Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.81 KB, 30 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Suốt cuộc đời, Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, huấn luyện đội
ngũ cán bộ, cán bộ lãnh đạo quản lý cho Đảng đủ Đức và Tài để phục vụ sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Ở nước ta, cho đến
nay Hồ Chí Minh là người duy nhất đồng thời giữ hai cương vị cao nhất trong
bộ máy Đảng, Nhà nước ta là Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước một thời gian
lâu dài. Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, làm Chủ tịch Đảng 18
năm; sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm Chủ tịch nước đầu tiên
trong 24 năm, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Người để lại một di sản tư tưởng vô giá và một phong cách làm việc mẫu mực
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta học tập và làm theo.
Trong tiến trình lịch sử đấu tranh và xây dựng đất nước, đặc biệt là thời
kỳ hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay. Công tác cán bộ, cán bộ
lãnh đạo quản lý lại là nhu cầu đặt ra bức thiết nhất hơn bao giờ hết. Bởi lẽ,
phải có con người sáng suốt, nhanh nhạy có phẩm chất đạo đức… mới đáp
ứng được nhu cầu phát triển của thời đại, của xã hội. Vì vậy vấn đề đào tạo,
sử dụng, rèn luyện bồi dưỡng cán bộ, cán bộ lãnh đạo quản lý là vấn đề luôn
luôn cần được quan tâm, là yếu tố xuyên suốt của quá trình xây dựng và đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
cán bộ lãnh đạo, quản lý” làm đề tài tiểu luận môn Chính trị học nâng cao.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong quan điểm, quan niệm của
Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Với phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu
các vấn đề trong bài tiểu luận mang tính khái quát. Đồng thời quán triệt



-2-

phương pháp luận của Chủ nghĩa Mac-Lênin và phương pháp luận Hồ Chí
Minh.


-3-

NỘI DUNG
Phần I
GIỚI THIỆU VỀ HỒ CHÍ MINH VÀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh trưởng trong một gia đình nhà nho có
truyền thông yêu nước. Người sinh ra trên quê hương Nam Đàn, Nghệ An nơi
có truyền thống hiếu học, yêu nước. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp
được hình thành hàng nghìn năm trên quê hương Nghệ An đã bồi dưỡng cho
tâm hồn của Người. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến cảnh
nhân dân lầm than bị bọn thực dân đàn áp cướng bức, các phong trào yêu
nước chống lại sự áp bức đó thì đều bị nhấn chìm. Bằng lòng yêu nước lớn
lao, bằng tinh hoa, truyền thống của quê hương, của dân tộc Người quyết tâm
ra đi tìm đường cứu nước.
Hành trang mang theo của Người lúc đó là chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần dân tộc và đặc biệt là khát vọng giành độc lập tự do cho Tổ quốc, tự do
cho đồng bào. Mặc dù cuộc sống kham khổ, bôn ba nơi đất khách quê người,
nhưng người đã sống, lao động và học tập nghiên cứu lý luận và nhất là qua
thực tiến đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước,nhiều thuộc địa mà
Người đã đi qua, Người đã nhìn thấy vấn đề giải phóng dân tộc, và vấn đề giải
phóng dân tộc không chỉ bức xúc ở Việt Nam mà của tất cả các dân tộc thuộc
địa trên thế giới…Người đã tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cảu chủ

nghĩa Mac – Lênin, bằng thiên tài và trí tuệ, Người đã nhận thức đúng xu thế
phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới mở ra từ Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người đã khẳng định :“ Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
Tìm ra con đường cứu nước, Người đã khai thông bế tắc cho cách
mạng Việt Nam. Đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mac – Lênin với phong trào công


-4-

nhân, phong trào yêu nước..đặc biệt qua thực tiễn đấu tranh, Người còn vận
dụng Chủ nghĩa Mac – Lê nin một cách sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cách mạng nước ta và đã đưa đến sự thành công của cách mạng nước ta,
đem lại độc lập tự do cho tổ quốc, cho đồng bào…
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, người đã hết lòng
vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã để lại di sản tinh thần vô
cùng quý báu cho dân tộc ta. Di sản đó không chỉ có nghĩa quyết định thắng
lợi cho cách mạng Việt Nam khi người mất đi mà còn có luôn luôn có giá trị
lâu dài là kim chỉ nam cho mọi hành động trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng ta, tổng hợp những tư tưởng tinh thần đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Báo cáo Chính trị của BCH TƯ Đảng tại
Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ IX có nêu: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac –
Lên nin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại;về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc
với sức mạnh quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của

dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân; về phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm chính,
chí , công , vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành cảu nhân dân…Tư tưởng Hồ Chí Minh
soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.


