
sự dịu đi này là do chủ nghĩa tư bản hiện đại đã sử dụng những thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ vào điều tiết kinh tế. Đồng thời với
sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, chủ nghĩa tư bản đã khai thác
được các tiềm năng quốc tế một cách có hiệu quả phục vụ cho sự phát triển
kinh tế trong nước, từ đó nhân nhượng một phần có giới hạn lợi ích kinh tế
của người lao động. Mặt khác, thông qua các công ty xuyên quốc gia, những
mâu thuẫn trong từng quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng được điều chỉnh và dịch

chuyển ra ngoài biên giới quốc gia. Thêm vào đó là sự lũng đoạn của chủ
nghĩa cơ hội nên thực tế một bộ phận giai cấp công nhân ở các nước tư bản đã
tư sản hóa; một số tổ chức công đoàn bị giai cấp tư sản mua chuộc, đã làm
xoa dịu đi tính đối kháng của mâu thuẫn này.
* Mâu thuẫn giữa các nước ta bản phát triển với các nước đang phát triển
Trước đây, trong những năm chiến tranh, mâu thuẫn giữa các nước tư
bản phát triển và các nước đang phát triển là mâu thuẫn đối kháng, mang tính
chất gay gắt giữa những nước thống trị, bóc lột với những nước bị trị, lệ
7


thuộc. Nhưng ngày nay, do điều kiện lịch sử đã thay đổi, chiến tranh lạnh đã
kết thúc, lực lượng sản xuất đã đạt đến trình độ quốc tế hóa cao, quá trình
toàn cầu hóa được thúc đẩy mạnh mẽ thì xu hướng hòa bình, hợp tác để phát
triển đã trở thành xu thế chung của thời đại và trở thành mục tiêu chung của
cả nhân loại. Vì vậy, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước
đang phát triển về thực chất là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và lao động trên
phạm vi quốc tế. Song, hình thức đấu tranh đã có sự biến đổi và thông thường
được biểu hiện tập trung ở kinh tế, với việc sử dụng hợp tác quốc tế, tăng
cường củng cố hòa bình và tranh thủ hòa bình để phát triển. Tuy nhiên cần
phải khẳng định rằng, chủ nghĩa thực dân vẫn tồn tại dưới hình thức mới, mối
quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển là mối
quan hệ không bình đẳng, các nước đang phát triển đang ở trong thế yếu về
kinh tế. Tuy có sự phụ thuộc lẫn nhau trong quan hệ nhưng về thực chất vẫn
là sự phụ thuộc một chiều. Các nước đang phát triển đã và đang đoàn kết sử
dụng điểm mạnh của mình, đấu tranh để có được một trật tự quốc tế mới
* Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa
Mâu thuẫn này đã trải qua hai giai đoạn:
Sau chiến tranh thế giới, trước phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thế giới thứ ba và sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa

các nước tư bản phát triển cũng dịu đi để tập trung đối phó với phong trào
cách mạng trên thế giới.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mâu thuẫn này đã diễn biến phức tạp
hơn. Một mặt, với sự phát triển của toàn cầu hóa, các nước phát triển cũng
buộc phải liên kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nhưng mặt khác, do
tác động của quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, các nước
này lại cạnh tranh và đấu tranh với nhau để giành quyền lực, đặc biệt là cuộc
đấu tranh giữa các trung tâm tư bản chủ nghĩa Mỹ, Nhật, Tây Âu.
Thực tế là mâu thuẫn giữa các nước tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa các
trung tâm tư bản thế giới được biểu hiện tập trung trên lĩnh vực kinh tế và lôi
8


