Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Quan hệ quốc tế hiện đại vai trò lịch sử và xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.89 KB, 29 trang )

A- PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn chung lịch sử xã hội toàn nhân loại đã phát triển qua nhiều giai
đoạn kế tiếp nhau và tương ứng mỗi giai đoạn là hình thái kinh tế- xã hội
nhất định. Cho đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua 4 hình thái kinh tế- xã
hội : cộng sản nguyên thủy,chiếm hữu nô lệ, phong kiến , tư bản chủ nghĩa
và đang trong thời kỳ quá độ sang chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Dựa trên những nền tảng của
học thuyết Mác Ănghen , Lê nin đã đưa ra những lý luận về chủ nghĩa tư
bản nhà nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,nó được trình bày rải rác
trong rất nhiều các tác phẩm của ông, trong điều kiện kinh tế và chính trị
khác nhau. Theo Lê nin chủ nghĩa tư bản nhà nước lúc đó là sự cứu nguy
đối với giai cấp vô sản còn non trẻ khi giai cấp mới nắm chính quyền. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước đó là điều cần thiết và có lợi, chẳng những nó
“không đáng sợ mà còn đáng mong đợi”. Chỉ có du nhập chủ nghĩa tư bản
nhà nước thì chính quyền giai cấp vô sản mới có thể tạo dựng được cơ sở
xây dựng chủ ngĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài
người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng
xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái
xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17.
Trong suốt quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản đã có những đóng
góp tích cực đối với phát triển sản xuất, làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt đời
sống xã hội. Tạo ra lượng của cải vật chất khổng lồ - nền kinh tế tự nhiên,
đi từ tự cung tự cấp đến nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa - sản xuất
nhỏ lẻ , đến sản xuất lớn hiện đại , làm tăng năng suất lao động và tạo ra
lượng của cải vật chất khổng lồ.
Page 1


Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản


xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao:
từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí và ngày nay các nước tư bản chủ
nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất
của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai đoạn tự động hóa, tin học
hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công
nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả, khám phá và
chinh phục thiên nhiên của con người.
Trong quá trình hội nhập và mở cửa như hiện nay, nhân dân ta đang
đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mong muốn làm bạn với tất cả các nước
trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới,
tham gia phân công lao động và cạnh tranh quốc tế đâng là đề tài quan
trọngcần được làm sáng tỏ. Hiện nay các nước tư bản phát triển vẫn đang
giữ vị trí chi phối nền kinh tế thế giới. Trên phương diện chính trị thế giới
cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang chiếm ưu thế.
Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế như
vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là diều hết sức cần
thiết. Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội không phải bỗng dưng mà có và phát
triển. Dương nhiên nó chỉ có thể làm nên những thành tựu của mình trên cơ
sở đúc kết bài học và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở phát triển của xã hội
loài nguời. Nghiên cứu những thành bai, được mất của chủ nghĩa tư bản
hiện đại, lấy cái tốt bỏ cái xấu của nó là để giúp Chúng ta xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, ưu việt hơn tư bản chủ nghĩa.
Do tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu nên em đã chọn đề tài này.
Mục đích nhằm làm sang rõ “ Vai trò lịch sử và xu thế vận động của chủ
nghĩa tư bản hiện đại”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Page 2



- Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm tìm hiểu quá trình hình thành
và phát triển của chủ nghĩa tư bản từ đó thấy được những thành tựu và hạn
chế mà nó mang lại từ khi ra đời. Khẳng định vai trò cũng như sứ mệnh
lịch sử của Chủ nghĩa tư bản.
- Nghiên cứu xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại nhằm
tìm kiếm cơ hội và nguy cơ sẽ xảy ra cho nhân loại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Bài tiểu luận nghiên cứu các vẫn đề sau:
- Những vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa tư bản
- Vai trò đối với sự phát triển nền sản xuất xã hội và xu thế vận động
của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Page 3


B- NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chủ nghĩa tư bản
1.1 Khái niệm .
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài
người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong lòng
xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái
xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 17. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ
18 hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu
thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ
phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới. Sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản (với tư cách một hình thái kinh tế) từ chủ nghĩa phong kiến không do
một lý thuyết gia nào xây dựng. Tuy nhiên A.Smith là người có đóng góp to
lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa
tư bản tự do hay tự do kinh tế.

Chủ nghĩa tư bản không đồng nhất với chủ nghĩa tự do dù nền tảng
là kinh tế tư hữu, nói cách khác chủ nghĩa tư bản là một trong các hình thái
kinh tế của sản xuất tư hữu, và đối lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng sở
hữu công cộng. Các chính sách an sinh xã hội trong nền kinh tế tư bản
không phải là thành tố của chủ nghĩa tư bản, và cũng không phải biểu hiện
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chính xác hơn là nó là một biểu hiện của
một nền kinh tế được điều chỉnh ít nhiều bởi nhà nước.
Xu thế là một hướng nào đó lôi kéo được sự chú ý nhiều của các đối
tượng, và là hướng mà có thể quyết định sự chi phối tới quyết định cho các