-5-

Phần II:
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


-6-

VỀ CÁN BỘ, CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao công tác cán bộ vì Người cho
rằng ''cán bộ là gốc của công việc'', do đó Người yêu cầu ''phải biết rõ cán bộ”
và ''hiểu biết cán bộ'' để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp.
Đánh giá đúng cán bộ tức là xác định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ nào,
yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng
ra sao để từ đó ''tìm thấy những nhân tài mới... những người hủ hoá cũng lòi
ra''
Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của
hoàn cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán
bộ trong mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát triển và không định kiến
''một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có

cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không bị sai lầm? Quá
khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau...
lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì đâm ra
hoang mang'' hoặc ''nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một
lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ''. Theo Người,
phải lấy tiêu chuẩn để đánh giá ''cán bộ nào, phong trào ấy''. Một người cán
bộ tốt phải là người có đủ đức và tài, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đức là đạo đức
cách mạng, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tài là người có khả năng
hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với
nhau trong đó ''Đức là gốc''.
Một điều quan trọng nữa là người đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng,
đòi hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Do đó, bản thân
người đánh giá cũng phải ''tự sửa mình'' để "nếu không biết sự phải trái của
mình thì không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu''. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải
dựa vào dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất.
Đánh giá đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch huấn luyện cán bộ vì ''cán bộ là


-7-

tiền vốn của Đảng'', ''công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém'', “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc, càng
mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định
đúng yêu cầu của công việc, ''công việc yêu cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng
phải tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người là cả một khoa học và nghệ thuật,
do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong
trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ. Người chỉ ra những khuyết
điểm khi sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc phải đó là ''ba ham''. ''Ham

dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người
ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính
trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người
tính tình không hợp với mình''.
Người căn dặn 5 vấn đề mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi
dùng người:
''Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí
công -vô tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi''; ''Phải có tinh
thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa”; ''Phải có tính
chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ
tiến bộ''; ''Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ
tốt''; ''Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi
mình''.
Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và
thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè,
chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn
cựa và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ
phải thường xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho
cán bộ và bố trí lại cán bộ khi cần thiết.


-8-

Thực tế, trong cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho
Đảng ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng
cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức
phong phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều phương diện. Song, cần khẳng
định: Đánh giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một vấn đề khoa học và nghệ
thuật, và phải luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán

bộ mà ra''.
Trong tư tưởng xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để xây dựng Đảng ta
thành một Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí
tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của dân tộc, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đày tớ trung thành của nhân dân .... Chủ tịch Hồ Chí Minh có đưa ra
rất nhiều nhiệm vụ, trong đó chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác
cán bộ Người cho là “việc gốc” của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, ở đâu và lúc nào, Hồ Chí
Minh cũng luôn quan tâm đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Theo Hồ Chí
Minh, cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
“Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng”(36). Để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, trình
độ và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu ra
nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực
Tăng cường huấn luyện đào tạo, bôi dưỡng cán bộ. Hồ Chí Minh
cho rằng, “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao
trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán
bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”. Người đã nhiều lần nhấn mạnh,
huấn luyện cán bộ là việc rất quan trọng, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu” (Hồ Chí Minh toàn


-9-

tập, NXBCTQG, H.2002, tập 5, tr.269). Tuy nhiên việc đó lại không phải là
một việc đơn giản, phải thiết thực, chu đáo, muốn làm được thì phải hiểu cho
thấu. Nội dung huấn luyện phải thiết thực, bao gồm những nội dung cơ bản là:
Huấn luyện nghề nghiệp, “phải thực hành khẩu hiệu, làm việc gì, học việc