cuốn nhiều nước vào vòng xoáy đó. Do vậy, chiến tranh kinh tế ngày càng trở
nên ác liệt và biểu hiện dưới nhiều hình thức, song trước hết ở cuộc cạnh
tranh giữa các công ty tư bản, đặc biệt là giữa các công ty xuyên quốc gia để
giành giật thị trường.
* Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mặc dù chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm
vào khủng hoảng, song đó chỉ là sự trả giá cho việc nhận thức giáo điều, máy
móc về chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này không phải hoàn toàn là bằng chứng
về những sai lầm của học thuyết Mác-Lênin và sự bế tắc của con đường đi lên
chủ nghĩa như một số người lầm tưởng hoặc có ý đồ xấu, lợi dụng cơ hội phê
phán chủ nghĩa Mác-Lênin một cách không có cơ sở khoa học.
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra hết
sức phức tạp, Chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách chống phá hòng thủ tiêu chủ
nghĩa cộng sản, trước mắt bằng con đường diễn biến hòa bình đang là nhiệm
vụ cấp bách đối với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.


9


CHƯƠNG II. BẢN CHẤT VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN NAY
2.1.Bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện nay
Chủ nghĩa tư bản hiện nay đã khác xa chủ nghĩa tư bản thời kì cạnh tranh
tự do và thời kì tư bản độc quyền đầu thế kỉ XX. Đặc biệt là ở những thập
niên 70-80 của thế kỉ XX đến nay, chủ nghĩa tư bản đã có một bước tiến dài –
bước tiến quan trọng đánh dấu một thời kì mới của chủ nghĩa tư bản – thời kì
phát triển của chủ nghãi tư bản hiện đại. Chính điều đó đòi hỏi phải có cách
nhìn mới và quan niệm mới về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Hiện đang tồn tại một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản hiện đại:
- Có quan điểm cho rằng: chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản
độc quyền
- Loại quan điểm thứ hai cho rằng: chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
- Loại quan điểm thứ ba cho rằng: chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa
tư bản xã hội. Vì theo họ, trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản có đặc
trưng là sự xã hội hóa cả sản xuất, tư bản và đời sống xã hội
Song nhìn chung các nhà khoa học đều đi đến khẳng định rằng: Chủ
nghĩa tư bản hiện đại – hiểu theo nghĩa rộng – là chủ nghĩa tư bản gắn liền với
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, là chủ nghĩa tư bản có trình
độ phát triển cao về kinh tế, kĩ thuật và công nghệ và có sự điều chỉnh thích
nghi với thời đại mới.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã
làm cho chủ nghĩa tư bản biến đổi một cách sâu sắc từ lực lượng sản xuất đến
quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng. Do đó, chủ nghĩa
tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản có trình độ phát triển cao và có sự điều
chỉnh thích nghi với thời đại.

Khi xem xét chủ nghĩa tư bản hiện đại với các điều chỉnh của nó thì đồng
thời phải xem xét cả những hệ lụy có tính chất toàn cầu mà sự điều chỉnh đó
10


đưa tới. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn có những tiềm năng phát
triển. Để duy trì những tiềm năng ấy, từ cuối thế kỉ XX đến nay dựa vào
những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, chủ nghĩa
tư bản hiện đại đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh để thúc đẩy quá trình
toàn cầu hóa. Ở phạm vi quốc gia, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã cố gắng xây
dựng một hệ thống pháp luật nhà nước đa dạng, phổ cập trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện cho quá trình điều chỉnh của tư bản tư
nhân đối với các quá trình kinh tế. Để điều hòa các mâu thuẫn nội tại của nó,
chủ nghĩa tư bản đã tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế nhằm thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Động thái này được tiến hành trong sự kết
hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản xuất,
giảm bớt các chi phí xã hội, mở rộng môi trường cạnh tranh…Vì thế, việc nhà
nước tư sản ở các nước tư bản phát triển chiếm hữu và phân phối từ 30 đến
60% thu nhập quốc dân, sử dụng một phần từ siêu lợi nhuận thu được này để
trả công cho người lao động do đó dễ tạo ta cho người lao động ảo giác về
tình trạng không còn bị bóc lột nữa.
Nhưng dù có điều chỉnh như thế nào đi nữa thì chủ nghĩa tư bản hiện đại
cũng không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản của nó và bản chất
bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Mọi sự điều chỉnh của nó tiếp tục đưa
đến hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, làm cho
các nước nghèo, người nghèo ngày càng nghèo hơn, còn các nước giàu, người
giàu ngày càng giàu hơn. Khi mọi chi phí của nhà nước tư bản sử dụng đều có
nguồn gốc từ túi tiền của người nghèo, người lao động ở chính quốc và từ
việc đầu tư ra các nước đang phát triển để trốn thuế, khai thác tài nguyên, sử
dụng nhân công rẻ mạt thì mọi sự điều chỉnh rốt cuộc chỉ làm tăng thêm lơi