Page 4


đối tượng tuân theo, mặc dù không thật sự chắc chắn ! ( nghĩa là vẫn có thể
không hoàn toàn đúng) mang tính dự báo!
1.2. Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở
hữu tư nhân và quyền tự do sản xuất và kinh doanh được xã hội bảo vệ về
mặt luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm
của con người. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức
sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một số
thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn
gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của
chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản là trong xã hội
tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và
pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân
sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn
trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu tập thể và nhà nước
đối với phương tiện sản xuất.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư

nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi
nhuận thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi
sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần
tham gia vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần
kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh
doanh tự do, cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức,
thị trường lao động, định hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối
của cải là các khái niệm gắn liền với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
• Đặc điểm về kinh tế của chủ nghĩa tư bản
Page 5


"Chủ nghĩa tư bản" hay các định nghĩa, lý thuyết liên quan đến "chủ
nghĩa tư bản" (CNTB) có thể được hiểu là một hệ thống các quan điểm, các
định nghĩa được những người cộng sản, những chính khách theo phe cộng
sản và các chính khách cánh tả khác đưa ra để xác định một chế độ xã hội
trong đó có sự sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất gắn với nền công nghiệp
có năng suất lao động cao làm bộc lộ bản chất "bóc lột" lao động làm thuê
của các "nhà tư bản". Do ảnh hưởng lý luận theo quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, nhiều lý thuyết gia khái quát "chế độ chính trị tư
bản chủ nghĩa". Trong khi đó nhiều học giả khác không coi chủ nghĩa tư
bản là một hình thái kinh tế xã hội hay gắn nó với chế độ chính trị.
Quan niệm của họ chủ nghĩa tư bản chỉ phản ánh một quan hệ sản
xuất trên nền tảng chế độ tư hữu. Ở các nước mà những người cộng sản gọi
là theo chế độ chính trị "tư bản chủ nghĩa" (đối lập với xã hội chủ nghĩa) thì
không có định nghĩa rõ ràng thế nào là CNTB trong các văn kiện pháp luật
hay các văn kiện mang tầm cỡ quốc gia[cần dẫn nguồn]. . Về mặt chính trị,
ở những "quốc gia tư bản" quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định
đoạt không hề bị nghi ngờ, họ không đưa ra khái niệm thế nào là CNTB

[cần dẫn nguồn] mà chỉ định nghĩa các chế độ chính trị như thế nào thì
được gọi là một nhà nước quân chủ lập hiến, quân chủ hợp hiến, nhà nước
dân chủ, quân phiệt, chế độ độc tài, chế độ cộng hòa.v.v..
Do nhận thức khác nhau trên cơ sở kinh tế hay chính trị, "các nước
tư bản" thường tự gọi họ là các nước thuộc "Thế giới tự do", trong khi gọi
các nước đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước cộng sản"; trong khi đó các
nước đảng cộng sản lãnh đạo gọi nước họ là "các nước xã hội chủ nghĩa",
và các nước kinh tế tư bản chủ đạo là "các nước tư bản", và không gọi các
nước tuyên bố "xã hội chủ nghĩa" (trong Hiến pháp,v.v.) nhưng không do
đảng cộng sản lãnh đạo là "các nước xã hội chủ nghĩa".

Page 6


Có thể nói rằng hình thái kinh tế xã hội mà những người cộng sản
gọi là "CNTB" tồn tại dựa trên quan hệ cho vay lãi và cho thuê, điều này
hoàn toàn đối lập với quy luật bảo toàn và chuyển hóa của thế giới vật chất
(một trong ba "chân vạc" trong hệ thống lý luận của những người cộng
sản): vật chất không thể tự sinh ra vật chất, tiền không thể đẻ ra tiền.
- Thành phần kinh tế tư nhân:
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư
bản thành phần kinh tế tư nhân chiếm toàn bộ nền kinh tế. Sau này cùng
với mô hình kinh tế chủ nghĩa tư bản nhà nước với sự can thiệp điều phối
của nhà nước vào quá trình kinh tế thì tỷ trọng của thành phần tư nhân có
giảm xuống nhưng đối với một nền kinh tế tư bản đặc trưng nó luôn chiếm
tỷ trọng là thành phần lớn nhất trong nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư
nhân đóng vai trò năng động, lực đẩy quyết định tính hiệu quả của nền kinh
tế tư bản, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn đề
xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động tránh gây xáo trộn
lớn trong xã hội và để kinh doanh trong các ngành cần thiết nhưng khó sinh

lời. Theo thời gian giữa hai thành phần này thỉnh thoảng lại có sự hiệu
chỉnh bằng các quá trình tư nhân hoá hoặc quốc hữu hoá doanh nghiệp
thông qua việc bán và mua các cổ phần của doanh nghiệp.
- Nền sản xuất lớn và động lực lợi nhuận:
Khác với nền sản xuất phong kiến là nền sản xuất lấy ruộng đất làm
phương tiện sản xuất cơ bản và sở hữu ruộng đất là đặc quyền của vua, quý
tộc và lãnh chúa, ngành kinh tế chính là nông nghiệp và thương mại. Kinh
tế tư bản chủ nghĩa bác bỏ đặc quyền về ruộng đất hoặc bất cứ độc quyền
của tầng lớp quý tộc, thượng lưu nào. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là tự do
kinh doanh lấy công nghệ, máy móc, và chất xám làm phương tiện sản xuất
chính và là nền kinh tế định hướng sang công nghiệp, dịch vụ và thương
Page 7