ấy”; Huấn luyện chính trị, cán bộ nào cũng phải học, nhưng tuỳ theo chuyên
môn của cán bộ mà định nhiều hay ít; Huấn luyện văn hoá, trước hết phải dạy
cho cán bộ những thường thức về lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, xã hội;
Huấn luyện lý luận, có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong
phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng. Hồ Chí Minh cũng nêu rõ
cách huấn luyện cán bộ phải thiết thực, chu đáo, không tham nhiều, “quý hồ
tinh, bất quý hồ đa”; huấn luyện từ dưới lên trên; phải gắn liền lý luận với
công tác thực tế; huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu; huấn luyện phải chú
trọng việc cải tạo tư tưởng, v.v... Huấn luyện cán bộ để làm sao “đảng viên và
cán bộ phải: học hiểu lý luận, chính sách, tình hình trong nước và trên
thế giới để giáo dục cho quần chúng. Phải học hiểu nghề nghiệp chuyên
môn mà Đảng và Chính phủ giao cho mình phụ trách. Phải có tinh thần
hy sinh cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm để vượt mọi khó khăn”
(Sđd, tập 7, tr.233)
Hơn nữa, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ cũng chưa thể đem lại hiệu
quả cao nếu không biết dùng cán bộ. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí
Minh đã nêu những quan điểm rất sâu sắc về cách dùng cán bộ. Người cho
rằng: Phải biết khéo dùng cán bộ, dùng cán bộ cũng như “dụng mộc”, tuỳ tài,
tuỳ việc mà dùng người, tránh ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu
bạn, những kẻ khéo nịnh hót mình, chán ghét những người chính trực. Theo
Hồ Chí Minh, “cái tài trong dùng cán bộ là phải khiến cho họ yên tâm, vui
thú, hăng say làm việc. Muốn như thế, phải thực hành những điểm quan
trọng là: phải khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến; có gan
phụ trách, có gan làm việc; phải tin cán bộ, không nên tự tôn, tự đại;


- 10 -

phải biết phân phối cán bộ cho đúng, phải dùng người đúng chỗ, đúng
việc” (Sđd, tập 5, tr.274-275).

Do đó, phải biết lựa chọn, cất nhắc đúng cán bộ. Hồ Chí Minh cho
rằng “Đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc.
Mà sau khi đã cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự
tin, tự trọng của họ (Sđd, tập 5, Phải khéo dùng cán bộ - Không có ai cái gì
cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa
những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không
biết tùy tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo
đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng
người, thì hai người đều thành công (Hồ Chí Minh toàn tập,
NXBCTQG,H.2002, tập 5, tr.274). Lựa chọn cán bộ, dùng cán bộ cho đúng đó
mới là “tinh cán”, hai việc đó phải đi đôi với nhau Để dùng được đúng cán bộ,
thì phải biết rõ cán bộ. Người cho rằng, nếu Đảng “chưa thực hành cách
thường xem xét cán bộ, đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết:
mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một
mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra”. Việc dùng nhân tài, ta không
nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe. Tài to ta dùng làm việc to, tài
nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết
dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ. (Sđd), tập 4, tr.39.
Theo Hồ Chí Minh, trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận xét rõ ràng.
Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ.
Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem
xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào.
Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không. Phải
biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ
xem công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ
trước đến nay. Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng


- 11 -


mực. “Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi
cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ. Khi họ sai
lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị
nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Đối với cán bộ, chẳng
những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc. Mà sau khi đã cất nhắc
phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của
họ”(Sđd, tập 5, tr.282). Để có những công bộc của dân thực thụ, Hồ Chí Minh
bắt đầu bằng việc xây dựng tiêu chuẩn đức và tài cho đội ngũ cán bộ của
Đảng, trong đó Người xem đức là gốc, là cái căn bản của người cán bộ cách
mạng, “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”]. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân,
sống nhân ái, có nghĩa, có tình, là thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, là ý thức trách nhiệm trong công việc, tự phê bình và phê bình cao và
có tinh thần quốc tế chân chính. Khi đức là gốc, người cán bộ cần có tài, bởi
không có tài làm việc gì cũng khó. Tài thể hiện ở trình độ chuyên môn, năng
lực quản lý, phong cách làm việc khoa học, đúng kỷ luật, không quan liêu, có
óc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Không chỉ đề ra tiêu chuẩn và yêu cầu cán bộ rèn luyện theo tiêu chuẩn
đó, Hồ Chí Minh còn đề cao trách nhiệm của Đảng đối với việc xây dựng đội
ngũ cán bộ đạt chuẩn để đảm đương nhiệm vụ công bộc của dân. Người chỉ rõ
trong công tác cán bộ, Đảng phải lưu ý 5 việc: “Hiểu biết cán bộ, khéo dùng
cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình cán bộ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng bản chất con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội, nên đánh giá cán bộ phải “căn cứ theo phẩm chất xã hội
của họ, chứ không phải căn cứ theo phẩm chất tư nhân", đồng thời phải đánh
giá đúng thực chất. Muốn đánh giá đúng, theo Hồ Chí Minh, không được đối
xử theo sự yêu ghét, đem khuôn chật hẹp lắp vào cho tất cả mọi người; nhận
xét cán bộ không chỉ xét mặt ngoài, xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ toàn