nhuận cho giai cấp tư sản đang thống trị mà thôi.

11


2.2 Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại
2.2.1.Chủ nghĩa tư bản hiện đại vận động trên một cơ sở vật chất kỹ
thuật mới hoàn toàn về chất
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lực
lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh mẽ, chuyển nền sản
xuất của xã hội tư bản sang một cơ sở mới.
Theo quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản đã trải qua hai thời kì kỹ thuật:
- Thời kì công nghệ là thủ công
- Thời kì công nghệ bằng công nghiệp cơ khí
Từ 1980 đến nay, chủ nghĩa tư bản đã bước vào một thời kì kĩ thuật mới
– Thời kì công nghệ là khoa học. Đây là một nền công nghiệp cơ khí kiểu
mới, nền công nghiệp hoạt động trên cơ sở những công nghệ thiết bị mới hoàn
toàn về nguyên tắc, làm cho việc sản xuất kinh doanh diễn ra theo phương
thức hoàn toàn mới. Chính vì vậy, đã tạo ra một sức sản xuất to lớn, với một
tốc độ tăng trưởng nhanh chóng khiến cho quy luật tiết kiệm được thực hiện
một cách hoàn hảo. Trong thời kì này, nhiều ngành sản xuất vật chất với công
nghệ hiện đại ra đời như: kỹ thuật điện tử, vi điện tử, người máy, năng lượng
nguyên tử, vật liệu cao cấp, kỹ thuật vi sinh học…đã tạo ra những thành tưu
mới và được chủ nghĩa tư bản áp dụng một cách có hiệu quả để tạo ra một cơ
ở vật chất kỹ thuật mới hoàn toàn về chất.
2.2.2. Nhà nước tư bản là một trung tâm điều tiết vĩ mô, người tổ chức
đời sống kinh tế xã hội của xã hội tư bản
Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung, thì một
trong những chức năng xã hội chung đó là chức năng làm “ một người nhạc
trưởng” đứng ra điều hành, phối hợp không phải một khâu, một quá trình sản

xuất đơn lẻ mà là cả quá trình sản xuất xã hội. Song sự điều hành của nhà
nước sâu hay nông, toàn diện hay bộ phận, gián tiếp hay trực tiếp là tùy thuộc
vào nhu cầu của sản xuất.

12


Nếu trong giai đoạn hình thành của chủ nghĩa tư bản, các quan hệ sản
xuất phong kiến vẫn còn chiếm ưu thế đã kìm hãm sự phát triển của các quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và do đó kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất,
thì nhà nước với tư cách là một tổ chức quan trọng nhất của kiến trúc thượng
tầng tạo diều kiện cho sự ra đời của các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa, bảo
vệ nó phát triển. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã đạt đến quy
mô lớn, tính xã hội hóa của sản xuất đã đạt tới trình độ cao; trong nền sản
xuất đã diễn ra nhiều quá trình kinh tế xã hội vượt khỏi tầm tay của các nhà tư
bản, thậm chí của các giai cấp tư sản, làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái
khủng hoảng, xã hội rơi vào tình trạng thiếu ổn định. Trước tình hình đó, nhà
nước buộc phải can thiệp vào nền kinh tế, khôi phục lại trạng thái cân bằng
tương đối của nền kinh tế mà từ đó ổn định trật tự xã hội. Ở giai đoạn này, sự
can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế đã xuất hiện thường xuyên, song mới
chỉ giới hạn ở hai nội dung là kiểm soát thống nhất nền kinh tế thời chiến và
chống khủng hoảng chu kì. Sự can thiệp này nhằm mục đích khắc phục trạng
thái vận động quá sai lệch của nền kinh tế do việc tham gia của các tổ chức
độc quyền vào điều chỉnh sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội gây ra.
Các yếu tố trong hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản đã bắt đầu
hình thành, song chưa được phát triển đầy đủ và hoàn thiện. Chính sách và
giải pháp kinh tế mới chỉ là những giải pháp tình thế, tạm thời.
Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản hiện đại, sự can thiệp của nhà nước vào
nền kinh tế mới trở thành nhân tố chủ động, định hướng và uốn nắn được quá

trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo các mục tiêu định trước. Tuy
nhiên hiệu quả của quá trình định hướng này còn nhiều han chế do bản chất tư
bản chủ nghĩa của nó kìm hãm, nhưng đây cũng là bước biến đổi về chất
trong sự điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư sản. Ở giai đoạn này, sự can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế đã có những chuyển biến quan trọng, từ chỗ chỉ
là những giải pháp tình thế ứng phí với tình hình chiến tranh và khủng hoảng
13


kinh tế, nó đã chuyển sang các giải pháp chỉ đạo tăng trưởng, ổn định, phát
triển lâu dài nền kinh tế. Hệ thống điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư sản hiện
đại đã được định hình và có khả năng can thiệp vào mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội. Nó có thể hoàn thành cả nhiệm vụ điều tiết kinh tế ngắn hạn và
điều chỉnh sự vận động của nền kinh tế dài hạn. Từ đó, điều chỉnh kinh tế của
nhà nước tư bản hiện đại đã trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ trong
toàn bộ cơ chế tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự can thiệp toàn diện của nhà
nước vào quá trình tái sản xuất tư bản xã hội là đặc trưng nổi bật của chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Song đó chỉ là sự thích ứng của chủ nghĩa tư bản với sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Nó không xóa bỏ được các điều
kiện mà trong đó các quy luật vốn có của chủ nghĩa tư bản hoạt động, tức là
sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế vẫn chịu sự chế ước của quy luật
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, không thể xóa bỏ được tình trạng phát triển
tự phát và khủng hoảng kinh tế.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế
ngày càng tăng, nền kinh tế quốc gia gắn chặt với sự vận động của thị trường
thế giới làm cho quá trình tự phát của quá trình kinh tế tăng lên và nguy cơ
khủng hoảng luôn ở trạng thái thường trực. Nhiều bộ phận của nền kinh tế
quốc gia bị chi phối và điều tiết các công ty xuyên quốc gia, do đó sự vận
động của nền kinh tế chịu sự điều chỉnh của một nhà nước. Chính vì vậy, điều
chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản hiện đại từ thập niên 80 không thể mang

hình thức và nội dung điều chỉnh kinh tế của nhà nước tư bản hiện nay là phát
triển hay nới lỏng các biện pháp hành chính cứng rắn của nhà nước, tăng
cường sử dụng các giải pháp thị trường và sự điều chỉnh kinh tế quốc gia với
điều chỉnh kinh tế quốc tế.
2.2.3.Các công ty xuyên quốc gia - lực lượng cơ bản của chủ nghĩa tư
bản hiện đại
Hiện nay có khoảng 82.000 công ty xuyên quốc gia với mạng lưới
810.000 chi nhánh ở khắp nới trên thế giới, hoạt động trong hầu hết các lĩnh
14