mại. Sự định hướng này hoàn toàn do yếu tố lợi nhuận và thị trường điều
phối. Do phương tiện sản xuất là công nghệ, tri thức nên nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa để có lợi nhuận tối đa luôn có xu hướng hướng đến "nền sản
xuất lớn" với sự tái đầu tư mở rộng và gắn liền với cách mạng khoa họccông nghệ. Việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh là lợi
ích sống còn của các chủ sở hữu doanh nghiệp trong cạnh tranh giành lợi
nhuận.
- Mua bán sức lao động (thị trường lao động):
Đây là đặc điểm rất nổi bật của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế phong kiến và các nền kinh tế cấp thấp lực lượng nhân công
(nông dân, nông nô) bị phụ thuộc vào chủ đất (địa chủ, lãnh chúa) và quý
tộc về mặt pháp lý, họ bị gắn chặt vào ruộng đất và ý chí của chủ đất và
quý tộc. Còn nhân công (người lao động) trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về
mặt pháp lý là hoàn toàn bình đẳng với chủ sở hữu doanh nghiệp (người
thuê lao động). Giữa người thuê lao động và người lao động ràng buộc kinh
tế với nhau bằng hợp đồng lao động: người lao động và chủ doanh nghiệp
mua bán sức lao động theo các yếu tố của thị trường. Công nhân có thể

thanh lý hợp đồng lao động với người thuê lao động này và sang làm việc
cho người thuê lao động khác và nếu muốn cùng với có khả năng hoặc may
mắn thì cũng có thể trở thành chủ doanh nghiệp.Cả xã hội là một thị trường
lao động lớn và thường thì cung ứng lao động nhiều hơn yêu cầu lao động
do vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa thường tồn tại nạn thất nghiệp. Do
vậy, người lao động thường bị "mua rẻ" sức lao động của mình, xuất hiện
giá trị thặng dư, dẫn đến tình trạng công nhân bị "bóc lột" trong xã hội tư
bản, điều này những nước xã hội chủ nghĩa đã ra sức loại bỏ. Tuy nhiên
nguy cơ của nạn thất nghiệp đóng vai trò kích thích người lao động nâng
cao kỹ năng và kỷ luật lao động trong cuộc chạy đua bảo vệ chỗ làm việc.

Page 8


- Kinh tế thị trường và cạnh tranh:
Vì nền kinh tế được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp
tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh
tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự phát
theo quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh tranh hay đó là
nền kinh tế thị trường…
• Đặc điểm chính trị xã hội của chủ nghĩa tư bản.
Chính vì đặc điểm kinh tế cơ bản là quyền tư hữu đối với phương
tiện sản xuất và kinh tế thị trường tự do kinh doanh nên đã kéo theo các đặc
điểm khác về mặt luật pháp, triết học và tâm lý của xã hội tư bản chủ nghĩa:
- Tính năng động thị trường:
Mọi giá trị kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội đều có thể và phải được
lượng giá bằng tiền tệ trong các mối quan hệ xã hội, dựa trên sự lượng giá
đó để đánh giá giá trị đối với xã hội, do đó sự lượng giá các giá trị này hoàn
toàn mang tính thị trường và thay đổi rất nhanh theo thời gian, xã hội rất
năng động như một thị trường các giá trị lên giá và xuống giá rất nhanh.

- Nhân quyền:
Đối với xã hội tư bản chủ nghĩa cá nhân là chủ thể trung tâm của xã
hội: là người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần và là người thụ hưởng
các thành quả đó. Cá nhân có trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội và có các
quyền bất khả xâm phạm đó là nhân quyền. Quyền lợi của cá nhân trong xã
hội tư bản chủ nghĩa là tối cao nếu nó không phủ định quyền của cá nhân
khác. Ở đây khái niệm cá nhân là rất cụ thể.
- Đa đảng và đa nguyên chính trị:

Page 9


Vì nền tảng kinh tế tư bản chủ nghĩa khước từ mô hình chỉ huy tập
trung, kinh tế tư bản đề cao sự hành động sáng tạo của cá nhân nên tâm lý
xã hội cũng xa lạ với những giáo điều là "chân lý" không cần bàn cãi. Các
quốc gia tư bản chủ nghĩa không có giáo lý chung cho "chủ nghĩa" của hệ
thống này. Xã hội tư bản chủ nghĩa không bắt buộc công nhận bất cứ "chủ
nghĩa", học thuyết hoặc nhân vật thần thánh nào. Thượng đế cũng bị phán
xét, mọi lý thuyết xã hội, chính trị hoặc lý luận của các tổ chức và cá nhân
đều phải qua thực tế kiểm nghiệm và phán xét công khai và được chấp
nhận hoặc loại bỏ thông qua bầu cử của hệ thống chính trị. Do đó chế độ
chính trị của xã hội tư bản chủ nghĩa thường dựa trên chế độ đa đảng cạnh
tranh và đa nguyên chính trị. Đây là đặc điểm tư tưởng chính trị khác nhau
cơ bản của một nhà nước tư bản chủ nghĩa với một nhà nước xã hội chủ
nghĩa, cộng sản hoặc một nhà nước thần quyền.
• Đặc điểm văn hóa của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản được hiểu một hình thái kinh tế, nhưng tác động
các mặt chính trị - xã hội và văn hóa. Sự tác động vào văn hóa trước hết
là sự chấp nhận một sự đa dạng về văn hóa, không có định hướng rõ ràng
và sự phát triển của văn hóa tiêu dùng. Văn hóa chịu sự tác động của chủ

nghĩa tư bản, xuất hiện sự cạnh tranh và sự biến đổi mang tính tự nhiên
không có tính cưỡng ép, theo "quy luật đào thải" tự nhiên, và các sản
phẩm văn hóa ngày càng có tính thị trường hóa, hay được xem như một
thứ hàng hóa.
Các hoạt động văn hóa phát triển theo chiều hướng phục vụ nhu cầu
thị trường, thiếu dần sự kiểm soát và định hướng, có khi sự thành công của
các tác phẩm văn hóa được "kinh doanh", đo đếm theo doanh thu hay lời
lãi, chứ không phải ở chính giá trị đích thực của nó. Nắm bắt các nhu cầu,
bỏ qua hay xem nhẹ tính định hướng theo các quy chuẩn đạo đức, thẩm
Page 10


mỹ...là một đặc điểm phổ biến. Do đó sự tồn tại của các tác phẩm văn hóa
tiêu dùng, thậm trí là độc hại theo các quy chuẩn đạo đức phổ quát, tập
quán hay của các giáo lý tôn giáo, các tư tưởng chống chủ nghĩa tư bản là
một sự tất yếu, thậm trí phát triển mạnh, như các thể loại âm nhạc, điện
ảnh, văn học, nhiếp ảnh , hội họa có tính chất "bình dân hóa", "mỳ ăn liền",
"rẻ tiền" theo quan niệm một số người(các thể loại hay xếp vào dạng này
như phim cấp ba, phim "sex", phim, truyện "chưởng", "tâm lý xã hội", ảnh
"sex",...), các loại hình giải trí "rẻ tiền"...
Đi kèm với sự phát triển này là sự phát triển của báo lá cải. Bản chất
của chủ nghĩa tư bản chấp nhận một sự đa dạng và đào thải theo quy luật tự
nhiên chứ không định hướng, coi trọng sự tự do sáng tạo, tự do cá nhân nên
những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng thường chấp nhận một nền văn
hóa tiêu dùng, và coi nó là một sự thúc đẩy cho sự phát triển của văn hóa,
nghệ thuật vốn dĩ rất đa dạng và phong phú, ngược lại những người chịu
ảnh hưởng của các tư tưởng phong kiến, một số tập quán, hay giáo lý tôn
giáo hay chủ nghĩa xã hội,... thường không chấp nhận nó và cố gắng điều
chỉnh nó hoặc gạt bỏ nó theo ý chí chủ quan,...
Tuy nhiên một thực tế "văn hóa tư bản" xâm nhập ngày càng mạnh

mẽ vào những nơi từng không chấp nhận nó đi kèm với sự tồn tại của của
chủ nghĩa tư bản và lối sống thực dụng, và một sự đa dạng về văn hóa.
Một minh chứng cho thấy sự can thiệp của chủ nghĩa tư bản vào văn
hóa hay là "thị trường hóa văn hóa" là vấn đề thu nhập. Nhiều "ngôi sao" ca
nhạc, điện ảnh, hay bóng đá,... lại có thu nhập rất cao so với thu nhập bình
quân chung, và thường không phản ánh đúng đóng góp của họ cho xã hội
hay công sức họ bỏ ra, thậm trí những "diễn viên phim sex" (hay gái mại
dâm) lại có thể thu nhập cao hơn nhiều so với các nhà khoa học lao động trí
óc và có thể đóng góp nhiều cho xã hội. Nó phản ánh một thu nhập dựas
theo các nguyên tắc của thị trường mà không một chủ thể kể cả nhà nước
Page 11


có thể can thiệp, dựa trên quy luật cung - cầu đáp ứng nhu cầu xã hội một
cách tự nhiên, quy luật đào thải qua cạnh tranh lao động và sức ép mà
những người được hưởng thu nhập cao phải chịu tác động và vượt qua,...
và đôi khi là sự bất công thường thấy mà gần như trái các nguyên tắc đạo lý
thuần túy vốn nhằm hướng bảo toàn lợi ích chung. Tuy nhiên văn hóa luôn
luôn không chỉ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, và có thể tác động
ngược trở lại với chủ nghĩa tư bản theo cả hai chiều hướng hoặc tốt lên
hoặc xấu đi.
• Hình thái của chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản phát triển trong lòng chủ nghĩa phong kiến tại châu
Âu đến nay đã có sự đa dạng về các hình thức quản lý và sở hữu, nhưng về
cơ bản vẫn trên nền tảng chế độ tư hữu và lao động làm thuê. Các hình thái:
chủ nghĩa tư bản độc quyền, rồi "chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước",
chủ nghĩa tư bản nhà nước.v.v cùng với nhiều hình thái khác phát sinh sau
này phản ánh sự thích ứng chủ nghĩa tư bản trong xã hội hiện đại. Trong
khi đó sự xuất hiện của các hình thức "sở hữu Nhà nước" hay "sở hữu toàn
dân" thông qua quốc hữu hóa thường được xem như là một biểu hiện của