- 12 -

bộ công việc. Đánh giá đúng là cơ sở cho tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán
bộ... được chính xác.
Hồ Chí Minh lưu ý việc tìm nguồn cán bộ là trách nhiệm của lãnh
đạo. Phải lăn lộn với phong trào để lựa chọn cán bộ, chú ý tìm nguồn trong
trường học, đội ngũ đảng viên. Chú ý nguồn cán bộ xuất thân từ công nhân,
nông dân, đồng thời không được quên trí thức là nhân tài của đất nước. Chính
Hồ Chí Minh đã trực tiếp mời những nhân sĩ trí thức ra giữ những chức vụ
trọng yếu trong Chính phủ sau Cách mạng Tháng Tám như cụ Huỳnh Thúc
Kháng (Bộ trưởng Nội vụ), cụ Nguyễn Sơn Hà (Bộ trưởng Kinh tế)... Người
còn kêu gọi được những trí thức Việt kiều về tham gia kháng chiến như Đặng
Văn Ngữ, Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo... Đó là những người luôn trung
thành, hăng hái, gắn bó với dân, có khả năng giải quyết vấn đề trong khó
khăn, “khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo” và
luôn giữ đúng kỷ luật]..
Muốn dùng cán bộ lâu bền phải biết yêu thương, đoàn kết cán bộ.
Hồ Chí Minh chỉ rõ yêu thương cán bộ không phải là vỗ về, nuông chiều mà
giúp đỡ họ tiến bộ, giúp giải quyết việc gia đình, luôn chú ý đến công tác, vun
trồng ưu điểm để họ thêm hăng hái, gắng sức mà phục vụ nhân dân. Yêu
quý cán bộ phải chăm nom đến vấn đề đoàn kết trong cán bộ, “phải đoàn kết
cán bộ trong Đảng và cán bộ ngoài Đảng”, “giữ gìn sự đoàn kết giữa cán bộ
cũ và cán bộ mới, giữa cán bộ xuất thân từ công nông và cán bộ xuất thân từ
trí thức, tiểu tư sản, giữa cán bộ người kinh và cán bộ các dân tộc ít người,
giữa cán bộ người ở địa phương và cán bộ ở địa phương khác đến”.
Để bảo vệ cán bộ phải phê bình cán bộ cho đúng, xử phạt cho
nghiêm. Muốn phê bình đúng, trước hết dùng thái độ thân thiết, triệt để, thật
thà, không mỉa mai, đâm thọc; giải thích rõ ràng để người mắc khuyết điểm tự
tìm ra nguyên nhân, thấy được hậu quả và cách sửa chữa; phê bình việc chứ

không phê bình người; quán triệt mục đích phê bình là “cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn. Cốt đoàn


- 13 -

kết và thống nhất nội bộ”. Đồng thời với phê bình cán bộ còn phải xử
phạt cán bộ vi phạm kỷ luật cho nghiêm để không mở đường cho kẻ phá hoại.
Hồ Chủ tịch đã từng tận tay ký bản án tử hình đối với trường hợp cán bộ cao
cấp của Đảng tham ô, hủ hoá, gây tổn hại nghiêm trọng cho uy tín của Đảng.
Người khẳng định phê bình đúng, kỷ luật nghiêm không làm giảm thể diện,
uy tín của cán bộ, của Đảng, mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết
thực hơn, uy tín và thể diện càng tăng thêm.
Phong cách làm việc là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng,
là sự thể hiện bản chất và tính cách, của con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách làm việc thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách vĩ đại của Người,
phong cách làm việc cần thiết của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh
hoạt, mềm dẻo. Đó là yêu cầu đầu tiên trong phong cách làm việc của người
lãnh đạo, quản lý là phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao
với tính năng động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới. "Trung với Đảng",
"Trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất cơ bản xuyên suốt mọi hoạt
động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ điều
chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải:
“Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện
tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết
sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương
mẫu trong mọi công việc”.
Trong mọi công tác, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản lý

có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, không thay
đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc. Những vấn đề có tính Cương
lĩnh, quan điểm cơ bản của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà
nước là bất biến, phải giữ vững như sắt đá. Để thực thực hiện những điều bất


- 14 -

biến đó, các hình thức, phương pháp, biện pháp, bước đi phải hết sức mềm
dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn
những người lãnh đạo quản lý phải có bản lĩnh Dĩ bất biến ứng vạn biến.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh bất biến của
Hồ Chí Minh, của Đảng ta và dân tộc ta. Con đường đi đến mục tiêu đó là con
đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi trí tuệ, sự hy sinh,
phấn đấu của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách
mạng phải đối phó với muôn vàn sự biến đổi khó lường.Người cách mạng,
các nhà lãnh đạo, quản lý phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén để linh hoạt
biến đổi sách lược, có những hình thức, biện pháp đấu tranh biến hóa thích
hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, đối tượng, con người cụ thể trong mỗi
bước đi lên của cách mạng đặt ra.
Kết hợp tính cách mạng với tính khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định rõ: “Muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Vì có
nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới say mê, tận tuỵ với
công việc để tìm tòi, sáng tạo, đề ra những phương án tối ưu nhằm thực thi
nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Song, nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh
đạo chỉ đem lại hiệu qủa thiết thực cho cuộc sống của nhân dân khi nó kết hợp
chặt chẽ với tri thức khoa học, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.
Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tính khoa học.
Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có hiệu quả cao