vực kinh tế như nông nghiệp, chế biến thực phẩm, khai thác mỏ, công nghiệp,
năng lượng, du lịch, giao thông vận tải, tài chính và các loại hình dịch vụ khác
nhau. Các công ty này có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế thế
giới nói chung cũng như đến nền kinh tế của các quốc gia nói riêng và ngày
càng trở thành lực lượng cơ bản vận hành nền kinh tế thế giới.
Là một trong những chủ thể quan trọng nhất của nền kinh tế toàn cầu,
các công ty xuyên quốc gia chiếm một vị trí lớn mạnh hơn bao giờ hết trong
các hoạt động kinh tế quốc tế và trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trên thực tế, thông qua các chiến lược kinh doanh, đầu tư toàn cầu, các
công ty xuyên quốc gia đóng vai trò là động lực phát triển kinh tế thế giới
cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế ở các quốc gia có chi nhánh của nó hoạt
động. Với tiềm lực chiếm tới 4/5 tổng sản lượng công nghiệp thế giới và 90%
tổng FDI toàn cầu, các công ty xuyên quốc gia thực sự chi phối hầu hết các
hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn thế giới.
Trước hết, với lợi thế về vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên
tiến và mạng lưới thị trường rộng khắp trên thế giới, các công ty xuyên quốc
gia của các nước phát triển điều phối dòng lưu chuyển, hướng đi của FDI
toàn cầu. Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp trong tổng vốn đầu tư của từng
nước chủ nhà không cao ( khoảng 5%) nhưng đây là nguồn vốn quan trọng và

khó có thể thay thế vì nó tạo ra những kết quả phái sinh như chuyển giao công
nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển các hoạt động dịch vụ…
Tuy nhiên cũng phải thấy tính chất 2 mặt của đầu tư trực tiếp mà các
công ty xuyên quốc gia thực hiện. Một mặt làm tăng thêm nguồn vốn và các
hệ quả lợi ích khác cho nước chủ nhà, nhưng mặt khác, nếu không quản lý
giỏi thì chính qua đó cũng để lại những hậu quả ngoài mong muốn.
Đối với thương mại thế giới, các công ty xuyên quốc gia cũng góp phần
thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia, thúc đẩy lưu thông
hàng hóa dưới dạng xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hóa bán ra từ các chi
nhánh ở nước ngoài và hàng hóa trao đổi giữa các công ty trong cùng một tập
đoàn. Các công ty xuyên quốc gia chi phối hầu hết chu chuyển hàng hóa giữa
các quốc gia bởi các kênh lưu thông xuyên quốc gia của mình. Các công ty
15


xuyên quốc gia chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch nhập khẩu và 60% tổng
kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới. Hiện nay thương mại nội bộ giữa các công
ty trong cùng tập đoàn chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị thương
mại thế giới ( khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới).
Hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ bằng
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) luôn giữ vị trí hàng đầu và là
nhiệm vụ sống còn của các công ty xuyên quốc gia. Công nghệ mới ra đời
không chỉ từ các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu, các trường đại học
mà còn từ chính các cơ sở sản xuất của các công ty xuyên quốc gia. Nguyên
nhân do cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới đòi hỏi các
thành quả về công nghệ tiên tiến phải được áp dụng càng nhanh càng tốt vào
quá trình sản xuất và việc thành lập các phòng nghiên cứu ứng dụng ở nước
ngoài thường rẻ và hiệu quả hơn.
Các công ty xuyên quốc gia mở rộng mạng lưới ra toàn cầu nhằm hiệu
quả hóa, giảm chi phí sản xuất và kinh doanh, thông qua việc thực hiện các