"chủ nghĩa xã hội" - theo lý thuyết của những người xét lại chủ nghĩa Marx

Page 12


Chương 2: Vai trò đối với sự phất triển nền sản xuất xã hội và
xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại
2.1. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
2.1.1. Lịch sử hình thành chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản bắt ngưồn từ trong lòng xã hội phong kiến châu
Âu, từ thế kỷ XIII, tuy nhiên các mầm mống của nó đã có từ thời Hy Lạp La Mã cổ đại. Sư khôi phục lại văn hóa cổ thời Phục Hưng, sự chật hẹp của
nền sản xuất phong kiến không kích thích tự do làm giàu, các phát minh kỹ
nghệ và phát kiến địa lý tạo đà cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Sự xuất
hiện của đạo Tin Lành cởi mở và thoát ly lý thuyết khổ hạnh của Thiên
chúa giáo, và sự ủng hộ của giai cấp phong kiến để họ có tiền chi trả cho
các hoạt động của Nhà nước và hưởng thụ cũng thúc đẩy cho chủ nghĩa tư
bản phát triển.
Tuy nhiên thời gian đầu, chủ nghĩa tư bản phải dựa vào giai cấp
phong kiến để tồn tại, nên chịu sự kiểm soát chặt của Nhà nước. Giai đoạn
chủ nghĩa tư bản tự do (hay rộng hơn là chủ nghĩa tự do kinh tế) gắn với sự
ra đời của các nhà nước dân chủ (hay dân chủ tư sản) và sự phát triển của
chủ nghĩa tự do, bao gồm tự do kinh tế. Chủ nghĩa tư bản thời kỳ này phát
triển mạnh nhất, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật và tăng năng suất
lao động, đã biến nhiều quốc gia trở thành các cường quốc kinh tế, tuy
nhiên gây ra sự phân hóa xã hội sâu sắc, kể cả bóc lột nhân công thường
thấy. Các tư tưởng cải tạo chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa xã hội phát
triển.
Từ cuối thế kỷ XIX trở đi, nhà nước từ chỗ hầu như không can thiệp
kinh tế, thì lại can thiệp mạnh mẽ vào cơ chế thị trường, điều chỉnh thu
Page 13



nhập, sau đó là một quá trình quốc hữu hóa lớn diễn ra ở một số nước. Sự
hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền do sự sáp nhập các doanh nghiệp
tạo nên các tập đoàn kinh tế gần như không chịu sự cạnh tranh mang tính tự
nhiên cũng là một đặc điểm trong giai đoạn thứ ba này.
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, sự can thiệp vào nhà nước vào
kinh tế và quá trình quốc hữu hóa lại đẩy lên một tầm cao hơn, cho dù vẫn
tồn tại kinh tế thị trường và đa thành phần kinh tế ở "các nước tư bản" phát
triển. Từ thập niên 1980 lại một xu hướng khác, là quá trình tư hữu hóa và
cắt giảm an sinh xã hội do sự khủng hoảng nền kinh tế. Tuy nhiên có một
trào lưu khác như tại Mỹ la tinh, quá trình quốc hữu hóa lại diễn ra tại một
số nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây đã ra tăng sự can thiệp của
Nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế ở một số nước, nhưng cơ bản không có
một quá trình quốc hữu hóa ồ ạt nào diễn ra.
Nhìn chung bức tranh của chủ nghĩa tư bản hiện đại có thể là một
quá trình đan xen nhau giữa tư hữu hóa ("tư bản hóa") hay quốc hữu hóa
("xã hội hóa", "Nhà nước hóa") ở các quốc gia, mà nguyên nhân từ sự lên
cầm quyền của các lực lượng cánh tả, bao gồm cả những người tự do cánh
tả, hay các lực lượng cánh hữu hay cánh tả thiên hữu nhưng các đặc điểm
cơ bản của nó là tự do kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường ("mạnh
được yếu thua") - quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản từ khởi nguồn
nguyên thủy thì luôn tồn tại trừ một số quốc gia trong của Nhà nước, hay
hình thức hợp tác cổ phần làm cho sự phân biệt chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội không rạch ròi.
2.1.2. Vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội.
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu
quả nghiêm trọng đã gây ra đối với loài người thì nó có vai trò lịch sử vô
Page 14