khi họ thực sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo cương vị mình
phụ trách. Có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới làm sai đường
lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại một cách
vô ý thức. “Nhiệt tình cộng với dốt nát bằng đại phá hoại”.
Tính khoa học trong phong cách làm việc phải được đảm bảo bằng tri
thức khoa học, do vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên các cán bộ lãnh đạo,
quản lý: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý
luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết


- 15 -

rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên chúng
ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. “Bất kỳ ở hoàn cảnh
nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc,
cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính trị của mình.”
Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và quyết đoán, là
những người có trọng trách trong một tập thể, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần
rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Thực hành nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một người dù tài giỏi đến
đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp, cũng
như không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội.
Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập
thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một
tập thể, một đơn vị hay địa phương mà riêng một mình cán bộ lãnh đạo, quản
lý không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Lãnh đạo, quản lý không phát
huy trí tuệ tập thể, thì sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên
quyền. Tuy nhiên, có ý thức tập thể cao, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập
thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại không có tính quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp

thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng không thể tiến triển
được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý “Không phải
vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết được, cũng cứ
đưa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu máy móc. Kết
quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ. Những việc bình thường, một người có
thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc
quan trọng mới cần tập thể quyết định”.
Đặc biệt trong những thời điểm then chốt, khi có thời cơ người lãnh
đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết đoán. Như Người khẳng
định:


- 16 -

“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”.
Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là
phải kết hợp chặt chẽ giữa cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết đoán,
dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, trước quốc dân đồng bào, kịp
thời đưa ra những quyết sách đúng. Những hiện tượng coi thường tập thể,
hoặc dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách
nhiệm cá nhân đều làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý
của người cán bộ.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói với làm, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi”.“Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò
trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cần
phải có lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Song, Người cũng

chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn trong công tác. “Thực
tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Lý luận cốt để áp dụng vào thực
tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Thậm
chí, thuộc lý luận mà xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới bệnh giáo điều, sách vở,
làm tổn hại cho phong trào cách mạng.
Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý là phải có năng lực vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử trí
mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn
cảnh thực tiễn ở nước ta.”
Phong cách làm việc quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong


- 17 -

mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đoàn thể, phong cách làm việc tốt
nhất là phải: "Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là
gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó,
nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó
tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm nó thành ý kiến của quần
chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng
thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng
hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu
điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho
quần chúng giữ vững và thực hành.Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng
mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần trước.Đó là cách lãnh đạo cực kỳ
tốt".

Các cán bộ lãnh đạo, quản lý do không biết gom góp ý kiến của quần
chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ thành ra lý thuyết
suông, không hợp với thực tế. Vì vậy, ngay trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, trong cải cách bộ máy Nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải
thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách
chung với sự chỉ đạo riêng. Phải dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại
với quần chúng”. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.
"Cán bộ tỉnh phải đến các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến
tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói,
tay làm, óc nghĩ, để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát rút kinh
nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và hỏi dân''.Đó là phong
cách làm việc không bó mình trong văn phòng, bàn giấy; không tự cho mình
có địa vị cao hơn, không tạo cho mình vẻ quan cách, khác biệt dân. Liên hệ
mật thiết với quần chúng là hoà mình vào cuộc sống của quần chúng, nắm bắt
được nguyện vọng, ý chí của quần chúng để dẫn dắt họ, giúp họ thực hiện
khát vọng. ý chí của mình.


- 18 -

Dân có tin Đảng, Nhà nước hay không? Đảng, Nhà nước có hiểu dân
hay không, có phát huy được sức mạnh của dân hay không phụ thuộc rất
nhiều vào phong cách làm việc và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ
Chí Minh khẳng định: "Lãnh đạo tốt nghĩa là thực hiện đầy đủ những
nghị quyết của Đảng, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của
nhân dân phải đi đúng đường lối quần chúng, phải đi sâu vào cơ sở, hợp
tác xã. Phải tuyên truyền giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức
trách nhiệm tinh thần làm chủ tập thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã,
xây dựng nước nhà". Xa rời quần chúng, người cán bộ lãnh đạo, quản lý sẽ
giống như cá bị tách ra khỏi nước, mất hết khả năng và sức sống.

Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chữ Cần theo cách hiểu truyền
thốnglà siêng năng, chăm chỉ. Song, nếu chỉ hiểu chữ cần như thế. Hơn nữa
“Nếu chỉ 1 ngày cần mà 10 ngày không cần, thì cũng vô ích”, thì dân tộc ta
khó thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Học và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ
Chí Minh, nhân dân ta, mà trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực
hiện chữ Cần với nhiều nghĩa mới, hiện đại do Người mang lại và gương mẫu
thực hiện. Cần không phải là làm xổi. Cần còn có nghĩa là phải cố gắng hết
sức mình trong công tác, học tập trong suốt cả năm, trong cả đời mỗi người;
có chí tiến thủ, không sợ việc gì là khó. "Cần thì việc gì dù khó khăn mấy
cũng làm được". Hơn nữa, " Cần, tức là tăng năng suất trong công tác,
bất kỳ công tác gì". Trong phong cách làm việc truyền thống, người Việt
Nam còn thiếu sức bền, tính tổ chức và kế hoạch. Cho nên, là cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải rèn luyện phong cách làm việc có sức bền, có kế hoạch, biết
phân công, đặc biệt là biết dùng nguời, nhất là người có tài. Đi đôi với Cần
là Kiệm. Hồ Chí Minh cho rằng tiết kiệm không phải là keo kiệt, bủn xỉn, coi
đồng tiền bằng cái trống. Tiết kiệm là biết chi tiêu một cách khoa học, có hiệu
quả nhất. Việc không đáng tiêu, thì một xu cũng không tiêu. Còn khi có việc
đáng làm vì lợi ích cho đồng bào, Tổ quốc thì dù tốn bao công của cũng vui
lòng. "Muốn tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức”. Đi đôi với


- 19 -

thực hành tiết kiệm là chống lãng phí. Người lãnh đạo, quản lý càng phải có
phong cách khiêm tốn, giản dị, chống lãng phí, xa xỉ. Cán bộ lãnh đạo quản lý
phải liêm khiết, không được tham ô của Nhà nước và của nhân dân. Tâm
trạng của quần chúng nhân dân ta hiện nay đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý,
có thể nói có phần nào đó giống như người xưa từng nhận định:“Lại không sợ
ta nghiêm mà sợ ta Liêm; dân không phục ta tài mà phục ta Công; Công thì
sáng, Liêm thì uy ’’.Hồ Chí Minh phân tích: Liêm là trong sạch, không

tham lam. Tất cả mọi công dân đều phải liêm. Song, cán bộ lãnh đạo,
quản lý "Phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân".
Đồng thời, phải tuyên truyền giáo dục cho nhân dân có hiểu biết, không chịu
đút lót, thì dù cán bộ không liêm cũng phải hoá ra liêm. "Quan tham vì dân
dại". Dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp
cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện chữ liêm.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phong cách quang minh chính đại,
thấy việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.Chủ tịch
Hồ Chí Minh phân tích: Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Người cán bộ
lãnh đạo, quản lý đã Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người có
khí tiết cao thượng, xứng đáng là người dẫn dắt, điều khiển hành động của
quần chúng nhân dân. Người liêm chính không sợ hãi trước nhưng uy lực tăm
tối, dám dũng cảm gạt bỏ những việc làm trái với đạo lý, không để cho chúng
làm bận tâm. Học và làm theo khí tiết cần kiêm liêm chính Hồ Chí Minh, một
khi hình thành khí tiết cao thượng, thì bất cứ những thứ danh tiếng, tiền tài,
địa vị, sắc đẹp, lợi lộc không chính đáng nào cũng không thể khiến người lãnh
đạo, quản lý dao động, ngả nghiêng, hoặc thoái hóa biến chất. Cán bộ lãnh
đạo, quản lý có Liêm Chính thì mới có thể chí công vô tư. Ở Hồ Chí Minh,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư không những là phong cách làm việc mà
cũng chính là phẩm chất đạo đức cách mạng, là nhân cách của con người,
nhất là người có trách niệm lãnh đạo, quản lý con người.