chiến lược liên kết sản xuất xuyên khu vực, thậm chí cả xuyên châu lục đã tạo
ra chuỗi sản xuất toàn cầu. Trong những năm qua, các công ty xuyên quốc gia
đã bành trướng mạnh hoạt động của mình ra nước ngoài nhanh hơn ở chính
quốc, thúc đẩy mạnh mẽ kiên kết kinh tế khu vực, liên khu vực và tiêu khu
vực. Hàng loạt các địa bàn mới và ngành công nghiệp mới được mở cửa cho
FDI với sự hợp tác kinh tế lớn hơn, mức độ tư nhân hóa nhanh và rộng hơn,
cải thiện hạ tầng thông tin và hệ thống giao thông. Đặc biệt là làn sóng sát
nhập và mua lại (M&A) qua biên giới. Hình thức này đã tăng nhanh chóng
cùng với hình thức đầu tư xây dựng doanh nghiệp mới, trở thành một nét nổi
bật và là một hiện tượng trong hoạt động của các công ty xuyên quốc gia. Các
lĩnh vực sát nhập cũng ngày càng đa dạng, trong đó các lĩnh vực hàng đầu là
viễn thông, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, truyền thông với tổng giá trị lên
đến hàng trăm tỷ USD. Như vậy, hoạt động của các công ty xuyên quốc gia
không chỉ thúc đẩy lên kết kinh tế khu vực mà còn mở rộng phạm vi liên kết
theo ngành, nghề cũng như phát triển liên kết theo chiều sâu.

16


CHƯƠNG III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI
VỚI NƯỚC TA
3.1. Kiên định mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Trong những năm qua, trên thực tế, chúng ta đã có bước tiến dài về Hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo
lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Đây cũng là một
đột phá chiến lược đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết phải tôn
trọng đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời phải có công cụ
điều tiết và chính sách phân phối để bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.

Thời gian tới phải tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện tốt
đột phá chiến lược nêu trên, trong đó tập trung giải quyết hai vấn đề quan
trọng có liên quan chặt chẽ với nhau là thực hiện giá thị trường đối với hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, theo đúng chỉ đạo
định hướng của Thủ tướng Chính phủ trong Thông điệp đầu năm mới.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là mô hình tổng quát
của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Tiếp tục làm rõ đặc trưng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; chỉ ra những yếu kém,
lầm lẫn và nguy cơ chệch hướng; làm rõ vai trò của kinh tế Nhà nước và điều
tiết Nhà nước... là những vấn đề nóng bỏng đặt ra từ thực tiễn.
Kiên định con đường đi lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, cần liên tục đổi mới tư duy kinh tế và tư duy
phát triển, không ngừng phân tích, đánh giá và rút ra bài học thành công và
thất bại trên con đường “dò đá qua sông”, thực hiện một mô hình kinh tế mới
chưa từng có tiền lệ.

17


Tại hội thảo “Một số vấn đề lý luận – thực tiễn cốt yếu về phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
nhấn mạnh sau gần 30 năm đổi mới, các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được tạo lập và đi vào
hoạt động, từng bước hoàn thiện. Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi
bật về xóa đói giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước đổi mới.
Nói như vậy không có nghĩa trong quá trình phát triển, Việt Nam không
gặp trở ngại, khó khăn. Quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường của Việt
Nam chưa hoàn tất, những thách thức, rào cản còn rất lớn trong cả tư tưởng,
nhận thức, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện. Những hạn chế, thiếu sót,

bất cập và những vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tập trung cao độ trí tuệ để
làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và phù hợp
với nguyên tắc chung của kinh tế thị trường trên thế giới ngày nay. Phương
hướng cơ bản là phải dựa trên cơ sở nền tảng khoa học và bắt kịp những xu thế
phát triển khách quan của thời đại để giải quyết những bức xúc trước mắt cũng
như định ra đường hướng phát triển kinh tế dài hạn cho đất nước
3.2.Phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen vào nhau, tác
động qua lại với nhau, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu
nhất định về tư liệu sản xuất và biểu hiện lợi ích của một giai cấp, tầng lớp xã
hội nhất định. Các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ các thành phần kinh tế đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nằm trong hệ thống phân công xã hội có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau cả