cùng to lớn. Vai trò đó được biểu hiện : thực hiện xã hội hóa sản xuất ; phát
triển lực lượng sản xuất từ sản xuất nhỏ đến sản xuất lớn hiện đại, kết quả
của nền sản xuất đó có năng suất cao, góp phần to lớn vào sự thay đổi bộ
mặt của cộng đồng quốc tế…
- Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng loài người khỏi
đêm trường trung cổ của xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế
tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn, hiện đại. Dưới tác
động của qui luật giá trị thặng dư và các kinh tế của sản xuất hàng hóa,
chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản
phẩm vật chất khổng lồ. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản năm 1848.
Phát triển lực lượng sản xuất: Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã
làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và
công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí và ngày
nay các nước tư bản chủ nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong
việc chuyển nền sản xuất của nhân loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai
đoạn tự động hóa, tin học hóa và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát
triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng
cao hiệu quả, khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất: Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền
sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch
sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu.
Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung với
qui mô hợp lý, chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối
quan hệ kinh tế giữa các đơn vị , các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt
chẽ...làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết lại và phụ thuộc
lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.

Page 15


- Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần
đầu tiên biết tổ chức lao động theo kiểu công xưởng và do đó đã xây dựng
được tác phong công nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp, thói
quen của người lao động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến.
- Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân
chủ tư sản, nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn hảo song so với thể chế
chính trị trong các xã hội phong kiến, nô lệ...vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi
vì nó được xây dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay:
- Với những thành tựu và đóng góp của nó đối với sự phát triển
của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề
cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng
bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông
qua các cuộc cách mạng xã hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ
diễn ra bằng phương pháp nào
- Hòa bình hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào những hoàn
cảnh lịch sử - cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung từng thời
điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có những hạn
chế về mặt lịch sử. Những hạn chế này được Mác và Lênin đề cập ngay từ
trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản :
- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân
tích chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của
chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những
biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ
và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá
Page 16



qua đó mà thực hiện bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu. Về quá
trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng, đó là lịch sử
đầy máu và bùn nhơ, không giống như một bản tình ca, nó được sử sách
ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ
bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, Mặc dù so với các
hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa
cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích của Mác và Lênin thì
chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệ bóc lột còn
tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.
- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường,
thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả
nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị
phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm
Ngày nay, lại cũng chính chủ nghĩa tư bản là thủ phạm châm ngòi nổ cho
những xung đột vũ trang giữa các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài thì tưởng
chừng những xung đột đó chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những lý do sắc tộc,
tôn giáo hay nhân quyền. Vì vậy, chi phí cho quân sự của chủ nghĩa tư bản
hiện nay rất lớn, tính ra cứ 2 phút đồng hồ lại có hai triệu đôla bị vứt đi vì
chi phí cho quân sự.
-Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố
ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới ( thế kỷ 18
chênh lệch là 2,5 lần, hiện nay là 250 lần )
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái. Điều
này cũng đã được ngân hàng thế giới khẳng định: ở Châu Phi, Mỹ La
tinh,...hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy
tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái: ở một vài nước Mỹ La
Page 17



tinh, GDP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Ở
nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm.một thế giới mà
trong đó từ 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ La tinh mức sống
không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục
tăng lên, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng
cường vơ vét tài nguyên, bóc lột công nhân các nước nghèo và tìm cách
khống chế họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư
bản, viện trợ, cho vay...kết quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt
về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở
Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Ở Braxin người ta tính ra riêng số lãi mà
Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay
bằng xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân
Braxin thiếu ăn.
2.2. Xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
2.2.1. Thành tựu của chủ nghĩa tư bản.
Trong suốt quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản,những thành tựu
mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được đối với phát triển sản suất đó là:
• Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, hiện đại
Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và các quy luật kinh tế
của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động,
tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơn nhiều xã hội trước cộng lại. Sù ra
đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người khỏi xã hội phong kiến,
đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tù tóc, tù cấp, chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn,
hiện đại.
Page 18



Sự phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất nhờ cách mạng
khoa học – công nghệ đã tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho nền kinh tế tri
thức ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Điều này được thể hiện
qua sù phát triển nhanh chóng số lượng và chất lượng các yếu tè vật chất
của sản xuất:
- Thứ nhất, những biểu hiện chủ yếu được thể hiện đó là sù thay thế
từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống do cuộc cách mạng công
nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên cơ sở những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, mà tập trung ở các
lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học... thể hiện trong
những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền... tác động nhanh, hiệu quả cao,
tiêu tèn Ýt năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức đa dạng, phong
phó cả vềđối tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ, thiết bị tự
động hóa ngày càng phát triển, thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí
hoá, điện khí hoá, làm cho máy móc tõ ba bộ phận phát triển thành bèn bộ
phận, tức là xuất hiện bộ não của máy. Hiện nay đã có ba loại thiết bị biểu
hiện chức năng tự động hóa. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động,
+ Máy công cụ điều khiển bằng sè,
+ Người máy
Hiện nay thế giới đã có khoảng 1. 500. 000 người máy công nghiệp
và được tập trung ở các nước tư bản phát triển. Tỷ lệ người máy trên một
vạn dân của của Thuỵ Điển là 8, Nhật Bản 6, Mỹ 2, Cộng hoà liên bang
Đức 1,5. Đặc biệt người máy (Robot) đã từng bước thay thế phần công việc
nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại… cho người lao động,
đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do người máy điều
khiển những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã
bước đầu được thử nghiệm để người máy thay thế …Tỷ lệ này có sự khác
Page 19