- 20 -

Cán bộ phải ra sức học tập văn hoá và chính trị, phải gương mẫu
trong công tác và sản xuất, phải thiết thực quan tâm đến đời sống của
nhân dân (Sđd, tập 8, tr.237).
Mục đích học tập, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc học tập nâng cao
trình độ của cán bộ, đảng viên. Người đã chỉ rõ mục đích của việc học tập và

những biện pháp cơ bản để đạt mục đích đó: “Học để làm việc, làm người,
làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại”. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô
tư”1. Từ nhận thức đúng đắn mục đích của việc học tập mà cán bộ, đảng viên
phấn đấu không ngừng trong học tập rèn luyện để hoàn thành nhiệm vụ được
Đảng và nhân dân giao cho.
Nội dung học tập, Hồ Chí Minh cho rằng học tập của cán bộ, đảng
viên phải xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết thực, không phô trương, hình thức.
Phải học cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản chất vấn đề. Theo
Bác, mỗi người phải biết một nghề, làm việc gì học việc ấy và làm nghề gì
phải thạo nghề ấy. Nếu là cán bộ lãnh đạo, thì lãnh đạo ngành nào phải biết
chuyên môn về ngành ấy. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải nghiên cứu, học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, văn hoá, kỹ thuật,
lao động sản xuất… Những nội dung đó là hết sức cơ bản và gắn bó chặt chẽ
với nhau. Trong đó, Người nhấn mạnh học tập chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm
trang bị cho mỗi người thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa
học để nhận thức và hành động đúng đắn, kiên quyết, sáng tạo và hiệu quả.
Theo Hồ Chí Minh, nội dung học tập phải toàn diện, “ra sức học tập
nâng cao trình độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống
hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân” 2. Người cán bộ cách mạng
phải được đào tạo rèn luyện về phẩm chất và năng lực để hoàn thiện nhân
cách trong tình hình mới. Người xác định nội dung học tập gắn với thực hiện
nhiệm vụ mà mỗi cán bộ, đảng viên đảm nhiệm. Đối với cán bộ quân đội,
Người đặt ra yêu cầu phải tích cực học tập nâng cao trình độ chính trị, quân


- 21 -

sự, lòng trung thành với Đảng với Tổ quốc, nhân dân… Theo Bác, quân đội ta
trước hết phải là đội quân tuyên truyền vận động nhân dân làm cách mạng, do

vậy, mỗi quân nhân phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính
sách của Đảng, vận động nhân dân để nhân dân tin theo Đảng, thực hiện sự
nghiệp cách mạng vẻ vang.
Học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt, Theo Bác, mỗi cán bộ, đảng
viên có vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước, do đó phải không ngừng học
tập để nâng cao trình độ hiểu biết mọi mặt, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải
tiến phương pháp làm việc, nâng cao chất lượng công tác. Theo Người, vấn đề
học tập là “suốt đời” chứ không phải chỉ là lớp học, khoá học hoặc mang tính
“thời vụ”, rồi sau đó lại “đâu vào đấy”. Người chống thói qua loa đại khái,
lười học, lười suy nghĩ dẫn đến tình trạng khi giải quyết công việc thì “được
chăng hay chớ”, “gặp đâu làm đấy”, chất lượng công việc thấp, không đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Người chỉ rõ: “Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc
hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm
rất to. Khác nào người thày thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong
mình thì quên chữa”3. Do đó, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải “ham học
tập để nâng cao trình độ của mình” và coi đây là một tiêu chuẩn, một giá trị
đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Từ đó, Người vạch rõ phương hướng,
nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là không được nhãng việc học tập, phải tu
dưỡng không ngừng, đối với người cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ”. Người đặt lên hàng đầu “lấy tự học làm cốt”, cán bộ,
đảng viên phải biết “tự động học tập”, phải xác định tư tưởng cho đúng. Học
tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành vi hàng ngày của cán bộ, đảng
viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập
nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về
đạo đức.
Học tập mọi lúc, mọi nơi, cán bộ, đảng viên phải tận dụng thời gian,
dành công sức, tranh thủ học tập, học ở trường, lớp, sách vở và học ở nhân