18


"đầu vào" và "đầu ra". Các thành phần kinh tế đều hoạt động trong một môi
trường thống nhất, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế biểu hiện ở xu hướng vận động
khác nhau, mang bản chất kinh tế khác nhau, biểu hiện lợi ích kinh tế khác
nhau. Ngoài ra, ngay trong nội bộ mỗi thành phần kinh tế cũng có mâu thuẫn
do sự vi phạm hợp đồng, vì lợi ích cục bộ, chiếm dụng vốn của nhau, vi phạm
bản quyền sở hữu phát minh, nhãn mác, giành thị trường, v.v.. Những mâu
thuẫn của nền kinh tế nhiều thành phần chỉ được giải quyết dần dần trong quá
trình xã hội hóa sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xã hội hóa sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là làm cho
nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta. Để định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế nhiều thành phần chúng
ta cần phải:
- Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và nó cùng với kinh tế
tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối
đa các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh
tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không để
nó trở thành quan hệ thống trị;
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, tránh sự phân hóa xã hội thành hai cực
đối lập, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa

19


các vùng, các tầng lớp dân cư; kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
3.3. Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
Tái cơ cấu DNNN phải phù hợp với tổng thể quá trình tái cấu trúc chung.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cần thể hiện rõ trong vai trò định hướng
và thúc đẩy đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; góp phần ổn định và làm giảm
khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đẳng, bất công trong xã hội; bảo đảm
các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần tăng cường sức mạnh quốc phòng,
an ninh; cũng như thể hiện ở sự gương mẫu về năng suất, chất lượng và hiệu
quả hoạt động; tập trung vào phát triển một số ngành sản xuất then chốt có tác
dụng lan tỏa hoặc định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung vùng hoặc
đất nước, những lĩnh vực mà đầu tư tư nhân không thể hoặc chưa thể thực

hiện được. Đối với từng tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, cần đẩy
mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các DNNN mà Nhà nước không cần
nắm giữ 100% sở hữu và thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư, ngành nghề
kinh doanh, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính; đẩy nhanh thực
hiện theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào các
ngành không phải kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan đến ngành
kinh doanh chính và vốn nhà nước ở các công ty cổ phần mà Nhà nước không
cần nắm giữ cổ phần chi phối.

20


C. KẾT LUẬN
Các chính sách kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển hiện nay vẫn mang bản chất tư bản chủ nghĩa. Bằng một hệ thống các
biện pháp kinh tế, mọi lĩnh vực tái sản xuất xã hội, mọi hoạt động kinh tế
trong và ngoài nước. Sự can thiệp của nhà nước vào quá trình tái sản xuất xã
hội là đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Song đó chỉ là sự thích
ứng của chủ nghĩa tư bản hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất. Nó không xóa bỏ được các điều kiện mà trong đó các quy luật vốn
có của chủ nghĩa tư bản hoạt động, tức là sự can thiệp của nhà nước vào kinh
tế vẫn chịu sự chế ước của các quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Do đó, nó không thể xóa bỏ được một cách căn bản tình trạng phát triển tự
phát và khủng hoảng kinh tê. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế
quốc tế hóa đời sống kinh tế ngày càng tăng, nền kinh tế của quốc gia gắn
chặt với sự biến động của thị trường thế giới làm cho tính tự phát của quá
trình kinh tế tăng lên và nguy cơ khủng hoảng luôn ở trạng thái thường trực.
Vì vậy, việc nghiên cứu về bản chất và những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản
hiện đại luôn là vấn đề thường trực, nó sẽ cung cấp những kinh nghiệm quy
báu cho chúng ta trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa.

21


22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập I, Nxb CT- QG, Hà Nội, 1995.
2. Các công ty xuyên quốc gia hiện đại, Nxb CT-QG, Hà Nội, 1995.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, X.
4,Kim Ngọc, Kinh tế thế giới đặc điểm và triển vọng, NXB CT-QG, Hà
Nội, 2010.
5. Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế xã hội đại cương, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
6.Nguyễn Thanh Đức, Kinh tế thế giới hai thập kỉ đầu thế kỷ XXI. Xu
hướng và tác động chủ yếu, Nxb KHXH, 2011.
7. Nguyễn Mạnh Hùng, Kinh tế chính trị thế giới năm 2010 và triển vọng
năm 2011, Nxb KHXH, 2011.

23


MỤC LỤC

24




×