nhau ở các nước. Chẳng hạn ở Pháp số công nhân làm việc trên máy hoàn
toàn tự động chiếm tỷ trọng 15,7% tổng số công nhân trong các ngành công
nghiệp.
Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước hết ở công cụ lao động đã
tác động dây chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do vậy,
phương thức sản suất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ thuật cơ
khí sang bán tự động và tự động… Từ đó các yếu tố cơ bản của nền kinh tế
tri thức đã xuất hiện.
- Thứ hai, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những lĩnh vực mũi
nhọn được tập trung là “chùm công nghệ cao” nh kỹ thuật điện tử, công
nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải dương... đã
tạo ra những thành tự mới và được chủ nghĩa tư bản áp dụng một cách có
hiệu quả để tạo ra cái “cốt vật chất” mới, thay cho công nghiệp cơ khí. Vai
trò khoa học ở đây rất to lớn. Nó thực sự đã phát huy tác dụng khi trở thành
lực lượng sản xuất nh C. Mác đã khẳng định, và ngày nay, vai trò đó đã
được đánh giá cao. Chẳng hạn, theo đánh giá gần đây, người ta cho rằng,
những đổi mới công nghệ đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh tế của
Nhật Bản, 73% kinh tế Anh, 76% kinh tế Pháp và cộng hoà liên bang Đức
(theo Bé khoa học – Công nghệ và Môi trường, Trung tâm thông tin tư liệu
khoa học, công nghệ quốc gia. Tổng quan: Đánh giá tình hình phát triển
kinh tế thế giới).
- Thứ ba, cơ sở vật chất – kỹ thuật mới về chất đã có tác động với
những mức độ và phương hướng khác nhau đến nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa và thế giới. Trước hết, với tư liệu sản cuất hiện đại, phương thức sản
xuất sản phẩm tiên tiến, chủ nghĩa tư bản đã đạt được năng suất lao động
cao, tăng trưởng kinh tế và tạo ra mét khối lượng của cải khổng lồ có chất
lượng cao

Page 20


Nếu nh tõ năm 1700- 1970, sản lượng công nghiệp thế giới tăng lên
1. 730 lần thì chỉ riêng tõ 1970 đến những năm 1980 sản lượng công
nghiệp đã tăng gấp đôi ( hay 3. 046 lần so với năm 1700). Chỉ riêng trong
hai thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX, loài người đã sản xuất được một khối
lượng của cải vật chất trong công nghiệp bằng gần 270 năm trước đó.
Chính khoa học – công nghệ đã góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng
kinh tế và trong đó có 3/ 5 là do tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản nói riêng và nền
kinh tế thế giới nói chung không tránh khỏi những chấn động, khủng
hoảng. Và chính điều đó, đặt ra vấn đề phải tiếp tục đổi mới cải cách kinh
tế, thayđổi quan hệ kinh tế quốc tế để khắc phục những khó khăn thách
thức, duy trì sự tồn tại và phát triển. Quá trình cải cách, đổi mới đã diễn ra
trong các nước tư bản chủ nghĩa và các nước khác trên thế giới với những
mục tiêu cụ thể, phương hướng chiến lược, phương thức khác nhau và cũng
đem lại những kết quả không giống nhau. Song, nhìn chung công cuộc đổi
mới và cải cách này đều hướng vào việc phát triển kinh tế thị trường cả về
bề rộng và bề sâu, đồng thời khắc phục những khuyết tật vốn có và mới nảy
sinh trong quá trình vận động, tiếp tục hoàn thiện nó để đạt tối đa tiêu chí
của xã hội hiện đại.


Phát triển lực lượng sản xuất
Qua quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng

sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng
cao: tõ kỹ thuật thủ công lên kỹ thuật cơ khí, rồi tự động hoá, tin học hoá
và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là

quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh
phục thiên nhiên của con người.
- Về chất lượng, số lượng và cơ cấu trong đội ngũ người lao động:
Page 21


Đội ngũ người lao động làm thuê - lực lượng sản xuất cơ bản cũng
có sự biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ, cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá
trị hàng hoá sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách
mạng của tư liệu sản xuất. Đây là một đòi hỏi khách quan do chính quá
trình sản xuất đặt ra. Cho đến nay, đội ngũ lao động của các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển đã đạt trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ cao.
- Về cơ cấu lao động:
Lao động dịch vụ được tập trung cao 70 – 75%, đồng thời đội ngũ
chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu được tập trung ở khu vực này. Chẳng
hạn, ở Mỹ người làm nghề văn phòng chiếm 20% tổng số lao động. Đồng
thời xuất hiện lực lượng công nhân cổ vàng (gold colour worker). Đó là các
cán bộ chuyên môn có trình độ đại học, trên đại học. Lực lượng lao động
này càng ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển.
• Thực hiện xã hội hoá sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh,
và cùng với nó là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về chiều rộng và chiều
sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập
trung với quy mô hợp lý, chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao động
sâu sắc, mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực
ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên
kết với nhau và phô thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, thành một quá
trình sản xuất xã hội.