- 22 -


dân. Bác nhấn mạnh: nhân dân ta rất cần cù và sáng tạo, những giá trị văn
hoá, tinh thần do nhân dân sáng tạo là nguồn tri thức, là những kinh nghiệm
rất phong phú, là “những bài học quý”, do đó, cán bộ, đảng viên phải chịu
khó học hỏi ở nhân dân “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học
nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”. Và chính thông qua
học tập, tiếp xúc với nhân dân mà cán bộ, đảng viên có điều kiện gần gũi,
nắm được tâm tư nguyện vọng của nhân dân, từ đó tổng kết được tình hình,
nguyện vọng của dân. Từ đó, tham mưu, đề xuất tiếp tục bổ sung, sửa đổi,
hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân, tạo niềm tin, đồng thuận của dân và toàn xã hội tiến hành
sự nghiệp cách mạng. Người kiên quyết chống thói quan liêu, xa dân, không
chịu học hỏi nhân dân, coi khinh dân và coi đây là những quan niệm, hành vi
đối lập với phẩm chất của người cán bộ cách mạng cần phải được lên án, xử
lý.
Gắn học tập và làm việc, tư tưởng của Người về học tập nâng cao
trình độ của cán bộ, đảng viên là phải thiết thực, bổ ích, hiệu quả, sát với với
công việc của mỗi người; nếu không đạt được như vậy là “phí công, phí của,
vô ích”. Bác nhấn mạnh “học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý
luận8. Tri thức, lý luận của cán bộ, đảng viên tích lũy được trong học tập phải
nhằm giải quyết nhiệm vụ thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn ngày càng
đạt hiệu quả và chính thông qua hoạt động thực tiễn để sáng tạo, khái quát,
tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, bổ sung hoàn thiện đường lối cách mạng của
Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong học tập người học phải sáng tạo, biết
kế thừa tinh hoa tri thức của dân tộc và nhân loại. Phương pháp học tập là kết
hợp chặt chẽ giữa học với hành, lý luận gắn liền với thực tế, tích luỹ tri thức
với rèn luyện đạo đức cách mạng. Đối với nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin
là học tập “phương pháp biện chứng” chứ không rập khuôn, máy móc. Người
còn cho rằng trong học tập của cán bộ, đảng viên là khó khăn, lâu dài nhưng
nếu có quyết tâm cao, phương pháp học tập tốt thì mọi việc đều có thể làm



- 23 -

được “Không có việc gì khó. Chỉ e ta không siêng… siêng học tập thì mau
biết”
Trong tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc” được Hồ Chí Minh viết vào
năm 1947 cũng nêu rõ: “ Người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân” phải
có phẩm chất đạo đức cách mạng phải trung thành tuyệt đối với lý tưởng và
mục tiêu cảu Đảng, suốt đời rèn luyện đạo đức cách mạng để phục vụ nhân
dân. Do đó, Bác đã đặt ra vấn đề rèn luyện đạo đức đối với các đồng chí của
mình. Bác còn quan niệm, cán bộ, cán bộ lãnh đạo quản lý là những người
đem chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước cho nhân dân biết và
hướng dẫn dân thực hiện cho đúng, đống thời báo cáo tình hình của dân cho
Chính phủ rõ. Tác phẩm Sửa đối lối làm việc ra đời đến nay đã hơn nửa thế
kỷ, nhưng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và qua kháng chiến chống Pháp,
chống MỸ cũng như công cuộc xây dựn và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định
những đóng góp to lớn của đội ngũ những người lãnh đạo các cấp của Đảng,
Nhà nước được Bá rèn luyện, giáo dục theo tinh thần của cuốn sách. Đặc biệt
trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay cũng như trước yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu những quan điểm, tư tưởng của người
trong cuốn sách này vẫn là vấn đề mà mỗi cấp, ngành vẫn luôn luôn phải quan
tâm, lưu ý.


- 24 -

Phần III
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN
BỘ, CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI của Đảng ta đã chỉ ra: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác
cán bộ trong tình hình mới. Đổi mới công tác cán bộ vừa là nhiệm vụ trước
mắt và lâu dài, vừa là mục tiêu, yêu cầu tất yếu, bảo đảm sự lãnh đạo của
Ðảng trong công cuộc đổi mới. Việc đổi mới công tác cán bộ phải đặt trong
tổng thể của công tác xây dựng Ðảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của
Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng và
toàn bộ hệ thống chính trị phải thống nhất quan điểm, nhận thức, có giải pháp
đồng bộ và quyết tâm cao để thực hiện, tạo chuyển biến mạnh mẽ, mang lại
hiệu quả thiết thực, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo giành được thắng lợi
có đóng góp của đường lối cán bộ đúng đắn được hình thành từ sự vận dụng


- 25 -

và phát triển sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những tư tưởng ấy
ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Nếu mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng
viên chúng ta thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, biến nó thành phương châm
hành động, thành mục tiêu phấn đấu, thành phong cách lãnh đạo trên thực tế
thì nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng - những công bộc thực thụ
của nhân dân - sẽ đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng,
đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Ngày nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện sáng tạo những lời
dạy của Người để làm cho đất nước ta ngày một phát triển đi lên, đúng với
nguyện ước của Người. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là minh chứng hùng hồn nhất về việc thực hiện và làm theo
lời Bác. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và

tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo
dục, rèn luyện mình, xứng đáng là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là
“người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Đó là tinh thần
Trung với nước, Hiếu với dân.
Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn
của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống
nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống
anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam
chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền
văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích
của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, có ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo
nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi


×