Page 22



2.2.2. Hạn chế của chủ nghĩa tư bản
Bên cạnh đóng góp tích cực nói trên, chủ nghĩa tư bản cũng có
những hạn chế về mặt lịch sử. Những hạn chế này được Mác và Lênin đề
cập ngay từ trong lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.
- Trước hết, về lịch sử ra đời của chủ nghĩa tư bản: như Mác đã phân
tích chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy nguyên thủy của
chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích lũy tiền tệ nhờ vào những
biện pháp ăn cướp, tước đoạt đối với những người sản xuất hàng hóa nhỏ
và nông dân tự do; nhờ vào hoạt động buôn bán, trao đổi không ngang giá
qua đó mà thực hiện bóc lột, nô dịch đối với những nước lạc hậu. Về quá
trình tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản, Mác cho rằng, đó là lịch sử
đầy máu và bùn nhơ, không giống như một bản tình ca, nó được sử sách
ghi chép lại bằng những trang đẫm máu và lửa không bao giờ phai.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là quan hệ
bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, Mặc dù so với các
hình thức bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử, bóc lột tư bản chủ nghĩa
cũng đã là một sự tiến bộ, song theo sự phân tích của Mác và Lênin thì
chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan hệ bóc lột còn
tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là điều không tránh khỏi.
- Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường,
thuộc địa và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả
nặng nề: hàng triệu người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị
phá hủy, tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm
Ngày nay, lại cũng chính chủ nghĩa tư bản là thủ phạm châm ngòi nổ
cho những xung đột vũ trang giữa các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài thì
tưởng chừng những xung đột đó chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những lý do
sắc tộc, tôn giáo hay nhân quyền. Vì vậy, chi phí cho quân sự của chủ nghĩa
Page 23



tư bản hiện nay rất lớn, tính ra cứ 2 phút đồng hồ lại có hai triệu đôla bị vứt
đi vì chi phí cho quân sự.
- Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra
hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới ( thế kỷ
18 chênh lệch là 2,5 lần, hiện nay là 250 lần )
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái.
Điều này cũng đã được ngân hàng thế giới khẳng định: ở Châu Phi, Mỹ La
tinh,...hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy
tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái: ở một vài nước Mỹ La
tinh, GDP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Ở
nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp hơn cách đây 20 năm.một thế giới mà
trong đó từ 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ La tinh mức sống
không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục
tăng lên, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng
cường vơ vét tài nguyên, bóc lột công nhân các nước nghèo và tìm cách
khống chế họ trong vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư
bản, viện trợ, cho vay...kết quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt
về tài nguyên mà còn mắc nợ không trả được, điển hình là các quốc gia ở
Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Ở Braxin người ta tính ra riêng số lãi mà
Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối thiểu hay
bằng xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân
Braxin thiếu ăn
2.2.3. Xu thế vận động của chủ nghia tư bản.
Từ những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa tư bản nêu trên xu thế
vận động của chủ nghĩa tư bản quyết định sự phát triển hay diệt vong của
chủ nghĩa tư bản nói riêng cũng như nhân loại nói chung.
Page 24



Khi phân tích sự vận động của chủ nghĩa tư bản, Lê nin đã chỉ ra
rằng chủ nghĩa tư bản đến giai đoạn độc quyền, nền kinh tế của nó vận
động theo hai xu hướng : sự phát triển nhanh chóng song song với trì trệ
thối nát. Ngày nay, hai xu hướng vẫn tác động trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Xu thế phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản biểu hiện rõ rệt
trong giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay, đặc biệt là vào
những năm1950 và 1960 của thế kỷ XX vơi tốc độ tang trưởng cao của nền
kinh tế, năng suất , hiệu quả, chất lượng tang rõ rệt.
Sự phát triển đó chính là tác động của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước,
sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia và sự kihcs thích do chạy
đua giữa hai hệ thống kinh tế thế giới.
Xu thế trì trệ biểu hiện ở chỗ nền kinh tế chủ nghiã tư bản tang
trưởng chậm so với tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ cho phép ( ví
dụ: hiệu quả sự dụng thiết bị máy móc chỉ đạt mức 60-70% ) thất nghiệp
cao gây nên sự lãng phí về nguồn lực, quân sự hóa nền kinh tế.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của
lực lượng sản xuất ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật
chất ngày càng lớn lên của nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có
điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối, và ở một
chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm giảm bớt tính
gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không
vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu
thuẫn vẫn không bị thủ tiêu.
Theo sự phân tích của Mác và Lênin, đến một chừng mực nhất định,
quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một
Page 25



×